SOẠN GIẢ TƯ CHƠI,

MẢNH VỤN CỦA MỘT V̀ SAO

Nguyễn Phương

 

Giới soạn giả cải lương trong các thập niên 50, 60, khi nghe nhắc đến cụm từ « Mảnh vụn của một v́ sao » th́ chúng tôi đều hiểu là những lời nói đẹp đó ám chỉ về soạn giả lăo thành Tư Chơi, một người kiến tạo nhiều v́ sao sân khấu và bản thân của soạn giả Tư Chơi, ông cũng đă từng một thời là một v́ sao sáng chói nhất trên bầu trời nghệ thuật sân khấu cải lương trong các thập niên 30, 40, 50. Nhưng sau đó, ông tự xem ḿnh là một người « nát rượu », một kẻ phế thải, một « mảnh vụn của một v́ sao » khi có một kư giả kịch trường gọi ông là ngôi sao sân khấu.

Cũng cần biết qua một vài đặc điểm của giới soạn giả thế hệ thứ nhứt của ngành nghệ thuật sân khấu. Hồi đó người ta gọi các ông soạn giả cải lương là « thầy tuồng ». Các ông soạn giả thuộc thế hệ thứ nhứt đó phần lớn là những nhà trí thức, những ông đốc phủ sứ, những công chức cao cấp, các giáo sư hoặc giáo học đă sáng tác và đứng ra tập tuồng, diễn tuồng cải lương nhân các dịp băi trường hoặc tổ chức gây quỷ trong dịp giúp nhà nước Pháp sau kỳ thế giới đại chiến lần thứ nhứt năm 1914 – 1918.

Theo nhà học giả Vương Hồng Sển, các công chức cao cấp làm việc trong ty soái phủ và các tư sở Saigon, cầm đầu là ông Lê Quang Liêm, gọi là ông Đốc Phủ Bảy, cùng với ông Hồ Văn Trung, tức nhà văn Hồ Biểu Chánh, cùng các bạn đồng liêu lập ra gánh hát hát tại nhà hát Tây và lưu diễn xuống các chợ Lục Tỉnh, hát tuồng « Gia Long Tẩu Quốc, Pháp Việt Nhứt Gia » .Trong gánh hát nầy có các nhà trí thức, kư giả gia nhập như quí ông Đặng Thúc Liêng, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Thành Phương, Thầy Hoài…Các ông làm diễn viên th́ được giới thiệu là Monsieur Lê Văn Lời… vai Sở Vương; Monsieur Nguyễn Văn Chà… vai Thái Sư…Messieurs Cao Hoài Sang, Cao Huỳnh Cư…

Làm thầy tuồng tập cho các nhà trí thức , công chức hát, nhứt định ông thầy tuồng đó phải có học vấn uyên thâm, phải hiểu nghệ thuật và cách cư xử ở đời, phải có phương pháp thuyết phục được diễn viên th́ họ mới sẵn sàng nghe theo lời chỉ dạy của ông  thầy tuồng.

Các ông thầy tuồng thế hệ thứ nhứt có các ông Phạm Công B́nh, Giáo Sư trường Chasseloup Laubat, các ông Châu Hồng Đào, ông Lê Quang Hộ, ông Đoàn Văn Tấn,…v…v, đó là những ông sinh viên cao đẳng gốc miền Nam, học ở HàNội, khi tốt nghiệp ra trường, họ là những luật sư, những bác sĩ y khoa hoặc giáo sư. Các ông thầy tuồng Mạnh Tự Trương Duy Toản, Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, Mười Giảng Nguyễn Công Danh… tuy theo Nho học nhưng cũng có học vấn uyên thâm, cũng có học tiếng Pháp, tiếng Anh, nói chung khi soạn tuồng th́ tŕnh độ của người soạn giả thời đó có thể dạy người diễn viên mọi mặt, ngoài vấn đề diễn ca trên sân khấu.

Hồi xưa, người  Việt Nam ḿnh c̣n chịu ảnh hưởng nặng về Nho học, c̣n tôn trọng các quan điểm đạo đức làm người như Quân, Sư, Phụ,  Tam cương, Ngũ thường…

Quân, Sư, Phụ…Trước hết người ta nói Trung với Vua. Kế đó là tôn trọng ông Thầy ( tức là Sư ), sau hết mới nói đến Hiếu với cha. Ông Thầy c̣n được kính trọng trên Cha ruột của ḿnh, v́ người ta thường nói : « Không thầy đố mầy làm nên ».

