Nguyễn
Vĩnh Bảo,
bậc
thầy của âm nhạc tài tử miền Nam
Nguyễn Thuyết Phong
[Thầy Vĩnh
Bảo biểu diễn tiếng đàn tranh tuyệt
diệu của thầy]
Qua hướng dẫn bằng thông tin điện
tử từ một sinh viên ở Mỹ, tôi đi vào ngơ
rồi lại ngách của một con phố nằm bên hông
chợ Bà Chiểu. Ngược xuôi ba lần tôi mới t́m
ra ngôi nhà khiêm tốn của người mà tôi hằng mong
được gặp từ ba mươi năm qua,
người có tiếng đàn đă từng vang xa
đến những thính đường đại học
Sorbonne, Washington, Kent, hay trên làn sóng phát thanh “Tinh Hoa” nơi
quê nhà ngày nào: Nguyễn Vĩnh Bảo. Với tên nghệ
sĩ người ta thường gọi một cách thân
quen “Vĩnh Bảo” hay các băng nhạc “Nam B́nh” khiến
nhiều người lầm tưởng ông thuộc
giới hoàng tộc Huế. Thực ra, mảnh đất
vùng nước nổi hằng năm Cao Lănh (tỉnh
Đồng Tháp) là sinh quán. Chỉ ba ngày sau khi tôi gặp
ông, theo kế hoạch đă định sẵn, tôi
đưa đoàn sinh viên Mỹ đi khảo sát vùng
đất nầy, vùng đất quen “sống với mùa
nước lớn”, tôi vô t́nh biết ông xuất thân từ
vùng ấy, càng hiểu được tại sao tiếng
đàn của ông mênh mang, huyền diệu như cơn
nước muôn trùng. Tôi càng hiểu rơ hơn giá trị
của sinh thái đối với con người âm
nhạc, trực diện với sông nước từ
thủa tấm bé như ông.
Ông tiếp tôi qua những giây phút ban đầu
với vẻ ngỡ ngàng, không kém ǵ cảm giác riêng tôi
đối với ông. Cái ǵ khiến chúng tôi cùng chịu
những băn khoăn như thế!? Chúng tôi biết nhau
qua tên, qua việc làm, từ rất lâu. Hẳn nhiên với
tuổi đời, tuổi nhạc, ông cách tôi mấy
thế hệ, ông là bậc thầy. Tuy nhiên, mầu
nhiệm thay, cảm giác ấy vụt qua rất nhanh,
biết ra rằng, trong im lặng, chúng tôi trách nhau về
cái “hoàn cảnh” khiến không được gặp nhau
sớm hơn! Không khí bỗng dưng “nổi đ́nh
nổi đám”. Tôi hết sức sững sờ trong
nỗi vui mừng! Ông mang hết cây đàn này đến
cây đàn khác ra đàn cho tôi nghe, giải thích cho tôi hiểu
— cái tự nhiên hôm ấy khiến tôi nhớ lại h́nh
ảnh rất thân yêu, bằng hữu, tương tự
như trong giây phút đầu gặp gỡ nhạc sĩ
(quá cố) Trần Hoàn năm 1993. Ông c̣n giở ra từng
trang thơ làm bằng tiếng Pháp, những bài viết
bằng tiếng Anh. Nếu không đến đây, bạn
sẽ không thấy được một con người
tài hoa, và cũng không biết được một con
người không những có tầm tri thức rất
lớn về âm nhạc, mà c̣n về cuộc đời
nữa. Một con người rất đa dạng. Không
những ông nắm hết các kỹ thuật chơi
đàn, đóng đàn, mà c̣n cả một hệ thống lư
thuyết và ứng dụng âm nhạc mà sách vở không
thể tả hết. Điều đó thể hiện nét độc
đáo của phương pháp truyền khẩu tiềm
tàng trong một nghệ nhân có một quá tŕnh nghệ
thuật lâu dài.
Ông sinh ra trong một ngôi làng nhỏ (Mỹ Trà)
thuộc huyện Cao Lănh, tỉnh Đồng Tháp, vào năm
1918. Ban đầu học đàn với cụ thân sinh
Nguyễn Hàm Ninh (nghệ nhân, nhà Đông y), sau đó học
với Hai Ḷng (Vĩnh Long), Năm Nghĩa, Sáu Tư (Trà Ôn). Dù
có năng khiếu âm nhạc phi thường, thuở c̣n
thơ, thân sinh ông sợ con ḿnh mê đàn sẽ chểnh
mảng việc học văn hóa. Lạ lùng thay, khi
nghỉ chơi đàn th́ cậu bé Vĩnh Bảo lại
học dở! V́ thế thân sinh ông phải cho đàn
trở lại. Măi về sau, với ḷng đam mê học
nhạc, ông tự nhận đă học với hơn 200
vị dù ít dù nhiều. Trên thực tế phần lớn
ông tự học; và mỗi khi học với một
người thầy th́ không quá một tháng là đủ
số lượng bài bản cần thiết để
chuyển qua một vị khác.
