LƯƠNG KHẮC
NINH (1862-1943)
Là một nhà báo, nhà văn, một
người cổ động cho thương nghiệp,
người viết tuồng kiêm bầu gánh hát bội, một
nghị viên Hội Đồng Tư Vấn của chánh
phủ, Lương Khắc Ninh là một nhân vật
hoạt động hăn say trong nhiều lănh vực
văn hóa ở Sàig̣n suốt từ năm 1900 cho
đến hết thập niên 30 của thế kỷ 20.
Trong lănh vực nào ông cũng để lại ảnh
hưởng và tiếng tốt.
Ngoài
tên thật, ông c̣n dùng nhiều bút hiệu khác như Dị
Sử thị, Lương Dũ Thúc – Dũ Thúc là tên tự
của Lương Khắc Ninh.
Sanh
tại xă An Hội, tỉnh Bến Tre, từ một gia
đ́nh người Quảng Nam di cư vào sinh sống
ở đây trong những năm người Pháp lăm le
thôn tính Việt Nam. Thuở nhỏ ông theo học chữ Nho
rồi chữ quốc ngữ và chữ Pháp.
Ông
từng làm công chức cho sở Thương Chánh ở
tỉnh nhà từ năm 1880 đến năm 1883, sau đó
làm việc bên Ṭa án hơn mười năm. Năm 1900,
chán cảnh đời công chức ông lên Sàig̣n đảm
nhiệm chức vụ chủ bút cho tờ báo Nông Cổ Mín Đàm 農賈茗談 của
thương gia Pháp, gốc đảo Corse, có vợ
Việt là Canavaggio từ khi tờ tuần báo nầy
mới được thành lập năm 1900. Sự
cộng tác Pháp Việt với hai mục tiêu khác biệt
giửa chủ bút và chủ báo (chủ nhiệm) khiến
ông rời tờ báo rồi quay lại một vài lần
trước khi xa nó hẵn.
Chủ
trương cổ động cho việc phát triển nghề
nông và kêu gọi thành lập những công ty thương
nghiệp để thoát ra khỏi sự bóc lột trên
thương trường của người Hoa kiều,
ông Ninh có cái nh́n sáng suốt, tiến bộ về nguyên nhân
nghèo khó của người Nam. Tiếc thay dân ḿnh nh́n
gần và không có đầu óc kinh doanh, lời kêu gọi
của ông cả hằng thế kỷ sau vẫn c̣n
chưa được nghe theo…
Năm
1902, ông được đắc cử vô Hội
Đồng Thuộc Địa, năm 1906 ông
được bổ nhiệm làm thành viên của Hội
Đồng Tư Vấn Đông Dương nên
người đương thời gọi ông là Hội
Đồng Ninh, dầu vậy hoạt động chánh
của ông vẫn là báo chí hơn là chánh trị. Về
văn chương, với cương vị chủ bút,
ông không nề hà ǵ trong việc cho đăng hay tự ḿnh viết
những bài có tánh chất bút chiến khi thấy
người khác viết sai trong lư luận hay kiến
thức.
Tác
phẩm của ông hầu hết đều in trên báo, nếu
được sưu tập lại th́ rất nhiều,
một vài quyển đă in ra c̣n sót lại đến ngày
nay th́ mỏng, không đủ đại diện cho tư
tưởng và văn nghiệp của môt người có
thời gian dài hoạt động như ông Ninh, tuy nhiên qua
đó ta cũng thấy được phần nào tâm hồn ông: thích điều
trung hiếu, thành ư chánh tâm (Săi
Văi)
đề cao tính cần cù, đôn hậu, kiên nhẫn làm
ăn. (In Khờ Mà Khôn)
Lời giới
thiệu quyển truyện thơ “In Khờ Mà Khôn”
Quyển
nầy in năm 1924, tại Sàig̣n, là một bài thơ
lục bát, thuộc loại kể chuyện, dài chừng 8
trang. Đây là quyển thứ hai trong bộ Quảng Sự Tạp Chí: Phú Quí
Bần Tiện do ông chủ trương vào năm 1924. Khi
nói là tạp chí Lương
Khắc Ninh dự định cho in liên tục nhiều
quyển như In Khờ Mà Khôn.
Cho đến giờ đây, qua thời gian và binh lửa, ta
không biết được nhiều về tờ tạp
chí đặc biệt nầy, nó ra được bao nhiêu
số..