Trong sân khấu hát bội hay cải lương, ông Biện tuồng, ông Thầy tuồng được tôn trọng hơn cha ruột của người nghệ sĩ, v́ ông Biện tuồng, ông Thầy tuồng chính là những người viết ra những tuồng hát, chỉ dẫn  cho nghệ sĩ hát và nhờ tuồng hay, soạn giả giỏi mà nghệ sĩ được khán giả ưa thích, được nổi tiếng là những v́ sao trên bầu trời nghệ thuật sân khấu. Không có tuồng hay, không có ông thầy tuồng giỏi. đoàn hát sẽ mất khán giả, ră gánh và người nghệ sĩ không thể nổi tiếng, không có một cuộc sống sung túc huy hoàng được. Đây là một quy luật của sân khấu, từ khi nghệ thuật cải lương mới được h́nh thành cho đến ngày hôm nay, dù khoa học kỷ thuật tiến bộ có giúp cho việc trang trí, việc lo phục trang và trau dồi nhan sắc cho diễn viên tiến bộ rực rỡ đến thế mấy đi nữa, nhưng nếu

không có tuồng hay th́ người nghệ sĩ sân khấu cũng không có đất dụng vơ, không có thể phát triển và phô diễn tài nghệ ca, diễn của ḿnh được.

Vai tṛ của ông thầy tuồng, soạn giả quan trọng như vậy nên ở trong gánh hát, ông thầy tuồng được sự thương yêu và nể phục của tất cả các nghệ sĩ, các chuyên viên sân khấu kể cả ông bà bầu gánh hát.  Khi đoàn hát lưu diễn, di chuyển bằng xe hơi hay ghe chài, ông thầy tuồng được bố trí một chỗ ngồi hay chỗ ở ưu tiên như là một diễn viên chánh, kép chánh hay đào chánh. Các nghệ sĩ trong đoàn hát tranh nhau chiều chuộng « ông thầy » v́ ai cũng muốn ông thầy tuồng lưu ư đến ḿnh, ông thầy sẽ viết cho ḿnh một vai tuồng hay, một vai hát để đời.

Trong giới nghệ sĩ sân khấu người ta thường nói là ông thầy tuồng « đo ni đóng giày ». Viết một vai tuồng nào đó để cho diễn viên nào đó đóng là ông thầy tuồng đă nghiên cứu kỷ những khả năng ưu điểm của diễn viên, ông sẽ khai thác hết mức cái mặt mạnh nầy cho diễn viên đó có đất diễn trong tuồng. Đồng thời nghệ sĩ cũng hiểu rẳng ông soạn giả có tài là biết người nghệ sĩ được phóng vai tuồng đó có những sở đoản ǵ. Ông thầy tuồng sẽ có cách che lấp cái chổ yếu của diễn viên.

Ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền được các nghệ sĩ tiền phong Phùng Há, Năm Châu, Ngọc Trâm, Ngọc Hải tôn xưng là dưỡng phụ, mọi người trà dâng rượu mời, cúc cung tận tụy đối với ông và ông Mộc Quán cũng xử sự đúng tư cách cao quư của một vị sư phụ.

Những ông thầy tuồng thế hệ thứ hai sau các ông Mạnh Tự Trương Duy Toản, Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, Mười Giảng Nguyễn Công Mạnh  có các ông Tư Chơi, Năm Châu, Năm Nở, Tư Trang, Ba Giáo, Tư Thới, Năm Nghĩa, Bảy Cao…v..v…

* * *

Ông Tư Chơi tên thật là Huỳnh Thủ Trung, sanh năm 1906 tại xă An Hóa tỉnh Bến Tre. Ông Tư Chơi giỏi chử Nho, biết tiếng Anh và làm thơ rất hay. Ông cũng là một nhạc sĩ tài danh, chuyên đờn đoản. Bài vọng cổ Tiếng Nhạn Kêu Sương, nhịp tư của nghệ sĩ Tư Chơi mở đầu cho bản Dạ Cổ Hoài Lang của ông Sáu Lầu phát triển dần lên nhịp 8, nhịp 16, 32, 64…

Đây là bài vọng cổ nhịp tư, rút trong tuồng Khúc Oan Vô Lượng của soạn giả Huỳnh Thủ Trung tự Tư Chơi, do cô Phùng Há ca. Cô Phùng Há thủ vai Bích Vân than thở với con gái về việc chồng là Lê Gia Khanh (Năm Châu thủ diễn) bị hàm oan v́ tội sát nhân và bị đày ra Côn Đảo. Tuồng Khúc Oan Vô Lượng hát trên sân khấu Huỳnh Kỳ, sau đó dược tái diễn trên sân khấu Trần Đắc. 

