Thử tìm hiểu đời sống người tiền - sơ sử trên đất Bình Dương qua các di tích khảo cổ

Vết tích của người tiền sử để lại khá nhiều trên địa phận tỉnh Bình Dương ngày nay. Đó là những địa điểm cư trú và mộ táng với hàng ngàn hiện vật đã được các nhà khảo cổ tìm thấy. Các di tích được xác định niên đại khoảng từ 2500 đến 3500 năm cách ngày nay là các di tích Dốc Chùa, di tích Cù Lao Rùa, di tích Mỹ Lộc đều thuộc huyện Tân Uyên. Di tích có niên đại muộn hơn khoảng từ 1800 năm đến 2000 năm cách ngày nay thuộc thời sơ sử là di tích Phú Chánh cũng thuộc huyện Tân Uyên. Ngoài ra còn có một số địa điểm có dấu vết của người xưa được phát hiện nhưng chưa tiến hành khai quật như địa điểm Bà Lụa thuộc phường Chánh Nghĩa- thị xã Thủ Dầu Một, địa điểm Vịnh Bà Kỳ xã Tân Định huyện Bến Cát, địa điểm Hàn Ông Đại xã Tân Định huyện Tân Uyên. Những địa điểm này qua quá trình điều tra đào thám sát đã thu được một số hiện vật cũng được xác định niên đại khoảng từ 2500 năm đến 3500 năm cách ngày nay. Qua các đợt khai quật và đào thám sát, các nhà khảo cổ đã thu thập được hàng ngàn hiện vật nhiều loại hình , nhiều chất liệu khác nhau như các loại công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí, công cụ nghề thủ công, đồ trang sức, các loại áo quan mộ táng, đồ tùy táng... với các chất liệu đá, đồng, đất nung, gỗ... Những di vật hàng ngàn năm bị chôn vùi dưới lòng đất hầu hết đều bị vỡ, bị mềm mủn, bị phân hóa...nhưng những hiện vật gần như vô tri vô giác đó đã cho chúng ta biết rất nhiều điều về đời sống của người xưa trên mảnh đất chúng ta đang sống hôm nay.

Đặc điểm vị trí cư trú.

Trong các công trình khảo cổ ở Đông Nam Bộ và cả vùng Nam Bộ nói chung, các nhà khảo cổ chưa tìm được di vật nào mang hình ảnh của con người. Vì vậy chúng ta vẫn chưa thể hình dung được người tiền sử ở Nam Bộ có hình dáng và trang phục ra sao? Tuy nhiên qua các di tích của người tiền sử được tìm thấy, chúng ta biết được rằng: đó là những người có trình độ tổ chức cao và tư duy khá sắc sảo. Họ đã để lại một số lượng vật chất khá lớn, một đặc trưng văn hóa riêng biệt của từng vùng miền theo vị trí địa lý tự nhiên trong suốt quá trình sinh tồn hàng ngàn năm. Tất cả những chứng tích đó đã khẳng định rằng: đã có một nền văn minh tiền sử từng hiện hữu trên mảnh đất này.

