MIỆT VƯỜN QUA CÁI NH̀N CỦA NHÀ
VĂN SƠN NAM
Trần Xuân An
Qua nhiều
năm tháng, dăm ba lần chuyển đổi nơi
ở, nên cùng với nhiều cuốn sách khác, ấn
bản ấy bị thất lạc. Măi đến năm
1992 (1), "Văn minh Miệt Vườn" lại
xuất hiện với b́a màu xanh lá cây, và tôi lại mua,
đọc thêm một lần nữa. Thế rồi, sau khi
đến thắp hương viếng linh cữu ông, cách
đây hơn 49 ngày, tôi lại có ư định sẽ
đọc thêm một lần thứ ba cuốn sách ấy.
Khi nhiều
người gọi Sơn Nam là nhà văn Nam Bộ,
khác với một số người cho rằng như
thế là không xứng đáng với ông, tôi nghĩ, cụm
danh từ ấy chỉ định tính, chứ không hề
định cấp. Sơn Nam măi măi rất Nam Bộ,
nhưng với bản sắc quê hương ấy, ông
vẫn là một nhà văn có tầm cỡ, không những
ở cấp độ quốc gia mà c̣n vượt xa
khỏi biên giới đất nước. Và Sơn Nam c̣n
được tôn vinh là một nhà Nam Bộ học uy
tín, một thứ uy tín được h́nh thành, bảo
chứng bởi những công tŕnh khảo cứu của
ông.
I - "Văn minh Miệt
Vườn" là một trong cả loạt sách khảo
cứu Nam Bộ của học giả Sơn Nam.
Nhiều
tập truyện ngắn đặc sắc của Sơn
Nam, cùng với một vài tiểu thuyết, đặc
biệt là một bài thơ duy nhất ông công bố (2),
rất nổi tiếng, vốn được dùng thay
lời tựa và cùng tên với 3 tập truyện ngắn, "Hương
rừng Cà Mau", cho vài ba thế hệ người
đọc một cái nh́n văn chương h́nh
tượng về Nam Bộ, đặc biệt là về
vốn sống Nam Bộ phong phú của ông. Sách khảo
cứu Nam Bộ của Sơn Nam, trong đó có "Văn
minh Miệt Vườn", lại cho người
đọc thấy độ sâu, tính khoa học của tri
thức Nam Bộ học ở người cầm bút
nổi tiếng này.
"Văn
minh Miệt Vườn" thể hiện một phần
nào đó tầm nh́n văn hoá học của Sơn Nam.
Nếu bảo rằng chỉ cần đi sâu vào cuốn
sách này là đủ thấy tầm cỡ của Sơn Nam
về lĩnh vực khảo cứu, th́ quá nông nổi, v́
đơn giản là tầm cỡ của ông c̣n thể
hiện trên hai mươi đầu sách khảo cứu
khác. Nhưng ở bài này, tôi vẫn chỉ đi sâu vào
"Văn minh Miệt Vườn", v́ lẽ, với
sự đắn đo sau những t́nh cờ duyên nợ
chữ nghĩa, tôi đă chọn cuốn sách này:
"Văn minh Miệt Vườn" được
viết về "điểm sáng nhất", trung tâm
điểm của một vùng đất, nơi hội
tụ những nét bản sắc đặc trưng nhất
của Nam Bộ, nơi lan toả ánh sáng văn minh rất
Nam Bộ ra các miệt đất khác quanh nó. Nói như
thế, Sài G̣n – TP. Hồ Chí Minh, mặc dù ở trên
đất Nam Bộ, nhưng vẫn pha tạp hơn,
với nhiều yếu tố quốc gia, quốc tế
hơn, do đó bản sắc Nam Bộ đặc thù có
lẽ bị giảm thiểu khá nhiều.
II - Cái nh́n và phương pháp khảo
cứu văn hoá học của Sơn Nam qua "Văn
minh Miệt Vườn":
Sơn Nam
thuộc vào một số không nhiều những
người cầm bút trở thành nhà khảo cứu
văn hoá sau khi đă là một nhà văn thành danh với
hàng loạt truyện ngắn cùng một ít tiểu
thuyết. Nói đúng hơn, ở ông, không có sự ngắt
đoạn, chuyển địa hạt rạch ṛi,
dứt khoát, mặc dù ở hai địa hạt văn
xuôi h́nh tượng và khảo cứu, khác với những
người khác, ông rất rạch ṛi, dứt khoát về
phương pháp: truyện ra truyện, nghiên cứu ra nghiên
cứu.
Một
đặc điểm của phương pháp khảo
cứu của Sơn Nam, không chỉ ở "Văn
minh Miệt Vườn", là ông chẳng đơn
thuần tiếp cận, khám khá đối tượng
nghiên cứu qua việc sưu tập, xử lí sách báo, tài
liệu ở dạng văn bản, mà c̣n huy động
vốn sống của một người cầm bút
vốn sinh trưởng tại vùng đất trở thành
đối tượng nghiên cứu của ḿnh. Trong bài "Thay
lời tựa" ở cuốn "Văn minh
Miệt Vườn", Sơn Nam viết: "Ông ḱ
lăo già trên bảy mươi tuổi, nếu sanh
trưởng ở Cái Bè, ở Tam B́nh, ở Sa Đéc th́
đă là một pho tượng "văn minh Miệt
Vườn" bằng xương bằng thịt".