1.            Đêm nào ngọn đèn khuya, mẹ đây chong trắng dĩa.

2.            Chàng ôi, nếu có gặp nhau họa chỉ trong giấc mộng huỳnh lương.

3.            Trời đất ôi! Vợ chồng tôi đang vui câu đầm ấm nơi cảnh gia đường,

4.            V́ ai gieo oan mà để cho thiếp phải cam dồn dập nơi khốn cảnh đoạn trường.

5.            Hơn bốn năm trường tựa nơi cánh cửa thiếp trông chờ.

6.            Đă biết rằng tuyệt vô hy vọng mà ḷng mong thiếp những hoài mong.

7.            Con ôi! Có lẽ khi cha con bây giờ, v́ nỗi cách xa vợ con, ĺa nơi cố quán,

8.            Nên đă tóc rối với da ch́, chịu hàm sầu nơi hải đảo, ṃn mỏi ḿnh ve.

9.            Lại c̣n lúc đêm khuya, mẹ vẳng nghe tiếng con hàn quyên kêu lẻ bạn,

10.          Mẹ đây ngơ ngẩn tâm hồn, mẹ mở cửa trông ra ḱa là muôn dặm trùng dương :

11.          Mờ mịt xa trông phù vân bích thủy, gió đưa cơn sóng dợn muôn đường.

12.          Cái cánh buồm ai xa xa, khi ẩn khi hiện trên mặt bể, mẹ tưởng khi cha con về, nhưng nào đâu phải cha con về!

Soạn giả Tư Chơi sáng tác nhiều tuồng xă hội như Khúc Oan Vô Lượng, Lở Tay trót đă Nhúng Chàm, Tiếng Nhạn Kêu Sương, Tôi Xin Chừa, Hai Mặt C̣n Trơ, Ai Là Bạn Chung T́nh, Em Muốn Tự Do… Các tuồng nầy đă làm mưa làm gió trên các sân khấu Huỳnh Kỳ, Trần Đắc từ Nam chí Bắc, với những ngôi sao sân khấu Phùng Há, Năm Châu, Tư Út, Kim Thoa, Kim Hui, Tư Thạch…

Soạn giả Tư Chơi cũng là người đầu tiên đưa nhạc Tây vào sân khấu cải lương. Thời đó các bản nhạc t́nh của Pháp rất thịnh hành ở Saigon, Hà Nội và các thành phố lớn ở Việt Nam như bài J’ ai deux amours, Marinella, Ma Tikiki Ma Tonkinoise, Tant qu’il y aura des étoiles…do nam ca sĩ Tino Rossi và nữ ca sĩ Joséphine Baker ca. Ông đă viết lời Việt nhạc Tây cho diễn viên ca trong tuồng của ông :

J’ ai deux amours

Mon pays est Paris

Par eux toujours

Mon cœur est ravi…

Được viết lời Việt trên sân khấu Trần Đắc :

Buồn thay nghề hát,

Trong xứ ta nhiều gương xấu,

T́m bạn đồng tạm

Đâu thấy ai? Nào đâu? 

Ông cũng đưa bản nhạc cải cách Việt Nam nổi danh thời đó như bài Buồn Tàn Thu của nhạc sĩ Văn Cao cho nữ nghệ sĩ Kim Thoa ca trong tuồng « Mă Lê Công Chúa », cô Kim Thoa cũng đă ca bài Ḥn Vọng Phu của nhạc sĩ Lê Thương trong tuồng «  Đêm Đông ».

Theo tài liệu của cụ Vương Hồng Sển : « Nhạc các phim chớp bóng – nói( cinéma-parlant) vừa du nhập Saigon, được Tư Chơi áp dụng vào các tuồng ca kịch của anh vừa soạn xong, trong «  Tôi Xin Chừa », đến tuồng«  Hai Mặt C̣n Trơ »  đă khai thác triệt để tài nghệ chớm nở của cô gái tơ xứ hoa súng miền Tây, đẹp riêng biệt với sắc đẹp « Hậu Giang » của cô gái Việt có chút máu Tàu trong huyết quản. Hăng dĩa Béka độ đó cho ra đời một mớ dĩa thâu tiếng hát của cô gái nầy qua các bài ca Việt đệm nhạc Tây, trước xa lắc dĩa cô Ái Liên gái Bắc. »( trích « Hồi kư Năm mươi năm Mê Hát, Năm Mươi Năm Cải Lương » của cụ Vương Hồng Sển.)

Cô gái Hậu Giang ca nhạc cải cách và nhạc Tây rất hay đó là nữ nghệ sĩ Kim Thoa, quê quán Cần Thơ, người vợ thứ hai của ông soạn giả Tư Chơi.