Tư duy sắc sảo của người xưa thể hiện khá rõ qua vị trí cư trú. Di tích khai quật đầu tiên ở Bình Dương vào năm 1976 là di tích Dốc Chùa thuộc xã Tân Mỹ huyện Tân Uyên, là một địa điểm nằm trên một sườn đồi cao gần sông Đồng Nai. Di tích Cù Lao Rùa còn gọi là cù lao Thạnh Hội khai quật năm 2003 thuộc xã Thạnh Hội huyện Tân Uyên, là một cù lao rộng lớn trên sông Đồng Nai. Di tích Mỹ Lộc còn gọi là Gò Đá thuộc xã Tân Mỹ, Tân Uyên khai quật năm 2004, là địa điểm nằm trên khu gò cao bên bờ sông Đồng Nai. Các vết tích đã phát lộ như ở Bà Lụa, là địa điểm trên một khu đất cao ven sông Sài Gòn, địa điểm Vịnh Bà Kỳ cạnh sông Thị Tính, địa điểm Hàn Ông Đại sát bờ sông Bé. Riêng di tích Phú Chánh nằm cạnh một con suối sâu, vùng đất trủng thấp. Di tích này có niên đại muộn hơn các di tích kể trên từ khoảng 1000 năm đến 1500 năm, cư dân ở đây đã sử dụng nhà sàn để ở không cần phải chọn vùng đất cao. Tại đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy một số cọc gỗ nhà sàn còn sót lại. Việc sinh sống ở những vị trí gần sông hoặc suối đã cho thấy, họ, những người sống cách chúng ta hàng ngàn năm trước rất thông minh. Họ đã chọn cho mình những vị trí vô cùng thuận lợi để sinh sống và phát triển. Họ cư trú trên những vùng đất cao ở ven sông để không bị ngập nước khi nước sông dâng cao và không bị thiếu nước khi thời tiết khô cạn. Sông suối là những nguồn nước vô tận để phục vụ đời sống sinh hoạt và lao động sản xuất. Sông suối là nguồn cung cấp thức ăn vô cùng phong phú như cá tôm cua ốc...Sông mang phù sa bồi đắp vùng đất ven bờ luôn màu mỡ tươi tốt thuân lợi cho việc trồng trọt cây lương thực, rau, củ, quả... Dòng chảy của các con sông là một hệ thống giao thông rất tiện lợi trong việc vận chuyển lương thực, sản phẩm, đặc biệt là giúp con người giao lưu với nhau giữa các cộng đồng cư dân và với thế giới bên ngoài.

Đời sống vật chất.

Ngoài di tích Phú Chánh thời sơ sử cách ngày nay khoảng từ 1800 năm đến 2000 năm, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những cọc gỗ được xác định là cột nhà sàn. Các di tích cách ngày nay khoảng từ 2500 năm đến 3500 năm vẫn chưa tìm được vết tích của nhà ở hoặc một hình thức kiến trúc để trú ngụ. Có thể người xưa đã dùng hang đá để làm nơi nghỉ ngơi, che mưa che nắng. Bởi vì hàng ngàn năm trước chắc chắn là vùng miền Đông Nam Bộ địa thế hiểm trở, rừng rậm hang sâu. Ở khu vực chiến khu Đ hơn 30 năm trước vẫn còn là vùng rừng bạt ngàn và có rải rác những hang đá nhỏ.

Về trang phục, chúng ta vẫn chưa hình dung được nhưng chắc chắn hơn 3000 năm trước, người xưa đã mặc bằng chất liệu vải sợi. Vì ở các di tích như Dốc Chùa, Cù Lao Rùa các nhà khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều dọi se sợi bằng đất nung. Đặc biệt ở di tích Dốc Chùa, dọi se sợi có đến hàng trăm tiêu bản, được xem là một di tích có nhiều dọi se sợi nhất trong hàng loạt các di tích khảo cổ ở Việt Nam. Đến di tích Phú Chánh, sau hơn 1000 năm so với niên đại Dốc Chùa, các nhà khảo cổ đã tìm thấy hàng loạt di vật bằng gỗ liên quan đến kỹ thuật dệt vải như dao dệt, trục dệt, lược dệt... và có những mảnh vải mục lẫn trong đất trên bề mặt mộ táng.

Về mặc thì ta chưa biết hình thức trang phục như thế nào nhưng chắc chắn là cư dân tiền sử đã biết làm đẹp bằng nhiều loại trang sức. Di tích Dốc Chùa có hàng chục di vật vòng đá đeo tay hoặc có thể đeo chân cùng một số hạt chuỗi bằng thủy tinh, hạt chuỗi bằng đá và bằng đất nung. Ngoài ra ở Dốc Chùa còn tìm thấy loại hình khuôn đúc đồng, trên đó có khắc hình vật đúc như trâm cài tóc, hoa tai, lục lạc... Ở di tích Cù Lao Rùa và Mỹ Lộc cũng tìm được một số di vật vòng đeo tay bằng đá với một kỹ thuật mài giũa khá tinh vi cùng hàng loạt các phôi vòng đang trong quá trình tạo tác. Di tích Phú Chánh không tìm thấy trang sức nhưng tìm được những di vật phục vụ cho việc làm đẹp như lược gỗ, gương đồng, loại gương “ tứ nhũ tứ ly” thời Tây Hán ở Trung Quốc khoảng thế kỷ I sau công nguyên.

