Đất vườn và con người miệt vườn Bến Tre

Thiên nhiên ai cũngbiết vừa hiền hòa vừa khắc nghiệt. Conngười vừa nhận sự ưu đãi của thiênnhiên vừa phải tìm cách cải tạo và chế ngựthiên nhiên để tồn tại. Mấy thế kỷgian khổ tạo dựng nên mảnh đấtvườn, con người phải lao động cậtlực và đổ ra biết bao nhiêu công sức. Họlớn lên từ đối phó, tìm tòi, học hỏi và sángtạo. Hoạt động vật chất là cơ sởsáng tạo văn hóa, nhưng hoạt động văn hóalại có vai trò thúc đẩy hoạt động vậtchất phát triển.

1.

ĐấtBến Tre là đất cù lao, cuối sông, cận biển.Đất phù sa từ sông Cửu Long bồi đắpmỗi năm một ít, trải qua nhiều thế kỷ,cùng với sức lao động của con người,cồn bãi hoang vu mới trở thành vườntược, đất đai trù phú như ngày nay.

Toànbộ địa hình Bến Tre là ba cù lao bằng phẳngcó độ cao từ 2 đến 3 mét trên mặtnước trung bình. Phần có độ cao ở vềphía Đông Nam, gần biển. Đất thấp dầnvề phía Bắc - Tây Bắc, thấp nhất là triềnsông Tiền và các triền sông Cổ Chiên, Hàm Luông, Ba Lai,Cửa Đại từ đầu nguồn đổxuống.

Kiếntạo tự nhiên của địa hình Bến Tre thuởxa xưa tính từ đầu nguồn trở xuống làđất phù sa trầm thủy cặp ven sông, rừngrậm, giồng cát, rừng ngập mặn và bờbiển trên là bãi cát dưới cửa sông là cát lẫnvới phù sa.

Ngàyxưa, từ vị trí ba cù lao của Bến Tre có thểđến miền Tây và miền Đông Nam Bộ bằngghe thuyền đi sông, ra miền Trung và xuống vùng mũiCà Mau bằng ghe thuyền đi biển. Ngượclại từ miền Trung vào, miền Đông xuống vàmiền Tây lên người ta cũng sử dụngnhững phương tiện tương tự. Từ khicó tàu thủy, sự giao lưu càng thuận tiện vàtấp nập hơn nhiều.

Đặcđiểm địa lý nầy của Bến Tre có liênquan trực tiếp đến nguồn gốc cư dân vàquá trình khai phá những cù lao hoang vắng trở thànhđất đai xóm làng trù phú như ngày nay. Ngườikhai phá và cải tạo đất. Đất đai vàcuộc sống hình thành trên đó, quan hệ sảnxuất, quan hệ xã hội hình thành tính cách conngười. Mối quan hệ cụ thể giữa conngười và con người, lao động và môitrường, môi trường và cuộc sống quyếtđịnh các hoạt động kinh tế và sinh hoạtvăn hóa có tính phổ biến đồng thời vừacó tính đặc thù.

Từthuở xa xưa phần lớn các cù lao còn ngậpnước. Nhiều vùng rộng lớn là đấttrầm thủy, nê địa. Rừng bụi hoang vu, sôngrạch chằng chịt, muỗi mòng, thú dữ (cọp,trăn, rắn, sấu, heo rừng...) từ đầu cùlao xuống đến bờ biển nơi nào cũng có.Những tên đất, tên sông thuở ông bà mớiđặt chân đến khai phá đất cù lao còn lạicho đến nay như: GiồngHổ, Giồng Heo, Giồng Rọ, Rạch Mây, Rạch CáiGấm, Cái Trăn, Cái Sấu, Chẹt Sậy, Tắt HangChuột, Ngã Ba Lạc, v.v... đã nói lên tình trạnghoang dã của thuở xa xưa ấy.

2.

Theo những tài liệumà chúng ta được biết, cư dân ngườiViệt bắt đầu đến khai phá các cù lao ởBến Tre vào khoảng thế kỷ XVII.Đến giữa thế kỷ XVIII thì đã có ấptrại, xóm làng tương đối đông đúc.Đầu tiên, người ta chọn những nơi cóthế đất cao ráo và có nguồn nước ngọtđể cư trú và sản xuất. Đất giồngcó lợi thế là cao ráo dễ khai thác, có nguồnnước mưa và nước ngầm (tứcnước giếng mà độ sâu chỉ đào xuốngđất khoảng 2 - 3 mét), trồng được hoamàu ngắn ngày, khí hậu tương đối ítđộc địa hơn vùng rừng rậm, nêđịa. Giồng là nơi lớp người đitrước có điều kiện trụ lại, tổchức cuộc sống và tiếp tục tiến hành khaithác các vùng còn hoang vắng. Từ thế đứng trênđất giồng, người ta tiến hành khai hoang phárừng mở ruộng cấy lúa, hoặc cấy lúa xenvới trồng màu và tiến xa hơn nữa cuộc chinhphục thiên nhiên đi tới các vùng rừng rậm cònđang ngập nước, cồn bãi theo ven rạch,triền sông. Mục tiêu sau cùng nầy đòi hỏinhiều thou thách, công sức và sáng kiến củangười dân khai phá và từ đó đất cù lao phátsinh một vùng kinh tế quan trọng: đấtvườn.