Trong lĩnh vực biểu diễn, ông là thế
hệ kế tục các nhạc sư Cao Văn Lầu
(tức Sáu Lầu, Bạc Liêu), Trầm Văn Kiên (tức
Mười Kiên, Cần Thơ), và cùng hoặc xấp
xỉ thế hệ với Chín Kỳ, Nguyễn Văn
Thinh (tức Giáo Thinh), Hai Biểu, Chín Trích, Hai Khuê, Bảy
Hàm, Mười Tiễng, Năm Cơ, Văn Vĩ, Sáu
Tửng, v.v. Sớm tiếp cận với văn hóa tây
phương, trong lúc dạy tiếng Pháp ở trường
Ngô Quang Vinh (khoảng năm 1947) ông cũng đă chơi
piano, violon, mandoline, và guitare.
Đặc điểm trong tiếng đàn tranh
của ông là sự lưu loát, sang trọng, thanh thoát
khiến người bạn tri âm của ḿnh là Giáo sư
Trần Văn Khê có nhận xét trong một buổi
giảng tại Hoà Lan: “Tôi chưa nghe ngón đàn tranh nào hay
hơn ngón đàn của nhạc sư Nguyễn Vĩnh
Bảo, vừa ‘bay bướm’ vừa ‘sâu sắc’”. Không
dừng lại chỉ ở tiếng đàn tranh mà ông c̣n
tuyệt diệu qua nhiều nhạc cụ khác như ḱm,
gáo, tỳ bà, độc huyền (bầu), v.v. Ông bước
vào làng âm nhạc chuyên nghiệp rất sớm, tức
năm 1938, ḥa quyện tiếng đàn gáo Vĩnh Bảo,
tiếng đàn tranh Năm Nghĩa, tiếng đàn ḱm Ba
Cần, vào tiếng ca lănh lót của cô Ba Thiệt (chị
của cô Năm Cần Thơ) trong đĩa Béka.
Về căn nhà ấm cúng nầy, tôi lắng nghe
từng tiếng rung, tiếng nhấn điêu luyện, tha
thiết trên phím đàn ḱm (nguyệt), trên dây đàn gáo,
đàn tranh và đáng lưu ư hơn hết là ở tuổi
88, nhạc sĩ Vĩnh Bảo không sai sót bất cứ cao
độ âm thanh tinh tế nào trong nhạc dân tộc. Ông
sống với chúng từ hơn tám mươi năm theo
từng nốt thăng trầm của đất
nước, của đời người. Ông c̣n là nhà sáng
tạo âm thanh và nhạc cụ. Tôi theo dơi những dẫn
giải say sưa, nhiệt t́nh, rơ ràng của ông về sáng
tạo “dây tỳ” (quăng tám) và “dây xề-liu” (quăng tư)
hồi năm 1935 và minh họa cho tôi xem một cách hết
sức nhuần nhuyễn kỹ thuật diễn tấu
hai loại dây lạ lùng, thú vị nầy. Câu chuyện “dây
tỳ” – “dây xề-liu” khởi động từ bối
cảnh thiên nhiên. Lúc sống ở Campuchia, trên
đường đi thăm một ngôi chùa trong một
đêm trăng sáng ông nghe tiếng ếch kêu thảm năo,
khiến ông nghĩ ra một cách tạo âm cho cây đàn gáo
qua cách lên dây mới nầy. Sáng tạo ấy quả t́nh
bắt gặp tư duy thiên nhiên của Olivier Messian, nhà
soạn nhạc Pháp, khi ông nầy ghi âm, nghiên cứu
tiếng chim nhiều nơi trên thế giới cho một
số các tác phẩm đương đại của ông.
Tuy nhiên, sáng tạo nổi bật nhất của ông
là việc cải tiến đàn tranh với 17, 19, và 21 dây.
Âm thanh của tiếng tranh Nguyễn Vĩnh Bảo đáp
ứng thẩm mỹ cao; h́nh dáng trở nên đẹp
hơn, thực dụng hơn cho việc diễn tấu.