Soạn giả Tư Chơi cũng là người đầu tiên sáng tác và cho tŕnh diễn trên sân khấu đoàn Trần Đắc và đoàn cải lương Kim Thoa loại tuồng vui, có ca cổ nhạc và tân nhạc, ông đặt cho nó tên là Hoạt Kê Hài Hước. Hoạt Kê Hài Hước giống như opérette musicale của Pháp, nhạc dùng trong Hoạt Kê Hài Hước là những bản nhạc ngắn, sáng tác theo điệu tân nhạc nhưng được dùng âm giai ngũ cung nên dàn nhạc Tây và dàn nhạc cổ Việt Nam có thể ḥa tấu các ca khúc nầy. Các vở kịch Hoạt Kê Hài Hước được soạn cho bốn năm diễn viên nam và nữ, với một thời lượng từ 30 đến 45 phút, nội dung góp phần xây dựng phong hóa Việt Nam, đă kích các thói hư tật xấu trong xă hội, được hát sau khi tuồng hát chánh kết thúc. Trong cuối thập niên 30 và những năm đầu thập niên 40, nhiều khán giả mua vé xem tuồng cải lương của đoàn hát Kim Thoa chỉ v́ họ rất yêu thích các màn hoạt kê hài hước nầy.

Ông Tư Chơi làm thơ rất hay, là người sống rất có t́nh cảm với nghệ sĩ đồng nghiệp nhưng bản thân của ông th́ ông sống buông thả, thường phạm lổi lầm với những người cật ruột trong gia đ́nh. C̣n nhớ khi nghệ sĩ Tư Út( tên tộc là Phạm Thế Đẩu) bị bịnh, chết bất ngờ khi anh theo đoàn hát Phụng Hảo đi lưu diễn trên Nam Vang, ông Tư Chơi đă khóc bạn bằng bốn câu thơ :

Tư Út em ôi, vội chết dâu?

Để cho kẻ thảm với người sầu.

Những thằng đáng chết, sao không chết ?

Lại chết chi thằng đáng sống lâu!

Nghệ sĩ Tư Chơi là người chồng đầu tiên của nữ diễn viên tài sắc Phùng Há. Hai người có được một con gái tên là Lư Bửu Trân( sanh năm 1926, mất năm 1959). Cô Lư Bửu Trân không lấy họ Huỳnh theo họ của cha là Huỳnh Thủ Trung v́ khi c̣n rất bé, cô Bửu Trân theo mẹ về quê Hạc San ở Trung Quốc để thăm quê nội th́ dượng của cô( chồng của người em gái ruột của cô Phùng Há : Trương Liên Hảo) nhận Bửu Trân làm con nuôi và lập tờ khai sanh họ Lư cho Bửu Trân.

Hôn nhơn thứ nhứt gảy đổ, soạn giả Tư Chơi rời đoàn hát Huỳnh Kỳ.

Năm 1929, ông gia nhập gánh hát Trần Đắc. Nơi đây ông viết tuồng « Lở Tay Trót Đă Nhúng Chàm », ông ra sức đào luyện cho một cô gái mới trốn nhà theo gánh hát, cho cô thủ vai chánh trong tuồng và biến cô trở thành một cô đào chánh sáng giá không kém ǵ cô Phùng Há. Đó là cô Kim Thoa, cô gái Hậu Giang 14 tuổi, vừa trốn nhà, xuống ghe hát để theo chị ruột của cô là nữ nghệ sĩ Kim Hui. Tên Kim Thoa là do ông thầy tuồng Tư Chơi đặt cho. Ông thầy tuồng triệt để khai thác giọng kim, giọng ca  trong trẻo của cô Kim Thoa qua các bản nhạc Pháp^lời Việt và các bản tân nhạc, t́nh ca lảng mạn của những nhạc sĩ lừng danh Văn Cao, Lê Thương, Đặng Thế Phong,…

T́nh thầy tṛ đậm đà gắn bó biến thành t́nh phu thê nồng ấm, Tư Chơi và Kim Thoa thành một đôi vợ chồng nghệ sĩ mà thời bấy giờ những nghệ sĩ cải lương và khán giả đều ngưởng mộ. Gánh hát Kim Thoa có một giàn nhạc Tây rất hay dưới sự điều khiển của nhạc trưởng Bénito, nhờ vậy các bài ca nhạc Pháp lời Việt được dàn nhạc nầy đệm cho ca sĩ hát, thu hút khán thính giả trong giai đoạn mà âm nhạc cải cách và nhạc Tây lời Việt đang rất thịnh hành ở Việt Nam.