Về ăn uống, cư dân tiền sử đã ăn thức ăn nấu chín qua việc nấu nướng bằng các loại nồi bằng đất nung. Ở di tích Dốc Chùa cũng như Cù Lao Rùa các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều dấu vết của bếp lữa qua những lớp tro than để lại. Trong tất cả các di tích khảo cổ được khai quật ở Bình Dương đều phát hiện nhiều loại nồi bằng đất nung và một ít di vật mảnh cà ràng, một loại bếp lò sử dụng trên sông nước. Thức ăn chủ yếu là thịt thú rừng, tôm cá dưới sông, các loại hoa quả, rau củ có sẵn trong tự nhiên và có thể họ đã trồng lúa nước (?) hoặc các loại lương thực khác bởi có sự ưu đãi của thiên nhiên và đất phù sa màu mỡ.

Đời sống kinh tế - xã hội.

Người tiền sơ sử ở Bình Dương đã có trình độ tổ chức cao trong cuộc sống kinh tế – xã hội. Họ sống quần cư theo từng cộng đồng, có sự sắp xếp, tổ chức trong lao động sản xuất và có vẽ như đã có sự chuyên môn hóa trong hoạt động ngành nghề. Hoạt động kinh tế chủ yếu của họ là hoạt động nông nghiệp. Việc tìm thấy rất nhiều công cụ sản xuất ở tất cả các di tích tiền sử như rìu, cuốc nhiều kích thước khác nhau, cho ta hình dung được người tiền sử đã sử dụng chúng để khai phá đất đai trồng trọt. Trong điều kiện tự nhiên của vùng trung du Đông Nam Bộ nhiều sông suối, khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa mưa nắng rõ rệt, việc phát triển nông nghiệp trồng trọt để cung cấp lương thực là điều hiển nhiên. Ngoài ra trong các di tích khảo cổ còn tìm thấy hơn trăm ngàn mảnh gốm từ nhiều loại hình khác nhau và nhiều kích thước khác nhau như bình, hũ, chum, vò... có những cái rất to có thể là đồ đựng lương thực, thực phẩm để sử dụng và dự trữ. Trong không gian sinh sống giữa hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới, rừng núi bạt ngàn nhiều chim, thú, sông suối nhiều cá, tôm... thì việc khai thác nguồn lương thực tự nhiên cũng chiếm vị trí không kém phần quan trọng trong cuộc sống lao động sản xuất như săn bắt thú rừng, đánh bắt cá, hái lượm rau quả, đào củ rừng... Các loại vũ khí được tìm thấy như mũi lao, mũi giáo, mũi tên và hàng trăm hòn bi bằng đất nung có hầu hết ở các di tích khảo cổ, ngoài ra ở các di tích như Cù Lao Rùa, di tích Phú Chánh còn phát hiện một ít xương và răng thú rừng như hươu, nai, voi... là những vật chứng hết sức thuyết phục cho hoạt động săn bắt, hái lượm của người xưa.

Để cung cấp các loại công cụ sản xuất, vũ khí và các loại đồ dùng sinh hoạt phục vụ đời sống, người xưa phải chủ động phát triển các ngành nghề thủ công như chế tác công cụ, se sợi dệt vải, sản xuất đồ gốm, đúc đồng, làm đồ trang sức...

Qua các di tích khảo cổ, các nhà khoa học đã nhận thức được cấu trúc ngành nghề của từng cộng đồng hoặc từng nhóm cư dân cụ thể nhưng chưa thể chứng minh được là có sự phân công lao động trong mỗi cộng đồng, tức là hoạt động ngành nghề tách khỏi hoạt động nông nghiệp. Bởi trong các di vật tìm thấy ở mỗi di tích đều có dấu tích của nhiều ngành nghề, có thể các nghề thủ công ở đây vẫn còn mang tính chất tự cung tự cấp. Tuy nhiên nếu nhìn tổng thể các di tích thì có những đặc trưng riêng về một hoặc vài loại hình di vật có một số lượng đáng kể trong mỗi di tích mà không có hoặc có thật ít ở di tích khác, điều đó làm chúng ta đặt ra câu hỏi phải chăng đã có sự chuyên môn hóa ngành nghề sản xuất trong xã hội của người tiền sử?

