Phần I: Luân Lư Giáo Khoa Thư
HỌC HÀNH CỐ CHÍ LẬP THÂN NÊN
NGƯỜI
Xưa nước ta
lệ thuộc Tàu trên 1000 năm. Họ đem chữ Hán
dạy ta nên gọi là Hán tự. Đời này qua
đời khác, ta dạy lẫn nhau ... Lâu ngày người
ḿnh đọc trại theo giọng Nam, không đúng
giọng Tàu, viết th́ h́nh thù như chữ Hán ...
Lối học riêng đó
của dân ta gọi là học Chữ Nho. V́ lối học
thời ấy, mạnh ai nấy học, nấy dạy,
triều đ́nh cử quan Đốc Học để
quản lư học tṛ ở mỗi tỉnh, và quan Giám
Thọ hay huấn đạo ở các phủ, huyện
sắp đặt sĩ tử đi thi Hương,
chọn nhân tài ra giúp đất nước.
Lúc Tây chưa vào, cả
xứ Lục Tỉnh từ B́nh Thuận trở vào chỉ
có một trường thi Gia Định, cụ Nguyễn
Đ́nh Chiểu đâu Tú Tài ở Gia Định năm
1843, đời Thiệu Trị năm thứ 3(1).
Khi Tây chiếm Gia
Định, rồi 3 tỉnh miền Đông họ bắt
đầu dùng chữ quốc ngữ (loại chữ
lấy mẫu tự la-tin a,b,c
... phiên âm tiếng
Việt) thay thế chữ Hán, trong giao dịch và giáo
dục.
Đến 18-9-1924 Toàn
Quyền Đông Dương là Merlin ra quyết định
đưa chữ quốc ngữ vào dạy ở cấp
Sơ Học trên toàn nước Việt Nam ta. Bài ”Trường học” trong Luân Lư Giáo Khoa Thư là nói
về trường học trong bối cảnh sau 1924;
dạy và học chữ quốc ngữ.
Ở trong Nam, Tây
thiết lập hệ thống làng xă rất sớm; xây
dựng nhà việc, lập trường Sơ Học,
chợ và phố xá ...
Mỗi trường
Sơ Học thường có 3 pḥng cho ba lớp Đồng
Ấu, Dự Bị và Sơ Đẳng. Trường xây
dựng bằng gạch, lớp ngói cao ráo, sạch sẽ,
vững chắc. Trường học xây dựng ở khu
thị trấn gần chợ, phố, cạnh sông ...
thuộc khu phố, thị tứ, đông dân cư.
Trường học là
một h́nh ảnh của văn minh Tây Phương,
rực rỡ giữa làng mạc, nhà cửa đơn
sơ, lạc hậu của ta, có giá trị chinh phục ḷng
người không ít.
Tác giả tả cảnh
trường học ở làng như sau :
“Đồng hồ
sắp đánh tám giờ. Học tṛ tấp nập đi
học , lũ năm lũ ba,
tay cặp sách, vừa đi vừa chuyện tṛ vui vẻ.
Đến trường ai nấy vào học, các lớp
học rộng răi, mát mẻ".
Hồi đó học tṛ
đi học ngày hai buổi, nghỉ ngày thứ Năm và
Chủ Nhựt. Bấy giờ, ít ai có đồng hồ.
Làm việc ǵ cũng canh tiếng gà gáy, nh́n con nước
lớn nước ṛng, ḍm mặt trời . . . mà đoán định thời gian.
Chùa th́ có giờ công phu. Trường học th́ có trống
báo giờ. Tây vào họ đem đến cho ḿnh một
dụng cụ đo thời gian gọi là cái đồng
hồ. Cái đồng hồ xưa treo trên vách , có quả
lắc gọi là trứng dái đưa qua đưa lại kêu tíc tắc. Mặt
đồng hồ có hai cây kim chỉ giờ và phút.
Đồng hồ chạy được nhờ có
cuộn dây thiều. Kim đồng hồ quay hết 24
tiếng gọi là một ngày, một đêm bằng ṿng
quay của trái đất là :
23 giờ , 56 phút, 4 sao (tính tṛn là 24 giờ) . Mỗi giờ
đồng hồ gơ một tiếng (trong Nam không kêu là đánh) và cứ 15 phút có
tiếng nhạc nên gọi là đồng hồ
đờn.
Ngày nay trẻ con sanh ra
đă nh́n thấy cái đồng hồ : nào là đồng
hồ báo thức (reo) , đồng hồ đeo tay, bỏ
túi ... nên không có
được cái cảm xúc của học tṛ thời Luân
Lư Giáo Khoa Thư.
Hồi nhỏ học tṛ
đến trường rất sớm để chơi
đánh đáo, đá cầu, bắn cu li; con gái th́ chơi
nhảy dây, đánh tên (đánh đũa), nhảy c̣ c̣. v .
v. . .