Trảiqua nhiều năm tích lũy kinh nghiệm tiếp xúcvới thiên nhiên vùng đất mới, con ngườiđã rút ra những kết luận quan trọng:Đất cù lao là đất phù sa. Vùng ngập nướcven rạch, ven sông là nơi lắng đọng phù sa màumỡ nhứt. Đất cù lao không cao hơn mặtnước, nhưng dòng chảy của các con sông lớn theochế độ bán nhựt triều, ngày đêm hai connước lớn ròng, con người có khả năngcải tạo vùng nê địa thành đất trồngtrọt có đủ nước tưới thườngxuyên mà không sợ ngập úng.

Sángkiến đào mương, lấy mương đắpliếp, mương càng sâu liếp càng cao, đã tạo ramột cảnh trạng mới. Vùng ngập nước lùidần, mương và liếp mở rộng nhanh chóngở các ven rạch, ven sông, nghề vườn xuấthiện. Đầu tiên vườn còn là kinh tế giađình, vườn bao bọc xung quanh nhà ở, về sauvườn phát triển lên thành vùng chuyên canh.

Nếunhư trên giồng thích hợp với các loại hoa màu longthực, dâu tằm, bông vải, dưới ruộng là câylúa nước, thì ở trên liếp vườn lạirất thích hợp với các loại hoa quả miềnnhiệt đới. Đầu tiên người ta trồngtrên liếp vườn các loại cây ăn trái chủyếu là dừa, cau, chuối, sau đó di thực cácloại cây ăn trái khác về trồng thí nghiệm vàthực sự đã đạt được kếtquả khả quan. Cam, quít, chanh, bưởi, xoài, sầuriêng, măng cụt, chôm chôm, mận, ổi, v.v... trồngtrên đất vườn hết sức tốttươi và đem lại cho người làm vườnhiệu quả kinh tế và đời sống rất phongphú.

Sựtốt tươi, trù phú của vùng đất ngậpnước nay được nâng cao lên bằng bờliếp, xung quanh bao bọc bởi một hệ thốngmương vườn vừa có tác dụng tướitiêu tự chảy, vừa có tác dụng thường xuyênbồi đắp phù sa cho cây trồng đã giúp chongười trồng tỉa phát hiện giá trị lớnlao của nghề làm vườn và kinh tế vườn,một nghề rất mới trên đất cù lao.

Nghềlàm vườn xuất hiện và mau chóng phát triển,đã thu hút đông đảo cư dân vào hướng khaithác các ven rạch, ven sông, từ vàm đến ngọn.Một bước ngoặt quan trọng xảy ra trong nôngnghiệp trên đất cù lao: sự phân công tự nhiêngiữa nghề ruộng và nghề vườn. Bướcngoặt này đưa đến hai đặc điểmquan trọng: Trong nông nghiệp bắt đầu có sựphân công lao động mới và đi vào chuyên canh vớihiệu quả kinh tế lớn hơn so với tìnhtrạng chỉ có độc canh cây lúa. Kinh tếvườn khi phát triển thành vùng chuyên canh đã đi vàosản xuất hàng hóa.

Từkinh tế tự cấp tự túc chuyển sang kinh tếhàng hóa là một bước tiến quan trọng. Kinhtế hàng hóa gắn liền với mở rộng lưuthông và trao đổi sản phẩm. Quan hệ giữangười với người, giữa vùng nầyvới vùng khác ngày càng phát triển theo yêu cầu mới.Sông nước mênh mông là thế mạnh về giao lưucủa vùng vườn thuở xa xưa đườngbộ chưa phát triển mấy. Giao lưu kinh tếđồng thời với giao lưu văn hóa. Thông tintrong sản xuất và đời sống phát triển tácđộng mạnh mẽ đến đời sốngvật chất và tinh thần của cư dân trênđất cù lao. Kinh tế hàng hóa giúp cho ngườixưa hiểu rõ hơn vấn đề tích lũy trongsản xuất và để tái sản xuất theo nhucầu mới trong cuộc sống. Giao lưuđược mở rộng là điều kiệnđể con người học hỏi và trao đổikinh nghiệm lẫn nhau về ăn, ở, tổ chứcđời sống, hoạt động kinh tế vàhoạt động văn hóa.