Đó là văn hoá ở dạng sống động
nhất, thật nhất. Nhưng Sơn Nam c̣n viết rơ,
ở những ḍng trước đó, văn minh theo ông quan
niệm là ǵ, và nhất là xác định tính nguồn
cội của văn minh ấy: "Miệt Vườn
là xưng danh sẵn có. Tiếng văn minh kèm theo phía
trước là do người khởi thảo tập sách
này nêu lên, nghĩ rằng văn minh là nếp sống
vật chất, là ăn, mặc, ở, cách thức sanh
nhai. Trong hoàn cảnh địa lí và lịch sử
đặc biệt, dân Việt đă sáng tạo một
nếp sống hùng mạnh, phóng khoáng, đă chinh phục
[được]. Lẽ dĩ nhiên, nếu người Tây
Ban Nha, người Nhựt, người Lào, người
Căm Bốt gặp một hoàn cảnh lịch sử,
địa lí tương tự th́ họ có phản ứng
khác, cất nhà, cày cấy theo h́nh thức khác. V́ họ không
nằm trong nguồn văn minh Việt Nam". Khi
Sơn Nam viết như vậy, ông đă ư thức sâu
sắc về phương pháp nghiên cứu của chính ông,
là không chỉ huy động vốn sống từng
trải, phong phú của người địa
phương khi chọn địa phương sinh
trưởng của chính ḿnh làm đối tượng
nghiên cứu, mà phải đặt địa phương
ấy trong nguồn mạch Tổ quốc Việt Nam
bốn ngh́n năm với bản sắc không lẫn
với các dân tộc, quốc gia khác; do đó, không thể không
chú trọng đến lịch sử - văn hoá dân
tộc. Và ngay trong phạm vi đối tượng nghiên
cứu là "Miệt Vườn", Sơn Nam cũng
vừa vận dụng vốn sống, tri kiến của
bản thân vừa tham khảo (song song với phản
biện) những sách báo, tư liệu chính ông đă sưu
tầm được. Ông viết: "Là kẻ hậu
sanh, chúng tôi thử sưu tầm, sắp xếp theo
thứ tự để tự học, và cho ấn hành
với hi vọng là có thể gợi hứng cho các bạn
trẻ hiếu học. Người Pháp nói đến công
tŕnh thực dân của họ, với thái độ
"‘khoa học’’’ của người chủ điền
hăng, người chủ vườn cao su. Chúng tôi cố
gắng viết lại chuyện cũ, theo quan điểm
của một người dân Việt, với thái
độ bao dung, v́ thực dân Pháp đă đi rồi.
Mục đích của việc ôn cố này là để tri
tân. Tài liệu thiếu thốn...". Qua đoạn
cuối "Thay lời tựa" này, chúng ta thấy
Sơn Nam đă công nhiên khẳng định quan
điểm (điểm nh́n) nghiên cứu trên lập
trường (chỗ đứng) xă hội, chính trị
rất rơ ràng, thẳng thắn, đồng thời tỏ
bày trước về thao tác phản biện của ông
đối với thứ tư liệu của thực dân
(hay thuộc quỹ đạo thực dân) mà ông gọi là "‘khoa
học’’’ trong nháy nháy.
Đó là
những ḍng chữ Sơn Nam viết từ năm 1970 hay
vài năm trước thời điểm ấy, trong
bối cảnh Sài G̣n dưới chế độ cũ.
Tôi vừa trích gần như trọn vẹn "Thay
lời tựa" của ông, chỉ trừ câu cuối
thể hiện thái độ khiêm tốn, cầu thị
thường thấy của các tác giả, v́ bài đó chính
là những ḍng cô đọng nhất, khái quát nhất,
thể hiện cái nh́n và phương pháp khảo cứu
văn hoá học của Sơn Nam, qua cuốn sách "Văn
minh Miệt Vườn", và chắc hẳn cũng
như thế trong toàn bộ các công tŕnh khảo cứu
của ông.
Điểm
đặc sắc do biết tận dụng ưu thế
tự nhiên mà chúng ta không thể không thấy là Sơn Nam
nghiêm cẩn kiểm nghiệm sách báo, tư liệu ở
dạng văn bản bằng chính sự nếm trải
của bản thân. Sở dĩ ông làm được
điều đó v́ đối tượng nghiên cứu
không những là địa phương ông sinh
trưởng, gắn bó máu thịt từ lúc cất
tiếng khóc chào đời (11-12-1926) cho đến khi trút
hơi thở cuối cùng (13-8-2008), mà c̣n do trọng tâm
nghiên cứu trong "Văn minh Miệt Vườn",
mặc dù có lướt qua thời "sơ sử",
nhấn mạnh thời người Việt Miền Trung
(Đàng Trong) dấn thân khai phá đất Nam Bộ và
thời cận đại, khi thực dân Pháp bắt
đầu xâm chiếm, khai thác thuộc địa (nửa
cuối thế kỉ XIX), vẫn là giai đoạn từ
đầu thế kỉ XX đến những năm
giữa thế kỉ XX vừa qua, tương ứng
với tuổi thanh niên của Sơn Nam, lứa tuổi
mẫn tiệp nhất của mỗi đời
người. Vả lại, khi ông khởi thảo và hoàn
tất cuốn sách này (1970), ông đă có đủ thời
gian, vốn liếng chống Pháp (từ 1945) để
kiểm nghiệm và viết ở bối cảnh lịch
sử của một Miền Nam Việt Nam trong chừng
mức nhất định đă thoát khỏi ách thực
dân cũ.