Với giọng hát thiên phú, với lối diễn xuất đậm đà t́nh cảm và sắc đẹp của một hoa khôi Hậu Giang, nữ nghệ sĩ Kim Thoa có một sức hút khán giả kỳ diệu. Cộng với những tuồng hay và các màn hoạt kê hài hước của soạn giả Tư Chơi, với một sự hổ trợ đắc lực của giàn nhạc Tây Bénito và giàn đào kép tài danh như Năm Châu, Tám Mẹo, Tư Thạch, Ba Du, Tư Út, Kim Hui, Kim Anh, Ngọc Sương, Ngọc Hải… gánh hát Kim Thoa là gánh hát đại ban ăn khách nhất từ Saigon đến HàNội và tất cả các tỉnh thành trong toàn quốc. Gánh hát Kim Thoa cũng gặt hái thành công rực rở khi đi lưu diễn ở Nam Vang, ở Lao…Ông Bầu kiêm soạn giả Tư Chơi giàu quá sức giàu, có villa, nhà lầu, có cả tàu kéo, ghe chài, xe hơi và phố cho mướn, nhưng ông lại là một người vừa nghiện rượu vừa mê gái nên ông bị vợ nhà bỏ. Ông bèn bán hết ghe chài, tàu kéo, villa, phố xá, gởi hết số tiền bán gia sản đó cho các nhà hàng, quán rượu và đến đó uống rượu say mèm hằng ngày, say như một cái hủ ch́m, uống rượu để trừ dần cho hết số bạc đă kư gởi.

Đây là một đoạn ngắn trong nhựt kư của cô Bửu Trân viết về cha cô là ông Huỳnh Thủ Trung, được kư giả Trần Tấn Quốc cho đăng báo Tiếng Dội Kịch Trường( năm 1960) nhân kỷ niệm một năm sau khi cô Bửu Trân mất v́ bị bịnh ung thư máu tại nhà thương Grall. Chính cô Bảy Phùng Há đưa trang nhựt kư này nhờ anh Trần Tấn Quốc đăng để kỷ niệm cô con gái thân thương và cũng để minh định ḷng hiếu thảo của cô Bửu Trân đối với cha ḿnh :

«Cha ḿnh, nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung( nghệ danh Tư Chơi) là người chồng trước nhứt của má( Phùng Há), một nhạc sĩ điêu luyện mà người ta thường nói là tiếng đờn đoản như tiếng chim hót. Cha ḿnh cũng là một tác giả lừng danh. Ngay như lần đầu tiên khi ḿnh ở Hạc San về, ḿnh gặp lại Cha ở sau rạp Nguyễn Văn Hảo th́ má của ḿnh đang diễn tuồng của Cha ḿnh sáng tác. Cha ḿnh là một con người tài hoa, Nho học cũng thông, tiếng Tây, tiếng Anh cũng giỏi. Những vở tuồng Cha dịch ra từ tiếng Pháp, tiếng Hoa, cho măi tới bây giờ người ta vẫn đem ra tŕnh diễn. Cha là nhà cách tân sân khấu. Những h́nh thức mới lạ của sân khấu Đông Tây cũng đều được Cha đưa ra thực hiện trên sân khấu cải lương. Nhưng Cha thất chí v́ cái ǵ ḿnh không biết mà trở thành con sâu rượu, sống bê tha, không cần biết tới ai nữa mà cũng chẳng cần ai biết tới ḿnh. Nghĩ tới t́nh cảnh của Cha, ḿnh buồn quá nhưng không biết làm sao cho Cha ḿnh đừng buồn nữa….»

Người vợ thứ hai của nghệ sĩ Tư Chơi là nữ nghệ sĩ tài danh Kim Thoa. Hai ông bà có được một người con trai là tay trống xuất sắc của các pḥng trà ca nhạc Saigon : tay trống Huỳnh Háo. Nghệ sĩ Tùng Giang, một nghệ sĩ lừng danh trong giới nhạc trẻ Saigon là đệ tử của nhạc sĩ Huỳnh Háo.

Năm 1954, khi ḥa b́nh vừa lập lại sau 9 năm chiến tranh Việt – Pháp, dân chúng Saigon được sống yên ổn, hết sợ bị ruồng bố, hết sợ bị liệng lựu đạn nơi các đăng xinh, rạp hát nên các đoàn hát hát ở Saigon cũng được đông đảo khán giả đến xem hát.