Các di vật ở di tích Dốc Chùa ngoài các loại hình công cụ sản xuất mà hầu hết đã có dấu hiệu sử dụng cùng nhiều mảnh gốm, một số ít bàn mài, một ít vòng đá đã hoàn chỉnh và không nhiều các di vật đang tạo tác, thì nổi bật nhất là loại hình dọi se sợi bằng đất nung với hơn 400 tiêu bản nhiều kiểu dáng. Đặc biệt ở di tích Dốc Chùa có rất nhiều khuôn đúc đồng, trong đó đa phần đã vỡ, nhưng còn những di vật nguyên khắc rõ hình các vật đúc như rìu, lưỡi giáo, mũi tên và những vật có hình dáng như trâm cài, hoa tai, lục lạc... cùng một số sản phẩm đồ đồng như rìu, lưỡi giáo, lưỡi qua, lục lạc, tượng thú (chưa xác định loại động vật), một vài vật hình sừng không rõ loại hình và một số quả cân có lẽ là để cân hợp kim trong kỹ thuật đúc đồng? Ở di tích Cù Lao Rùa, di vật nổi bật là có hơn 100ngàn mảnh gốm đủ các loại hình, đủ mọi kích thước như nồi, chảo, chậu, bình, vò, bát bồng,đĩa bồng, mâm bồng, ống nhổ, ống phóng…với đặc điểm đa phần da gốm còn mới và có nhiều gốm tô màu nâu đỏ rất tươi, ngoài ra còn phát hiện một số loại đất màu đã vón cục (có lẽ đây là nguyên liệu tô màu trên gốm?), bên cạnh mảnh gốm, bàn mài ở di tích Cù Lao Rùa cũng có số lượng rất nhiều và nhiều loại bàn mài khác nhau như bàn mài rảnh, lõm, lõi vòng... mà nhiều hơn cả là bàn mài lõi vòng cùng các di vật vòng tay bằng đá hoàn chỉnh và chưa hoàn chỉnh, hàng trăm công cụ đá các loại trong đó có một phần công cụ đang tạo tác cùng một ít mảnh tước đá. Di tích Mỹ Lộc có một loại hình di vật nổi bật với số lượng đáng kể là bàn mài, có đến hơn ngàn bàn mài các loại, đặc biệt là bàn mài có kích thước to rất nhiều cùng nhiều công cụ như rìu, cuốc chưa được mài nhẵn.

Trong đợt đào thám sát địa điểm Hàn Ông Đại, chỉ có hai hố nhỏ nhưng lại có rất nhiều mảnh tước đá to nhỏ khác nhau ken dày lòng đất. Nhìn nhận sơ bộ qua hiện tượng di vật là mảnh tước đá tập trung với số lượng lớn, các nhà khảo cổ suy luận có thể đây là nơi tập trung chế tác các loại công cụ đá ở công đoạn ghè, đẻo?

Như vậy, qua các đặc điểm nổi bật của loại hình di vật trong mỗi di tích khác nhau, làm cho chúng ta có sự suy luận rằng: cư dân tiền sử đã có sự sắp xếp, tổ chức ngành nghề theo tính chất chuyên môn hóa? Có lẽ cư dân ở di tích Dốc Chùa ngoài hoạt động nông nghiệp, chế tạo công cụ sản xuất, làm đồ gốm theo tính chất tự cung tự cấp thì nghề thủ công được tập trung sản xuất không chỉ để tiêu dùng cho cộng đồng là nghề se sợi dệt vải và nghề luyện kim đúc đồng. Cư dân ở di tích Cù Lao Rùa thì có nghề sản xuất đồ gốm với qui mô lớn. Cư dân di tích Mỹ Lộc thì chuyên gia công đồ đá từ công đoạn mài tạo sản phẩm hoàn chỉnh. Trong khi cư dân di tích Hàn Ông Đại chuyên nghề ghè đẻo đá tạo dáng sản phẩm trước khi mài?