Một
điểm đáng lưu ư khác, ấy là Sơn Nam nghiêm
ngặt trong khi tuân theo yêu cầu khách quan, lạnh lùng
của công việc khảo cứu, nhưng ông hơi quá
khiêm tốn v́ đối tượng nghiên cứu chính là
văn minh Miệt Vườn, điểm sáng trung tâm
của vùng đất quê hương -- đồng bằng
sông Cửu Long --, nơi chiếu rọi, lan toả sang
bản quán -- An Biên, Rạch Giá (Kiên Giang) -- của chính ông.
Đây là một điều dễ gây thiệt tḥi cho
bản thân ông và Nam Bộ, đặc biệt là Miệt
Vườn, nếu cuốn sách được đọc
bởi những người đọc vốn quen với
cảm hứng tự tôn, sĩ diện hăo, "tốt
khoe, xấu che" theo kiểu thói đời không thật
thà. Có thể ông ư thức rơ điều đó, nên chúng ta
vẫn thấy ḷng thành thật của ông ở câu chữ
vốn chỉ là ước lệ xă giao: "... sự
nhận xét có thể lệch lạc, dám mong độc
giả tha thứ và chỉ dạy thêm".
Có thể nói,
ngoài cái nh́n, phương pháp nghiên cứu, ở "Văn
minh Miệt Vườn" c̣n thể hiện một
tâm thế khiêm cung của kẻ sĩ.
III - Chân dung Miệt Vườn -- trung tâm
điểm văn minh của Đồng bằng Sông
Cửu Long:
Như trong bài
"Thay lời tựa", Nhà nghiên cứu Sơn Nam
không (hay đúng hơn là chưa) muốn gửi đến
người đọc một diện mạo Miệt
Vườn với những nét tỉ mỉ ở "Văn
minh Miệt Vườn" (1970), một trong vài
cuốn thuộc loại đầu tay về mặt
khảo cứu của ông (3). Tuy nhiên, ông đă nắm
bắt và thể hiện thần thái của một vùng
đất trung tâm của văn minh Đồng bằng
Sông Cửu Long, với những sử liệu, và cả
thông tin – tư liệu được viết bởi
những người Pháp được xuất bản
cuối thế kỉ XIX, những người Việt
không cách xa lứa tuổi của ông bao lăm cũng
như của những người cùng thời với ông.
Ông nghiền ngẫm những trang sử của Quốc
sử quán triều Nguyễn qua bản dịch của Tu
Trai Nguyễn Tạo. Ông t́m đọc những trang
hương ước của người Minh Hương
do Trịnh Hoài Đức đọc duyệt từ 1812. Và
không những ông tham khảo với thao tác phản biện
đối với những tác phẩm của người
Pháp như Bernard Philippe Groslier, Louis Malleret, M. Gérard, Pière
Gourou..., Sơn Nam c̣n tham khảo cả sách lẫn bài báo
của Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Nguyễn Vỹ,
Nguyễn Bạt Tuỵ, Nguyễn Thiệu Lâu... Cũng đă
nói, những trang viết về Miệt Vườn hay
cả Nam Bộ được Sơn Nam đọc như
đọc vào ḷng bàn tay của ḿnh: ông đọc với
vốn sống đầy ắp, sâu sắc trong ông về
miền quê hương Nam Bộ và riêng bản quán Rạch
Giá của chính ông. Từ đó, ông phác thảo nên một
chân dung với 10 chương sách. Chúng ta có thể khái quát
lại:
1. Văn minh
Miệt Vườn – địa danh, cư dân và khu vực
địa lí (chương 1 & chương 2). (tr. 221,
mục lục).
2. Văn minh
Miệt Vườn theo chiều lịch đại:
Nếu h́nh dung như một cây tre, th́ nền gốc tre là "từ
hồi đầu Tây lịch" (chương 3),
tới đốt tre "giữa hai thế kỉ XIX và
XX" (chương 4) với "tánh chất phong
kiến" (chương 5) đặc thù châu Á và
đặc thù Nam Bộ, rồi lại tiếp đến
đốt tre "cơn chuyển ḿnh trước và sau
Âu Châu đại chiến" (1914-1918) (chương 6),
dẫn lên một giai đoạn khác, ấy là đốt
tre "khi Miệt Vườn trỗi dậy"
(chương 7) với "vài câu ḥ" (chương
8) khởi đầu cho nghệ thuật vọng cổ,
cải lương – đặc sản Miệt
Vườn... (tr. 221, mục lục).