Tết năm 1954, gánh hát Thanh Minh hát tại rạp Nguyễn Văn Hảo. Ông Bầu Ngjĩa tổ chức cho múa lân sau rạp hát và lân đi ṿng quanh rạp từ đường Galliéni ( tức đường Hưng Đạo) ṿng ngang vũ trường Tour D’ Ivoire rồi theo đường Bùi Viện ṿng ra trước rạp. Tôi cũng theo đoàn múa lân vui với các bạn. Tới gần nhà của ông chủ hăng dĩa Tứ Hải, tôi thấy có một  người say rượu, lảo đảo bước đi. Người đó đi đến gần tôi, vổ vai tôi hỏi : « Chú em! Chú em có nhớ tôi không? »

Tôi vội trả lời : « Em nhớ anh Tư chớ…Anh là bậc thầy của sân khấu, là ngôi sao sân khấu, nghệ sĩ tụi em làm sao mà không nhớ, không biết anh chứ!»

- Thôi! Bỏ đi… Tao hỏi có một câu, mầy nổ một hơi như tụi nó đốt pháo kia ḱa… Đi… Đi nhậu với anh Tư mầy…».

- Nói xong, anh Tư Chơi ( trong sân khấu, chúng tôi quen gọi nhau bằng anh và bằng tên của nhau khi chúng tôi không cách xa tuổi nhau quá nhiều. Gọi chú, bác hay ông th́ anh Tư Chơi nói : Mầy chê tao già hả?. Vậy nên nói chuyện với anh, tôi vẫn gọi anh Tư Chơi, anh Năm Châu, anh Năm Nở, anh Tư Trang…). Đó, người quàng vai tôi, đi bước thấp bước cao, hơi thở nồng nặc mùi rượu, cặp mắt mở lim dim, khóe mắt lúc nào cũng đo đỏ, ươn ướt như sắp khóc, người đó trước đây là một ngôi sao sân khấu, một thần tượng của tôi khi tôi c̣n là một học sinh trung học. Bây giờ th́ tôi không biết nên dùng danh từ ǵ để mà diễn tả được cái t́nh trạng bi thảm của một con người đang tuột xuống hố thẳm mà không ai có cách ǵ để mà cứu vớt lên được.

- Nguyễn Phương, ḿnh lại ngồi ở cái quán cóc ở ngă tư kia, sát sau cái hăng nước mắm đó mà uống rượu. Ngồi ở cái ngă tư mới nh́n quanh nh́n quẩn được. Chỗ nầy nổi danh Ngă Tư Quốc Tế, mầy có biết tại sao không? V́… ḱa cái tiệm bi da Thanh Tâm, anh Tư chủ tiệm cho mượn cái địa chỉ của tiệm để các nghệ sĩ đi Nam ra bắc, ai có cần gởi thơ về cho các nghệ sĩ không nhà mà đang theo đoàn hát ở Saigon, họ tới đó mà nhận thơ. CÓ nhiều đứa gởi thơ mà không tiền mua c̣ để gởi, nhà giây thép phạt, ông chủ tiệm vẫn vui ḷng trả tiền phạt để cho thơ đừng bị thất lạc. Mầy có thấy ông ta có ḷng hào hiệp không?

- Dạ, anh TƯ nói đúng!

- C̣n nữa, cái tiệm nước VĨnh Toàn sát sau rạp hát, chỗ đó bán chiu cho các nghệ sĩ nghèo, đứa nào đói mà chưa lănh được lương hay đang thất ngjiệp, có thể tới đó ăn hủ tíếu trừ cơm, biên sổ rồi tới cuối tháng trả tiền, tao cũng từng uống rượu thiếu chịu ở đó. Ông chủ là người Tàu, nhưng tử tế nên ai thiếu tiền th́ cũng ráng kiếm tiền để trả, không qi quịt tiền của ổng… Ở cái quán Vinh Toàn của cái ngă tư Quốc Tế nầy, các anh kư giả kịch trường như Văn Thà, Đức HIền, T́nh Thiệt, Thanh Đạm, Tô Yến Châu…những người đi săn tin, bắn tin về kịch trường lúc nào cũng btúc trực ở đây. Nếu nhà hàng Givrall lá cái radio Catinat th́ ngă tư quốc tế nầy là cái radio cải lương. Ai muốn biết tin tức chính trị th́ tới Givral, ai muốn biết tin tức đào kép hát cải lương th́ tới cái ngă tư Quốc Tế nầy…

- Dạ…

- Mầy dạ hoài vậy! Làm một ly cho nóng máy rồi nói chuyện với tao. Nguyễn Phương! mầy uống rượu chớ có phải là thuốc độc đâu mà mầy á khẩu vậy? Nói chuyện ǵ với tao đi chớ…

- Em muốn học soạn tuồng, vậy anh nói chuyện của anh đi, em c̣n học được điều ǵ đó, chó cái ngă tư quốc tế nầy th́ em cũng là một cư dân ở đây, anh kể làm ǵ?