Nghe trống đánh ba
hồi , lại ba dùi, th́ chạy ùa về trường,
xếp hàng mà mặt mũi c̣n mồ hôi, c̣n luyến
tiếc cuộc chơi...
Cái trường Sơ
Học của tôi hồi nhỏ ở làng Tân Ḥa, quê hương kháng chiến
của Trương Công Định , nền cao tới
bụng, tam cấp bước lên bề thế, cửa cái
có hai cánh to, cửa số lá sách mở rộng, sáng sủa.
Mái lợp ngói đỏ, nền lót gạch Tàu màu đỏ
đậm . . .
Trong khi đó
trường học trong xóm mà bọn tôi học vở ḷng
, học ráp vần xuôi, vần ngược th́ nghèo nàn,
thầy tṛ nhố nháo ...
H́nh ảnh trường
làng thời xưa, luôn luôn là một chút ǵ thơ mộng,
không sao tả hết và có lẽ mỗi người
trong chúng ta, ai đă
từng trải qua, từng sống mới cảm, thông
nổi ...
H́nh ảnh ấu thơ
êm đềm dưới ngôi trường làng có bóng cây to,
cạnh ao làng, nay không c̣n t́m
lại được nữa !
Chúng ta nghe Luân Lư Giáo Khoa
Thư viết tiếp :
“Thầy
giáo hết ḷng dạy các cậu, mà các cậu học hành
rất chăm chỉ. Sự học hành cần lắm. Ta
phải rủ nhau đi học. Có học mới khôn
được”.
Hồi xưa học tṛ
trong Nam ôm cặp bằng đệm, đội nón
đệm, mặc áo bà ba, quần cụt, chân đi
đất. Sau này mới có áo sơ mi trắng, cặp da,
nón nỉ.
Giấy viết hồi
đó là giấy manh, mua về phải gạch hàng, sau này có tập
vở cahier khổ nhỏ :32, 50, 100 trang.
Học tṛ xưa viết
chữ rất đẹp. Thầy giáo dạy nắn nót
từng nét. Viết bằng cây viết có ng̣i, mực tím,
nét chữ do đó rất sắc sảo.
Thầy giáo xưa
rất chăm chỉ là mẫu mực cho xă hội.
Thầy rất gần gũi với cha mẹ, làng xóm.
- Không thầy đố
mày làm nên.
hoặc
- Muốn sang th́ bắt
cầu kiều,
Muốn con hay chữ
phải yêu lấy thầy.
Hồi đó thầy giáo
được đào tạo thế nào ?
Ban đầu
được chọn từ những người
đậu Tiểu Học, hoặc nếu không đậu
th́ phải có chữ viết tốt. Họ ăn
lương làng xă hoặc ăn lương tỉnh. Cả
hai loại quyền lợi đều thua các thầy kư,
thầy thông mặc dầu xuất thân như nhau.
Hồi Tây mới mở
trường làng, dân không ai chịu cho con đi học;
sợ triều đ́nh hoặc sợ Tây bắt con đi
Tây luôn ...
Do đó ban đầu
làng bắt buộc, cưỡng bức cha mẹ đem con
đi học; Dù vậy cũng không đủ số
học tṛ cho mỗi lớp.
Kết luận bài ”Trường học” tác giả Luân Lư Giáo Khoa Thư viết :
”Khuyên
con, con sớm chuyên cần.
Học hành có chí
lập thân nên người”.
Học hành quả là
cần thiết. Nó là ch́a khóa mở cửa trí tuệ con
người.
Cha mẹ Việt Nam ta
xưa , dầu ít học,
nhưng ai ai cũng lo toan cho con ḿnh đi học, dù học
chữ Hán, Chữ Nôm, chữ quốc ngữ, chữ Tây ...
Thế mới thấy
rằng dân tộc ḿnh xưa nay vốn hiếu học và
rất coi trọng người trí thức, người có
chữ nghĩa.
Sĩ
nông công thương.
Trong nếp thang nghề
nghiệp, sĩ xếp đầu, người trí
thức, kẻ sĩ luôn được đề cao.
Nói về thứ bậc
trong xă hội th́ người Thầy chỉ đứng
sau Vua mà thôi.
Quân,
Sư, Phụ.
Sang hải ngoại cái
tinh thần hiếu học của người ḿnh cũng
đă được khẳng định, làm rạng danh
dân Việt vậy.
(1)
Xứ Nam Kỳ Lục
Tỉnh ban đầu chỉ có trường thi Tú Tài ở
Gia Định và Văn Thánh Miếu ở B́nh Dương.
Năm 1863, ba tỉnh miền Đông bị Pháp chiếm,
cụ Phan Thanh Giản là Khâm Sai Đại Thần,
được vua Tự Đức cử làm Kinh
Lược 3 tỉnh Miền Tây, đồn trú tại
Vĩnh Long. Cụ cho lập :
- Trường
thi Tú Tài tại An Giang (Châu Đốc)
- Văn Thánh
Miếu tại Long Hồ (Vĩnh Long)