3.
Trước khi vượt lên tất cả nhằm
đưa ra "vài nhận xét để kết
luận" (chương 10), Sơn Nam đă viết
một chương về chính vùng đất bản quán
của ông, Hà Tiên - Rạch Giá: "VĂN MINH MIỆT
VƯỜN qua vùng Đất Phèn Vịnh Xiêm La"
(chương 9). (tr. 221, mục lục).
Với
tổng thể bố cục cuốn sách là như thế,
Sơn Nam lần lượt tŕnh bày lại lịch sử
văn hoá của Miệt Vườn nói riêng và Nam Bộ nói
chung, trước hết bằng cái nh́n đại thể,
rồi xoáy sâu theo từng mốc lịch sử quan
trọng. Xen vào đó là những chương nêu bật các
đặc điểm văn hoá gắn liền với
từng bối cảnh của từng giai đoạn
lịch sử nhất định. Tiêu đề
chương áp cuối được ông viết hoa 4
chữ "VĂN MINH MIỆT VƯỜN" theo kiểu
tu từ như một cách nhấn mạnh, thể hiện
điều ông tâm cảm.
- 1. Địa lí – nhân văn & quá
tŕnh tiếp biến văn hoá:
Nhưng,
về mặt địa lí, "Miệt Vườn" là
những mảnh đất nào trên địa bàn Nam Bộ
rộng lớn? Sơn Nam xác định: "Miệt
Vườn là vùng Sa Đéc, Mỹ Tho, Vĩnh Long, sau này là
một phần của Cần Thơ. Vùng "Miệt
Vườn" là nơi có mật độ dân số cao
nhứt, theo bản đồ phân phối cư dân. Và
cũng phù hợp với vùng phù sa ven sông ít phèn, theo bản
đồ thổ nhưỡng"; "Ranh giới các
tỉnh thay đổi nhiều, từ đời vua
Tự Đức đến nay [1970]. Nói đến Mỹ Tho
ta tính luôn đến vùng Bến Tre, G̣ Công. Nói đến
Vĩnh Long ta tính luôn tỉnh Trà Vinh" (tr. 21). Và
những tỉnh nào thuộc vùng đất phèn Vịnh Xiêm
La? Sơn Nam viết rơ: "Rạch Giá, Cà Mau là vùng
đất phèn phía Tây. Phía Bắc là vùng quá nhiều phèn, Hà
Tiên và Đồng Tháp Mười" (tr. 23).
Một
điều chắc hẳn nhiều người quan tâm
nhất là nhân văn, trong đó có cư dân Nam Bộ
nói chung và Miệt Vườn nói riêng. Nhân dân Nam Bộ
gồm những sắc dân nào? Nhà nghiên cứu Sơn Nam cho
chúng ta biết:
- Thời Nam
Bộ c̣n thuộc vương quốc Phù Nam (Phnom?), một
Phù Nam với di chỉ khảo cổ nổi tiếng là Óc
Eo (chân núi Ba Thê...), từ thế kỉ thứ I đến
thế kỉ thứ VI sau công nguyên Tây lịch, theo Sơn
Nam, cho đến khi ông viết xong cuốn sách mà chúng ta
đang đề cập (1970), "sắc dân ở
đây cũng chưa rơ rệt, có lẽ là người
Anh-đô-nê-diêng" [Indonésien] (tr. 29). Ông c̣n cho biết,
Óc Eo, "thương cảng này là nơi tạp
chủng"(tr. 30).
- Thời Phù
Nam bị Chân Lạp thôn tính, sáp nhập, thương
cảng Óc Eo bị lu mờ và "xoá sổ", Phù Nam
trở thành Thuỷ Chân Lạp, cư dân Nam Bộ dĩ
nhiên có cả người Miên (Khmer), Sơn Nam cho biết:
Mặc dù nhiều địa danh có tên Khmer, nhưng "không
phải nơi nào có tên Miên là nơi đó có người
Miên đến lập nghiệp, từ thuở xa
xưa!"(tr. 37), mà đó chỉ là nơi họ đi
qua, biết đến và đặt địa danh
để gọi (tr. 38), cũng như có những vùng
rừng rú Trung Bộ, Bắc Bộ, hoàn toàn hoang vu, không
sắc dân nào ở nhưng vẫn được
người Kinh đặt tên. Sơn Nam phỏng định
rơ hơn: "Từ thế kỉ thứ 10 đến
thế kỷ 17, chúng ta tạm phỏng đoán
được là người Miên sống tập trung
ở vùng đất giồng cao ráo, nhiều nhứt là
ở vùng Sóc Trăng và Trà Vinh, vùng đồi núi Thất
Sơn"(tr. 38).