- Mầy học viết tuồng? Tao th́ đă hết viết rồi, có biết ǵ đâu mà dạy mầy? Ờ… theo mầy.. cuộc đời là ǵ?

Tôi biết anh Tư Chơi là một nhà thơ lỗi lạc, muốn chọc cho anh nói th́ phải đánh trúng tinm đen của anh. Tôi nói : « Tôi là học tṛ của anh, vậy tôi nói trật th́ anh sửa dùm nhe.

Cuộc đời… cuộc đời là ǵ ?

Cuộc đời chỉ là một tṛ vui,

Có người thương, người ghét,

Có kẻ khóc người cười.

Có kẻ ước muốn yêu đương,

Có người thèm khát danh phận,

Kẻ trong bóng tối th́ đ̣i ra ánh sáng,

Kẻ giữa ban trưa lại chán nản mặt trời!

Tất cả chúng ta đều như vậy thôi.

Mong muốn ! Khát thèm ! Đó mới là tội lỗi,

Trời dành riêng để trừng phạt loài người.

Anh tư vổ tay một cái, nói : « Đúng ! Nhưng chỉ mới đúng có một phần nhỏ thôi. V́ đó là cách nh́n chung chung, chớ tao đố mầy dám nói thẳng sự thật. Ở đời, c̣n có phe nầy với phe kia, mầy nói sự thật, có lợi cho phe nầy th́ phe kia nó sẽ khẻ đầu mầy. Ngược lại, nếu mầy nới chung chung, không nói huỵt tẹt ra th́ không khác ǵ mầy xài bạcgiả, chỉ hơi giống giống thôi chớ không đúng y như thật! Tao v́ không muốn xài bạc giả mà tao chịu nghèo, tao bỏ nghề viết…lách…Viết mà lách th́ đừng viết…

Tôi hỏi : « Có phải tại v́ vậy mà anh t́m quên trong hương rượu men t́nh ?»

- Anh TƯ của mầy chỉ t́m quên trong men rượu chớ không có hương t́nh. Nói tới cái chữ t́nh th́ anh TƯ mầy ớn càng rồi! (  Anh TƯ bỗng cao hứng, ngâm lớn)

- Th́ chúng ta đây cứ việc say,

- Khen chê thương ghét tự ḷng ai

- Thế sự thăng trầm giai bất biết,

- Quanh năm chỉ biết say cùng say.

- Say rồi ai cũng chẳng ra ai,

- Cứ măi lai rai suốt cả ngày,

Tôi thêm   :               

« Không nghĩ cách chi làm có lợi,

Tiền đâu mua rượu để mà say?

Anh Tư Chơi nắm hai vai tôi lắc lắc, kê mặt sát mặt tôi, lè nhè : « Tiền ? Cũng cái chữ tiền nầy nó làm khổ anh Tư mầy đó!( Anh lại ngâm lớn)

Tôi biết ăn đâu với ở đâu?

Cánh chim uể oải giữa trời sầu

Muốn về tổ cũ, không về đặng

Đâu biết ăn đâu với ở đâu.?

Tôi nắm tay anh Tư Chơi, mời anh về nhà tôi ở, ở bao lâu cũng dược.

Th́ cứ ăn đây với ờ đây,

Anh, tôi, t́nh bạn đă lâu ngày,

Mỗi khi bạn đă không nhà ở

Th́ cứ ăn đây với ở đây!

Anh Tư Chơi lắc đầu quầy quậy : Cám ơn! Cám ơn Nguyễn Phương! Mầy sống có nề nếp, khuôn khổ, tao chỉ cần nh́n cái nề nếp khuôn khổ của gia đ́nh mầy là tao cũng đủ nhứt đầu bể óc rồi. Tao có cái triết lư sống của tao.

- Triết lư sống của anh là ǵ ?

- Mầy có biết mấy câu thơ thần của  thi hào Lư Bạch Không? ( anh ngâm lên)

Hoa gian nhất hồ tửu,

Độc chước vô tương thân

Cử bôi yêu minh nguyệt

Đối ảnh thành tam nhân,

Dưới hoa một hũ rượu ngon

Uống rồi lại rót, chỉ c̣n ḿnh ta 

Nâng chung mời chị Hằng Nga

Cả ḿnh, cả bóng, thành ra ba người.