Về giao thông, đường thủy là hệ thống giao thông thuận lợi nhất của cư dân cổ xưa. Di chuyển trên sông vừa nhanh vừa có thể vận chuyển với tải trọng lớn mà không cần nhiều sức người. Phương tiện chủ yếu có thể là thuyền và bè. Với cây gỗ rừng và tre nứa tự nhiên là nguồn vật liệu phong phú cho việc làm thuyền, kết bè. Số lượng rìu đủ kiểu, to nhỏ khác nhau, các loại công cụ dạng đục, dùi... rất nhiều trong hầu hết các di tích, với chức năng của các loại công cụ kể trên có thể minh chứng cho việc người xưa dùng chặt cây đẻo gỗ làm thuyền, làm bè để di chuyển, vận chuyển lương thực, thực phẩm và có thể vận chuyển các sản phẩm thủ công...

Từ việc suy luận người xưa đã có sự chuyên môn hóa ngành nghề thì chắc là các cộng đồng cư dân thời tiền sử đã có sự giao lưu chặt chẽ với nhau qua hệ thống sông ngòi. Và chắc là đã có sự trao đổi hàng hóa với nhau bằng hàng hóa với hàng hóa?

Về mặt phân tầng xã hội, theo qui luật xã hội nếu đã có sự hoàn chỉnh trong cơ cấu kinh tế thì đã có sự tích lũy xã hội. Đó cũng là cơ sở cho quá trình phân chia tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Sự phân hóa này được thể hiện rõ trong các hình thức mộ táng. Thời tiền sử sự phân cấp xã hội chưa sâu sắc lắm, chưa được thể hiện rõ nét. Ở giai đoạn sớm như di tích Cù Lao Rùa với hai tầng văn hóa được xác định cách nay khoảng từ 3000 đến 3500 năm, các nhà khảo cổ đã phát hiện một khu mộ táng với đặc điểm chung là rải các mảnh gốm và kè đá chôn trong các hốc đá ong cùng với đồ tùy táng như nồi, bình, vò, bát bồng... và những công cụ đá thông dụng. Nhưng có một vài ngôi mộ đồ tùy táng có những hiện vật to như mâm bồng và những chiếc rìu đá có kích thước lớn chưa có dấu vết sử dụng. Những chiếc rìu này khá đẹp và hoàn hảo về trình độ mài và tạo dáng, có thể là những sản phẩm mang ý nghĩa là đồ thờ tự chứ không phải để sử dụng thông thường. Điều đó có thể là sự phân biệt vị thế của người chết trong mộ, là tín hiệu ban đầu của sự phân tầng xã hội? Ở di tích Dốc Chùa, các nhà khảo cổ phát hiện được hàng chục ngôi mộ cũng với đặc điểm chung là rải gốm và đá trên bề mặt mộ cùng với đồ tùy táng bên dưới mộ. Các tầng văn hóa ở di tích Dốc Chùa có giai đoạn muộn hơn di tích Cù Lao Rùa cách nay khoảng từ 2500 đến 3000 năm, với sự khác nhau về số lượng và chất liệu di vật, kích thước di vật chôn theo trong mộ đã thể hiện rõ nét hơn việc phân cấp xã hội trong cộng đồng này. Một số mộ đồ tùy táng rất ít chỉ một vài đồ đựng bằng gốm, một số mộ đồ tùy táng nhiều nhưng cũng chỉ là đồ gốm, đặc biệt có một số mộ ngoài hiện vật gốm còn có đồ đồng, số lượng đồ đồng trong mỗi mộ cũng khác nhau từ 1 đến 3 hiện vật loại hình khác nhau. Có thể cư dân di tích Dốc Chùa đã có sự phân biệt giàu nghèo hoặc phân biệt vị trí cao thấp trong xã hội? Đến thời sơ sử, đại diện là di tích Phú Chánh thì sự phân chia giai cấp rất rõ ràng. Ở đây có hàng loạt ngôi mộ với nhiều kiểu táng thức khác nhau. Một kiểu táng thức khá độc đáo ở di tích Phú Chánh là dùng áo quan bằng chum gỗ (một đoạn thân cây khoét rỗng hình chum) sử dụng trống đồng làm nắp đậy, đặt đồ tùy táng trong lòng chum. Kiểu táng thức này hiện nay chỉ phát hiện được ở di tích Phú Chánh và đã có 5 trống đồng liên tục được phát hiện tại đây. Trống đồng ở di tích Phú Chánh là trống Đông Sơn loại I, được xem là biểu tượng của nền văn minh Việt cổ, là loại minh khí tượng trưng cho uy quyền và sự giàu có. Kiểu táng thức này có thể giành cho người có vị trí cao nhất trong cộng đồng. Táng thức thứ hai ở di tích Phú Chánh là không có chum gỗ mà chỉ có trống đồng có đồ tùy táng bên trong và sử dụng cọc gỗ cắm vòng tròn xung quanh. Táng thức thứ ba là chỉ cắm cọc gỗ theo vòng tròn, thành mộ ken dày xác cau, giữa có đồ tùy táng, đáy mộ là các loại thảo mộc băm nhuyễn và phủ lớp vải thô trên bề mặt mộ. Táng thức thứ tư là cắm cọc gỗ vòng tròn, đan giỏ tre hình chum đặt dưới mộ cùng với một ít đồ tùy táng đơn sơ ở tâm mộ. Táng thức thứ năm chỉ nén chặt đất dạng chum tròn đặt đồ tùy táng ở giữa. Từ 5 kiểu kết cấu mộ táng và sự khác nhau về số lượng, chất liệu, kích thước của đồ tùy táng trong từng ngôi mộ là một sự phân biệt giai tầng xã hội thật rõ nét trong cộng đồng cư dân ở đây.