- Thời các
chúa Nguyễn thực hiện kế hoạch Nam tiến,
đặc biệt là khi chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần
(1648-1687) lập xong phủ Ninh Hoà và phủ Diên Khánh (Khánh
Hoà) th́ không những uy thế chính trị mà cả sự
khai phá của nhân dân cũng đă tiến xa vào Thuỷ Chân
Lạp (Nam Bộ). Bấy giờ, theo Sơn Nam, dấu
mốc thời điểm quan trọng, 1658, trong lịch
sử khẩn hoang Nam Bộ là khi có sự đồng ư
của chúa Hiền cho phép vài tập đoàn người Hoa
bài Măn phục Minh (khoảng dăm ba ngàn người) vào khẩn
hoang: Trần Thắng Tài tại Cù lao Phố (Biên Hoà),
Dương Ngạn Địch tại Mỹ Tho. Ông
cũng ghi thêm: 1695, Mạc Cửu đến Hà Tiên (tr.
38-39). Theo đó, thêm một sắc dân nữa có mặt
tại Nam Bộ: người Hoa. Một đoạn ở
chương khác, Sơn Nam viết: "Nhóm di thần
"bài Măn phục Minh" ở Đồng bằng sông
Cửu Long đă Việt Nam hoá. Người Trung Hoa khi ra
hải ngoại ít khi đem theo đàn bà. Họ
cưới gái Việt Nam. Người ở Nam phần có
lẽ đa số là sự kết hợp giữa nông dân
Việt Nam từ Trung phần với nông dân Trung Hoa,
thuộc tỉnh Quảng Đông, hồi cuối thế
kỉ 17. Ngoài ra, c̣n một số người Việt
"thuần tuư", c̣n gọi là "dân hai huyện"
ở vùng Ông Chưởng (Long Xuyên)"(tr. 56)(4).
- Thời
đầu thế kỉ XX: "Măi đến
đầu thế kỉ hai mươi này, người
Đồng bằng Sông Cửu Long không được
tiếp xúc với người Việt ở Bắc
phần. Miền Nam [tức là Nam Bộ - TXA. chua thêm] h́nh
thành vào lúc Trịnh - Nguyễn phân tranh, người lập
nghiệp đầu tiên ở Nam phần là người
từ Quảng Trị trở vào. Đến khi Gia Long lên
ngôi, thống nhất Bắc Nam [tức là Đàng Ngoài,
Đàng Trong] th́ miền Nam [Nam Bộ] được cai
trị do những quan lại, tướng lănh quê quán ở
Thừa Thiên (Nguyễn Tri Phương), Quảng Nam ([...]
Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại).
Trường hợp người Miền Bắc [Đàng
Ngoài] vào Nam [Nam Bộ] thật hiếm hoi" (tr. 61-62).
Sơn Nam đă ghi rơ như thế.
Những
lượng thông tin địa lí -- nhân văn trên có
lẽ không c̣n mới mẻ nếu so với những công
tŕnh nghiên cứu gần đây trong những năm
đầu thế kỉ XXI. Có một điểm, tôi
vẫn băn khoăn: H́nh như Sơn Nam chưa thật
sự xoáy sâu vào sức sống, sức mạnh thuộc
bản lĩnh dân tộc của người Việt cùng
tỉ lệ Việt – Hoa trong quá tŕnh số người
Hoa di dân ấy đă dần dà Việt Nam hoá. Và câu "Người
ở Nam phần có lẽ đa số là sự kết
hợp giữa nông dân Việt Nam từ Trung phần
với nông dân Trung Hoa, thuộc tỉnh Quảng Đông,
hồi cuối thế kỉ 17" vẫn thật
sự không ổn nhiều lần hơn nội dung nghi
vấn, nghi vấn trong các chữ "có lẽ đa số
là...".
Một
điểm mấu chốt: Cư dân Miệt Vườn,
nơi được "gọi tổng quát những
vùng cao ráo có vườn cam vườn quưt ở ven sông
Tiền, sông Hậu thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long,
Mỹ Tho, Cần Thơ", "tiêu biểu cho h́nh
thức sanh hoạt vật chất và tinh thần cao
nhất ở Đồng bằng Sông Cửu Long"(tr.
17), gồm cả "Miệt Hai Huyện" (Long Xuyên), là
những sắc dân nào?
Vẫn theo
Sơn Nam: Đó là người Ngũ Quảng (Quảng
B́nh, Quảng Trị, Quảng Đức [Thừa Thiên],
Quảng Nam, Quảng Ngăi) cho đến B́nh Thuận, theo
Nguyễn Hữu Cảnh (quan Chưởng) vào Nam Bộ.
Họ lại từ "Hai Huyện" gồm Tân B́nh,
Phước Long (Gia Định, Biên Hoà), di dân xuống khu
vực về sau không lâu gọi là Rạch Ông Chưởng (Long
Xuyên). "Người Long Xuyên, được gọi là
Hai Huyện"; "họ tự cho là sang trọng không
kém người Hai Huyện ở Biên Hoà – Gia Định
(Chúng tôi [Sơn Nam] đă thử nghiên cứu về Dân Hai
Huyện, xem "Nói về Miền Nam", do Lá Bối
xuất bản, 1968)" (tr, 17-18). Đó là
"số người Việt "thuần tuư"" (tr.
56), tức là thuần Việt nhất.