Tôi nói: Anh là ngôi sao sân khấu, dù có lúc bị mây che mờ, nhưng ngôi sao vẫn là ngôi sao. Tài năng của anh vẫn có thể dành lại cho anh một vị trí xứng đáng trên ṿm trời nghệ thuật.

Anh Tư Chơi lắc đầu: « Những nghệ sĩ khác… những ngôi sao kia dù có xa rời sân khấu nhưng vẫn c̣n h́nh dánh của những v́ sao. C̣n tôi bây giờ là một cái khối nát vụn chẳng c̣n h́nh thù ǵ rơ rệt của một v́ sao. Thôi, dẹp cái chuyện buồn đó đi. Chú có thương tui th́ uống với tui đêm nay.

Đêm đó, anh TƯ làm một ly, tôi lỳ một lam, cứ chén thù chén tạc như vậy cho tới khuya. Con lân Thanh Minh đă dẹp trống, dẹp đồng lố, bọn họ đi ngủ hay đi ăn nhậu ở đâu đó rồi. Dàn đèn rọi chiếu phía sau rạp hát cũng đă tắt, trả lại cái bóng tối cố hữu của cái hẻm của tiên ông và tiên cô, chỉ c̣n một già một trẻ say ngất ngưởng bên chiếc bàn thấp lè tè của cái quán cóc bên vệ đường.

Vợ tôi thấy khuya quá mà tôi chưa về nhà, bèn ra rạp kiếm, thấy tôi nằm gục bên bàn rượu với anh Tư Chơi. Cô bán rượu cũng đi về đâu mất rồi, vợ tôi bèn kêu xe cyclo chở tôi về nhà và kêu mấy anh dàn cảnh khiêng anh Tư Chơi vô rạp để cho anh ngủ dưới hầm sân khấu.

Thật là một cái TẾt quá vui v́ đó là cái Tết của năm ḥa b́nh đầu tiên và cũng là một cái TẾt quá thắm thía cho tôi khi tôi nghĩ về Tư Chơi, một người không biết sẽ đi về ngỏ rẽ nào của cuộc đời. Sau cái Tết đó, không ai biết anh Tư Chơi đi đâu, ở đâu.

Tôi được biết là cô Bữu Trân nhiều lần mướn nhà để rước ba cô về ở, nhưng anh từ chối. Nhạc sĩ Huỳnh Háo cũng muốn nuôi cha, nhưng ông không chịu. Cô Bảy Phùng Há đưa tiền nhờ người đến trợ giúp cho anh và dấu không cho biết là cô Bảy giúp. Chỉ một hai lần nhận tiền, sau đó anh Tư biết, anh bỏ về quê nhà ở An Hóa. Nghe đâu có một thời gian anh TƯ Chơi sống với nhạc sĩ Lê Thương.

Các nghệ sĩ trẻ bây giờ có nghe kể về người soạn giả tài danh TƯ Chơi, ai cũng nghĩ là giá mà anh Tư đừng uống rượu như vậy, giá mà anh TƯ giữ tư cách của một bậc thầy, đừng yêu đương sàm sở đến độ người nghệ sĩ đàn em hết kính trọng th́ biết đâu là anh TƯ sẽ c̣n sáng tác nhiều kịch bản hay, c̣n có nhiều sáng kiến canh tân sân khấu!..

Nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung tức soạn giả Tư Chơi , mất ngày 06 tháng 07 năm 1964, an táng tại nghĩa trang nghệ sĩ, do HỘi Ái Hữu Nghệ Sĩ an táng và lập mộ.

Đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga lưu diễn miền Trung, khi trở về Saigon, chúng tôi mới biết tin anh Tư Chơi mất nên tôi chỉ đến thắp được một nén nhang tưởng niệm và chụp bức ảnh mộ bia của anh để gọi là chút ḷng thương tưởng người bạn già năm xưa.

Tôi định cư ở Canada, năm nào về thăm quê hương tôi cũng đến chùa nghệ sĩ và nghĩa trang nghệ sĩ, thăm viếng bà bảy Phùng Há trước tiên, sau đó viếng mộ và thắp nhang cho các anh Năm Châu, Tư Chơi, bà Kim Thoa, Ba Vân….

Cầu cho hương hồn các anh chị về bên kia thế giới, lập một gánh hát cải lương, ca vọng cổ cho Ngọc Hoàng Thượng Đế và chư tiên nghe chơi, anh Tư Chơi có viếng cung trăng, gặp Chị Hằng, xin chừa cái tật rượu và mê người đẹp, chị Hằng chắc sẽ dành cho anh một chổ đẹp tuyệt trần trên cung Quảng.

Mong lắm thay! J