Đời sống tinh thần.

Về tôn giáo tín ngưỡng, tư liệu khảo cổ vùng Đông Nam Bộ chưa xác định được cư dân cổ xưa có những tập tục gì? Nhưng về mặt tâm linh chắc chắn người tiền sơ sử đã có quan niệm rằng: có một thế giới khác sau khi chết. Bằng chứng là họ đã chôn theo người chết những đồ dùng thường ngày để mang theo sử dụng ở thế giới bên kia. Việc phát hiện một tượng thú bằng đồng có hình dáng lạ đứng trên lưng một con vật khác thuộc loại bò sát ở di tích Dốc Chùa, những chiếc rìu đá to và đẹp sắc sảo chưa qua sử dụng chôn trong một số ngôi mộ ở di tích Cù Lao Rùa có thể mang ý nghĩa ma thuật hoặc một cách thờ tự, cúng kiến nào đó?

Ở di tích Cù Lao Rùa có một số mảnh đá được xác định là đàn đá, và việc phát hiện nhiều loại hình đồ trang sức trong hầu hết các di tích được khai quật cùng với nhiều hoa văn trang trí trên đồ gốm... cho ta thấy người cổ xưa đã tạo ra một loại hình nghệ thuật bằng âm nhạc để phục vụ cho sinh hoạt tinh thần cho cộng đồng và làm đẹp cho bản thân bằng trang sức, có nhu cầu thẩm mỹ trong sinh hoạt đời sống. Việc phát hiện rất nhiều xác cau trong mộ táng ở di tích Phú Chánh chưa nói lên được điều gì nhưng có lẽ tập tục ăn trầu đã có trong cư dân tại đây.

Qua những vết tích thời tiền sơ sử cùng với sự phát triển của ngành khoa học khảo cổ, trong thời gian qua đã giúp cho chúng ta phần nào hiểu biết về đời sống của người tiền sơ sử và một tiến trình lịch sử của các cộng đồng cư dân cổ trong quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ nói chung và Bình Dương nói riêng. Hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều di tích được khai quật nghiên cứu để bức tranh về xã hội tiền nhân được hoàn thiện hơn.