Phải
chăng chính số lượng không ít những
người thuần Việt này là hạt nhân văn hoá
Việt trong quá tŕnh tiếp biến văn hoá tại Nam
Bộ để xứng danh là "văn minh Miệt
Vườn", trung tâm điểm đồng thời là
điểm lan toả ánh sáng văn minh sang những
miệt khác.
Dẫu sao, tôi
vẫn kính phục Sơn Nam khi ông vận dụng rất
nhuần nhuyễn quan điểm nghiên cứu văn hoá
học: "Sự thụ ứng về văn hoá
(acculturation)". Ông viết: "Muốn hiểu cá
tánh của Nam phần, tốt hơn hết là nên sưu
tầm và nghiên cứu theo nhăn quan của nhà xă hội
học, xem Nam phần là nơi mà dân Việt tiếp thâu
nhưng phản ứng [tôi nhấn mạnh – TXA.] khi
gặp văn hoá Tàu, Miên, Chàm, Pháp, Mỹ. Đó là sự
thụ ứng văn hoá (acculturation). Thái độ nghiên
cứu ấy giúp chúng ta hiểu rơ cái lợi và cái hại
của t́nh trạng gọi là "lai căn" và
"tạp nhạp". Lắm khi đó là nét đẹp.
Miền Nam [Nam Bộ] bộc lộ vài nét, vài đức
tính mà ai cũng phải nh́n nhận" (tr. 11)(5).
Đặc
điểm lớn nhất, đẹp nhất, Sơn Nam
chỉ ngầm thể hiện, nhưng tôi cảm nhận
rơ, ấy chính là sức mạnh Việt hoá của
người Việt Nam Bộ, trong đó có Miệt
Vườn của Đồng bằng Sông Cửu Long,
đến mức cho tới hôm nay, hầu như các thành
tố lai tạp đă lắng xuống đến mức
triệt tiêu, để gien trội Việt bừng
sáng, đặc biệt là trong ngôn ngữ, trong tâm thức
cũng như trong mạch sống văn hoá - lịch
sử.
- 2. Vùng đất phèn Vịnh Xiêm
La: Sự gia tăng dân số, tiếp tục quá tŕnh
khai hoang, thâm canh & góp phần đồng thời
đón nhận văn hoá Miệt Vườn
Nhiều
tư liệu lịch sử đă ghi rơ, đến
đời Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), tiến
tŕnh Nam tiến của người Việt Đàng Trong
về cơ bản đă hoàn tất: Gia Định và Hà
Tiên đă thuộc lănh thổ Việt Nam. Lưu dân
người Việt đă có mặt tại nơi tận
cùng phía Nam của Tổ quốc, trong thế kỉ XVII.
Trong thời gian này, cũng có mặt người Hoa
với một số lượng không nhiều, là thuộc
hạ của Mạc Cửu, tại Hà Tiên. Dần dà,
với nhiều đợt khác nhau, người Hoa
Triều Châu cũng đến vùng đất này.
Tuy nhiên,
Sơn Nam viết: "Trước khi người Pháp
đến tại ven biển vịnh Xiêm La, dân chúng
sống dễ dàng bằng nghề chài lưới, ăn
sáp ong, làm rẫy. Chợ Hà Tiên phồn thịnh một
thời không phải nhờ tài lập ấp, khẩn hoang
của Mạc Cửu. Mạc Cửu mở ṣng bạc,
tổ chức kho chứa hàng hoá để xuất
cảng. Thương cảng Hà Tiên -- đời Mạc Cửu
và Mạc Thiên Tứ vào thế kỉ thứ 18 – nơi
xuất cảng độc quyền hầu hết các
sản phẩm của Cao Miên: ngà voi, tiêu sọ, thịt
khô, cá khô, đậu khấu và các thứ gia vị"(tr.
160); "Sử chép việc Mạc Cửu lập ấp
rải rác từ Kampot đến Cà Mau, chúng ta không nên
đánh giá quá cao việc "lập ấp quy dân"
ấy, về nông nghiệp" (tr. 164). C̣n người
Triều Châu? "Người Triều Châu từ bên Tàu
di cư qua lần lượt đến vùng đất
rẫy ở Rạch Giá, Cà Mau..."; "Một sự
đáng lưu ư là người Triều Châu làm ruộng quá
dở, gần như không chịu làm ruộng. Nghề
ruộng khó kiếm lời, phải chờ suốt năm
mới thâu hoạch được. Người Triều
Châu và nói chung là người Huê kiều ít chịu làm
điền chủ mặc dầu họ dư tiền mua
đất hoặc lo hối lộ với quan trên, khi
khẩn đất. Có lẽ họ không muốn đối
phó với đám tá điền để mang tiếng là bóc
lột trắng trợn. Họ mua bán lúa, lập nhà máy xay
lúa dễ thâu lợi nhiều và kín đáo, ít đụng
chạm hơn. Nói chung th́ người Hoa kiều lai
Việt mới chịu khó cầm cày, phát cỏ hoặc làm
điền chủ...".