Ông cũng là người đầu tiên thử nghiệm
thành công gỗ kiri Nhật Bản cho đàn tranh Việt
Nam. Đây là một loại gỗ có vân tuyệt
đẹp, chất xốp vừa đủ, và cho âm vang
thật trong, sáng. Tôi được niềm hân hạnh
lớn trong đời được có cây đàn tranh
Nguyễn Vĩnh Bảo duy nhất dùng nguyên hảo gỗ
kiri ấy (nguyên để đóng đàn koto Nhật) trong
nhiều đĩa nhạc và trong suốt thời gian
trắc nghiệm khoa học âm thanh (acoustics) tại
đại học Washington (1987-89). Hai nhà khoa học Edward
Burns và Douglas Keefe ở đây đánh giá độ vang
loại đàn tranh Nguyễn Vĩnh Bảo là dài nhất
trong các loại đàn tranh châu Á. Ngoài âm sắc đẹp,
quư phái, kết quả thử nghiệm đó quả
đáng ghi nhận hay nhất trong lịch sử chế tác
đàn tranh Việt Nam. Lại nữa, hiện nay cả
nước thường sử dụng đàn tranh 17 dây,
bắt nguồn từ sáng tạo của nghệ nhân
Nguyễn Vĩnh Bảo. Cải tiến nhạc cụ
của ông có định chuẩn dân tộc cao, không lai căng,
đi sai lệch truyền thống như một số các
trường hợp gần đây. Đó là điểm son,
đồng thời là minh chứng hùng hồn nhất
về đóng góp của ông cho nền văn hóa dân tộc.
Việc nầy, tôi thiết nghĩ nhờ vào khả
năng duy nhất: chính ông là nhạc sĩ biểu diễn
tài t́nh và là bậc thầy cầm cân nẩy mực của
một hay nhiều thế hệ nhạc sinh. Ông phát
biểu trong ấn bản đĩa OCORA – Radio France, 2002
như sau: “Toujours insatisfait de moi-même, je ne m’arrête jamais sur un
résultat acquis. Mon oeuvre est en transformation perpétuelle. Je tente
constamment de varier mes procédés de trouver chaque jour d’autre moyen
d’expression” (Luôn luôn không hài ḷng với chính ḿnh, tôi không bao
giờ dừng lại ở kết qủa đạt
được. Tác phẩm của tôi luôn ở trạng
thái biến đổi trường cửu. Tôi không ngừng
thay đổi mỗi ngày bằng một phương
thức diễn tả mới)
Hai nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo và Nguyễn
Hữu Ba là hai nhà trí thức âm nhạc, là chim đầu
đàn của cả thế hệ âm nhạc toàn miền
Nam giữa thế kỷ 20. Thầy Vĩnh Bảo đă
góp công đào tạo các thế hệ giảng viên nồng
cốt của Nhạc Viện thành phố và cả
nước như Nguyễn Văn Đời (nguyên Chủ
Nhiệm Khoa Nhạc Cụ Dân Tộc), Phạm Thúy Hoan,
Quỳnh Hạnh, Hoàng Cơ Thụy, hay thậm chí
đến các nghệ sĩ trẻ tên tuổi đoạt
Giải nhất đàn tranh toàn quốc như Nguyễn
Thanh Thủy (Nhạc viện Hà Nội) cũng t́m
đến thầy Vĩnh Bảo hầu tiếp thu tinh
hoa. Từ mấy thập kỷ qua, lúc đă về hưu,
thầy Vĩnh Bảo vẫn không từ chối dạy
học tṛ tại trường (thí dụ như
trường Colette, Alliance Francais), tại nhà, thậm chí
c̣n dạy qua mạng Internet ở châu Âu, châu Mỹ. Cái cao
qúi của một con người chỉ sống bằng
lương tâm âm nhạc dân tộc là không dạy v́
tiền, có khi lại “năn nỉ” học tṛ ḿnh học
để sao cho vốn qúi dân tộc được
tiếp tục lưu truyền. Và ông đă lưu
truyền vốn qúi ấy vào những nghiên cứu trên
thế giới. Lúc là giáo sư thỉnh giảng tại
đại học Southern Illinois (Hoa Kỳ), sinh viên các
nơi khác trên đất Mỹ cũng đến t́m
học với ông. Không nhờ vào kiến thức của
Giáo sư Nguyễn Vĩnh Bảo, John Paul Trainor khó có
thể hoàn tất luận án Tiến sĩ với
đề tài rất khó: “Điệu thức trong nhạc
tài tử” bảo vệ tại đại học Washington.
Phó giáo sư Tiến sĩ Christophe Maillard, trường
đại học Toulouse (Pháp) cũng chịu khó lần ṃ
đến căn nhà nhỏ của ông mà học nhạc và
ḥa đàn hằng đêm.
Căn nhà nhỏ của ông vừa là điểm
chế tạo nhạc cụ, điểm hội tụ
những nhạc sinh, những người yêu đờn ca
tài tử, của nụ cười sáng tạo. Ông không màng
đến khen thưởng, chỉ xem tiếng nhạc là
lẽ sống, là niềm tin yêu, là sự phồn vinh cho tâm
hồn như ông nói với tôi lúc chia tay: “La confiance en la
musique enrichit mon existence”.
Wednesday, November 02, 2005
Nguyễn Thuyết Phong