Chúng
ta ngày nay coi In Khờ Mà Khôn
như là một truyện thơ ngắn. Truyện kể
có anh nhà nghèo kia, tên Thông, mẹ mất sớm, cha bắt
ở đợ để lấy tiền đi cờ
bạc. Tuy vậy anh không oán hờn cha, trái lại c̣n
rất có hiếu với cha. V́ làm chăm chỉ và sống
được ḷng mọi người, khi hết hạn
ở đợ, anh được chủ cho một ít
tiền để làm vốn bán buôn. Anh chăm chỉ làm
ăn nên được một cô gái nhà kha khá tên
Đạo, biết chữ nghĩa, đồng ư kết
hôn với anh. Vợ chồng cùng nhau bán buôn, cần
kiệm, sau trở nên giàu có, nổi tiếng trong vùng.
Kết luận quyển
truyện, ông Ninh viết:
Ai
mà hiểu thấu thiện duyên,
Trọn đời mới rơ hiếu
hiền thành thân.
Người mà tâm tánh tham gian,
Bất trung bất hiếu oan [hoang] đàng
lụy thân.
Thông Đạo hai tên an nhàn,
Thảo cha, thuận bạn, vợ
chồng thảnh thơi.
Khuyên ai phải xét việc đời,
Ngay tin đặng sưóng, dữ thời
táng thân.
Cái triết lư sống ông
đưa ra như là lời khuyên đạo đức và
cách ăn ở khôn ngoan để thành công dầu ta không may
bắt đầu đời ḿnh bằng cảnh nghèo khó.
Bài học tốt, nhưng phải chăng đường
đời bằng phẳng cả?
Lục
bát của ông Ninh giản dị, hay hơn các truyện
thơ b́nh dân đương thời một bực
nhưng vẫn mang vẽ dễ dăi trong cách dùng chữ, câu
cú thiếu vẽ mựợt mà của văn chương.
Phải chăng ông muốn truyền đạt ư ḿnh
đến quảng đại quần chúng nên hi sinh tính
cách văn chương?
Tôi
thích những vết tích xưa của ngôn ngữ Miền
Nam: In khờ (giống
như khờ khạo), đam
đợ (đem con cho ở mướn), bạn mày (bạn bè), trong nhà ngoài lân (trong nhà và hàng
xóm), mạnh lung (quá mạnh),
tánh sân (hay gây gổ), tôi dại vô hồi (tôi mê
muội, ngu si), biết đâu
là ngộ (không biết cái đẹp, cái hay), siêng sắng (siêng năng), khả lân (khá thương,
thấy tội nghiệp), chưa
đôi (chưa lập gia thất), lản lơ (không được khôn ngoan lanh
lợi), nghe xinh (nghe hay, nghe
hữu lư), cắp phận nghèo
hèn (ôm cái phận nhà nghèo, không mơ ước cao sang), Năm sau chàng nọ mảng
rồi (Năm sau hết thời gian làm thuê), nhà vắn hiêu (nhà vắng hoe),
cơm nước nồi niêu
(chuyện bếp núc), một
trương từ ḥa (một người hiền
hậu ḥa nhă, trương:
trang), vàng bạc nhủm nha
(ṿng vàng đầy tay, đầy cổ), phấn giồi tơ đắp (dồi phấn
thoa son, mặc quần áo sang trọng), chạy te (chạy mau), giàu
lớn cả đầm (giàu có quá xá), (giữ ǵn)….. Ngày nay ta sẽ
hơi bối rối với các từ nầy nhưng
với một số từ điển cần thiết và
với kinh nghiệm về văn học Miền Nam th́ chuyện
hiểu sai chắc chắn sẽ không nhiều. Đây là
một kho tàng tự vựng về cách nói của ông bà ta
ở tṛm trèm một thế kỷ trước. Đáng quí
biết bao!
Một
số lỗi chánh tả -- là điều thường
thấy của tác phẩm viết bằng quốc ngữ
từ thời Trương Vĩnh Kư kéo dài tới cuối
thập niên 30 ở Miền Nam -- nhiều khi làm cho câu
văn của In Khờ Mà Khôn
đen tối, khó hiểu:
Mai
nhân nghe rỏ mĩnh
cười,
Con em tuy nhỏ luận đời nghe xinh.
Người thường ưa mến sang
vinh,
Mà em chẳng khứng rất th́nh nết na.
Cái
ḷng của tác giả, khi viết cũng như khi in, muốn cho mọi người
đều xem đặng, chẳng có ư trục lợi và
cầu danh
và v́ quan niệm phận làm
người phải làm sao có ích cho vật, lợi cho
người
khiến cho chúng ta, người đọc ngày nay trân
trọng tác phẩm của ông và nội dung bài học
đạo đức ông muốn giao truyền, dầu cho
bài học đó, nói chung thiệt là đơn giản.
Nguyễn
Văn Sâm (Port Arthur,
TX, 10 – 2000, sửa lại 09 -2008)