Một
đoạn khác, Sơn Nam cho biết về người
Việt ở vùng vịnh Xiêm La: Không chỉ vào thời chúa
Nguyễn, mà ngay thời Tự Đức (ở ngôi:
1847-1883), trước khi mất 3 tỉnh Miền Đông
(1862) rồi 3 tỉnh Miền Tây (1867), ông vua này đă
tiếp tục sự nghiệp khẩn hoang "Nam Kỳ
lục tỉnh" với vai tṛ trực tiếp tại
chỗ của Nguyễn Tri Phương theo hai phương
thức: Đồn điền (tổ chức bán quân
sự); lập ấp (thuần tuư dân sự). Kết
quả là trong 2 năm (1853-1854) đă thành lập
được hai cơ đồn điền: An Ninh và An
Biên (An Biên, huyện bản quán của Sơn Nam?)... (tr.
47-49)
Sơn Nam c̣n
viết về người Việt Hà Tiên – Cà Mau – Rạch
Giá: "Lí do thúc đẩy một số dân Việt
đến Cà Mau để chịu đựng cực
khổ vẫn là lí do chánh trị, kinh tế. Đó là
những nghĩa quân bại trận, những nông dân bị
chiếm đất khi người Pháp lần lượt
chiếm 3 tỉnh miền Đông và 3 tỉnh miền Tây
Nam Kỳ. Ngay tại Cà Mau, viên trung uư Escanyé lănh chức
vụ tỉnh trưởng Cà Mau đă bị dân chúng
giết. Viên tri huyện Phan Tử Long bị "quân
phiến loạn" đến tấn công tại dinh
ở Cà Mau. Hai việc trên đây xảy ra trước
năm 1873. Năm 1872, anh em Đỗ Thừa Luông và
Đỗ Thừa Tự đă khởi nghĩa ở U Minh
Hạ"(tr. 164).
Qua vài trích
dẫn trên, chúng ta có thể thấy rơ vai tṛ của mỗi
sắc dân thuở đó, đặc biệt là công lao
khẩn hoang, thâm canh, tạo ra kĩ thuật nông nghiệp
mới cũng như ḷng yêu nước, yêu quê hương
mới một cách sâu đậm của người
Việt.
Và dẫu
đề cập đến khía cạnh nào đi nữa,
luận điểm Miệt Vườn là trung tâm
điểm hội tụ, tiếp biến, phát huy văn
minh Việt đối với Đồng bằng Sông
Cửu Long vẫn quán xuyến toàn bộ cuốn sách
của Sơn Nam:
""Trai
Nhơn Ái, gái Long Xuyên", "Trai Hai Huyện, gái Miệt
Vườn", đó là lời ca ngợi dành cho dân
Miệt Vườn. Nhơn Ái là vùng Phong Điền
[gốc Thừa Thiên?] nổi danh về vườn cam,
vườn quưt ở rạch Cần Thơ, với
nhiều nho sĩ, nhứt là dân trung lưu và b́nh dân ăn
nói lễ phép, lưu loát, biết hát biết ḥ nơi sông
sâu nước ngọt với chiếc tam bản hai chèo
hoặc bốn chèo. Gái Long Xuyên nổi tiếng giỏi
về nữ công nữ hạnh, đặc biệt là
ở vùng cù lao Ông Chưởng, vùng Chợ Mới, nơi
gọi là Hai Huyện. Về lời ăn tiếng nói,
về tục lệ cúng đ́nh, làm đám ma đám cưới,
người Miệt Vườn tỏ ra "thuần
tuư" Việt Nam, đáng làm khuôn vàng thước ngọc
cho người dân đồng cỏ hoang vu gần rừng
tràm, bên con kinh đào theo vịnh Xiêm La từ Rạch Giá
đổ lên phía Bắc đến rạch Giang Thành, biên
giới Cao Miên"(tr. 178-179)(6).
Tất nhiên
trung tâm điểm "Miệt Vườn" không
chỉ đón nhận đồng thời toả sáng vùng
vịnh Xiêm La phía "Miệt Dưới" (Rạch Giá
– Cà Mau), "Miệt Đồng Tháp Mười", mà c̣n
tương tác một cách "biện chứng"
với "Miệt Trên" (Biên Hoà, Gia Định, Bà
Rịa, có thể tính luôn vùng Long An)...
Tưởng
cũng nên ghi nhận thêm là Sơn Nam đă cho chúng ta
biết, măi đến năm 1942, thực dân Pháp mới
tổ chức chuyến di dân Thái B́nh (thuộc Bắc
Bộ) vào vùng vịnh Xiêm La. Số dân này không đông.
Họ định cư tại vùng Tri Tôn, thuộc làng Sóc
Sơn (đầu con kinh đào nối liền kinh Rạch
Giá – Hà Tiên vào Tri Tôn). Ông c̣n cho biết việc định
cư này hoàn toàn thất bại, có lẽ là không thành công
ở những đợt di dân tiếp theo (tr. 167-168).
IV - Tạm kết:
Nếu thật sự kết
thúc ở đây, bài viết vẫn chưa đề
cập đến vấn đề trọng tâm: Văn minh
của Miệt Vườn. Nhưng đây chỉ là bài
viết khởi đầu, có chủ đích khám phá công
tŕnh biên khảo của nhà văn đồng thời là nhà
nghiên cứu Sơn Nam ở phương diện nhăn quan
(quan điểm), phương pháp nghiên cứu văn hoá
học mang rơ nét đặc sắc của riêng ông, cùng
một số khái niệm địa lí – nhân văn về
đối tượng mà Sơn Nam nghiên cứu: Miệt
Vườn và Miệt Vườn với tư cách là trung
tâm điểm văn minh của Đồng bằng Sông
Cửu Long, của cả Nam Bộ nói chung. Đó là công
đoạn khám phá ở b́nh diện khái quát, vốn rất
cần thiết, nhằm thiết lập một tiền
đề căn bản để đi sâu vào khám phá
trọng tâm của cuốn sách "Văn minh Miệt
Vườn".
"Văn minh Miệt
Vườn" được khởi đầu và h́nh
thành như đă tŕnh bày, nhưng gồm những ǵ, như
thế nào?
Những trang sách "Văn
minh Miệt Vườn" của Sơn Nam vẫn
mời gọi chúng ta khám phá, đồng thời có thể
phản biện những điểm nào đó trong cuốn
sách của ông, chúng ta thấy chưa thoả đáng.
GHI CHÚ:
(1) Sơn Nam, “Văn minh
Miệt Vườn”, Nxb. Văn Hoá tái bản, 1992. Các
số trang trong bài, tôi ghi theo bản 1992 này.
(2) Theo một vài bài báo, Sơn Nam
đă xuất bản 2 tập thơ vào 2 năm 1948, 1950.
Tuy nhiên, trong toàn tập Sơn Nam (Nxb. Trẻ), không có 2
tập thơ ấy.
(3) Cuốn sách biên khảo đầu
tay của Sơn Nam là “T́m hiểu đất Hậu
Giang”, Nxb. Phù Sa, 1959; sau đó, “Nói về Miền Nam”,
Nxb. Lá Bối, 1968; “Người Việt có dân tộc tính
không?”, Nxb. An Tiêm, 1969. “Văn minh Miệt Vườn”,
Nxb. Lá Bối, 1970 là cuốn sách biên khảo thứ 4
của ông. Sơn Nam viết trên 20 đầu sách biên
khảo; Nxb. Trẻ in ghép khi làm toàn tập, thành 10
đầu sách loại biên khảo.
(4) Về Trần Thắng Tài,
Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu, xem thêm:
Sơn Nam, “Đất Gia Định xưa”, “Bến Nghé
xưa” & “Người Sài G̣n” (3 cuốn in chung 1 tập),
Nxb. Trẻ tái bản, 2007, tr. 42-44. Về số liệu và
tỉ lệ ng (3 cuốn in chung 1 tập), Nxb. Trẻ
tái bản, 2007, tr. 42-44. Về số liệu và tỉ
lệ người Hoa khá cao (các lần di dân sang Nam Kỳ
về sau), xem sđd., tr. 351, 417.
(5) Xem thêm: Sơn Nam, “Người
Việt có dân tộc tính không?”, Nxb. An Tiêm, 1969. Bản in
chung với 2 cuốn sách khác, lấy tên sách chung là “Đ́nh
miếu và lễ hội dân gian Việt Nam”, Nxb. Trẻ tái
bản, 2004, tr. 359-381. , Nxb. Trẻ tái bản, 2004, tr.
359-381.
(6) Xem thêm: Sơn
Nam, “Nói về Miền Nam”, Nxb. Lá Bối, 1967. Bản
in chung với 2 cuốn khác, Nxb. Trẻ tái bản, 2005, tr.
25-37.
Ghi chú cuối
bài: Có lẽ cũng nên nói thêm
một điều ngoại đề: Sở dĩ tôi
đặc biệt yêu mến “Văn minh Miệt
Vườn”, v́ cứ nghĩ là đă ngẫu nhiên mà có
duyên nợ chữ nghĩa với cuốn sách này, từ
hồi cuốn sách xuất bản lần đầu tiên
(1970 hay 1971), tái bản vào năm 1992, và cho đến nay,
hơn 49 ngày sau khi nhà văn, nhà nghiên cứu Sơn Nam
đi vào cơi vĩnh cửu (13-8-2008).
Thực ra, chắc hẳn không phải ngẫu nhiên; nguyên
nhân sâu xa có lẽ là do tôi có vài năm thời tấm bé
đă sống, học tập tại vùng chân núi Ba Thê (vùng
kinh đô - thương cảng Óc Eo phồn thịnh
của vương quốc Phù Nam xa xưa) và tại thành phố
Long Xuyên (vùng “Hai Huyện” thuần Việt), rồi tại
Gia Định (vốn là Tân B́nh thuở Ông Chưởng).
Đôi lúc, tôi cảm thấy thật vinh hạnh v́ đă
được sống ở những vùng đất danh
tiếng đó! Và tôi rất cảm ơn “Văn minh
Miệt Vườn”, cuốn sách đă vỡ ḷng cho tôi
về nhận thức trên phương diện lí tính
đối với những vùng đất, ở đó, tôi
may mắn được ghi nhận những ấn
tượng tuổi thơ tốt đẹp.
(11/2008 )
Nguồn: Hội
Nhà Văn VN