3.

Nếunhư cư dân người Việt có mặt trênđất cù lao từ thế kỷ XVII do các luồng didân khẩn hoang từ các tỉnh miền Trung đến,thì nghề vườn cóthể đã xuất hiện khoảng nửa cuốithế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX.Khi người Pháp đến chiếm Bến Tre (1867) thìở đây nghề vườn đã khá phát triển,ở tổng Minh Lý thuộc cù lao Minh, vườn đãthành vùng chuyên canh tập trung, có người đã trồngđến hằng mẫu vườn với nhiều câytrái khá phong phú, mà người Pháp cho rằng “hữu ích vàkỳ lạ, như dừa lùn, cau, trầu và nhữngloại cây trái của xứ Cao Miên, của bán đảo Mã Lai vàcủa Nam Triều”(1).

TheoGia Định thành thông chícủa Trịnh Hoài Đức thì trong các đời vua nhàNguyễn, hằng năm đến mùa trái cây, các quantrấn vùng Gia Định đưa những loại tráiquý về kinh đô để tiến Vua. Những loạitrái quý ấy chắc hẳn lấy từ các vườncây trái tập trung ở ven sông Đồng Nai và sôngTiền mới được khai phá.

VườnBến Tre xuất hiện sớm ở đầu trên cù lao Minh và cù lao Bảo(Bắc Mỏ Cày và Sóc Sãi) với nhiều loại câytrồng xen nhau. Dần dần vườn phát triển theoven sông Cổ Chiên, Ba Lai, Cửa Đại dài theo hai bên sôngBến Tre (có đoạn gọi là sông Giồng Trôm), từvùng nước ngọt đến vùng nước lợ vàhình thành những vườn dừa tập trung. Dừa An Hóa (Ba Lai), dừa Ba Châu nổi tiếng vìtrồng tập trung, nhiều trái và có chất lượngcao (dừa đặc biệt thích nghi với vùngnước lợ, sai trái, cơm dày và hàm lượngdầu cao hơn dừa trồng ở các vùng khác). Pháthiện được sự thích nghi này, cư dân BếnTre đã chú ý rất sớm về hiệu quả củacây dừa trong nghề làm vườn và ý thứcđược phương hướng đi vào chuyên canh.

Theomột vài tài liệu cũ, ở cù lao Minh và cù lao Bảo:“năm 1899 có 4.000 ha dừa và 10.000 ha cây trái khác”.“Bến Tre bán ra bốn sản vật chính: lúa, cơmdừa khô, lụa, cau và trầu”(2).

Cóthể trên những cù lao thuộc Bến Tre trồngdừa sớm, dừa tập trung, sản phẩm dừađược đưa đi trao đổi nhiềunơi, nên ở các nơi khác người ta thườnggọi Bến Tre là xứ dừa.

Sựhình thành vùng đất vườn, xây dựng nên hệsinh thái mới đẩy lùi tình trạng bùn lầy nêđịa, sinh hoạt gò bó, bịnh tật, thú dữ lantràn, đã đem lại cho con người một cuộcsống ổn định, khí hậu hiền hòa, thích nghivới việc ăn ở lâu dài. Vườn cây mở ra,cư dân vùng vườn càng thêm đông đúc, nhà cửakhang trang, xóm làng trù phú. Cảnh quan sông, vườn,ruộng nối liền nhau, trên bến dướithuyền tấp nập, vang vang tiếng haut giọng hò làmột sự đổi mới hoàn toàn so với thờidân cư thưa thớt, rừng bụi, sông rạchngăn cách việc giao lưu đi lại kinh tế hoàntoàn tự cấp. Đó là một kỳ công cải tạovà sáng tạo thiên nhiên, sáng tạo môi trường sốngcủa người Việt ở Bến Tre trải quahằng thế kỷ lao động nhọc nhằnvất vả, không biết bao nhiêu con người đã ngãxuống vì công việc chinh phục thiên nhiên đầy giankhổ nầy.

Thuởban đầu chinh phục vùng hoang vắng buộcngười ta phải sống quần cư thành từngxóm để tương trợ đùm bọc lẫn nhau.Lao động phá đất lập vườn là mộtloại lao động hoàn toàn thủ công và vô cùng nặngnhọc. Phải có những con người cườngtráng, có quyết tâm, biết tổ chức lao độngtập thể với hiệu suất rất cao mới cóthể biến cồn hoang, bãi bùn, lùm bụi ngậpnước thành vườn tược khang trang cao ráo. Tìnhlàng nghĩa xóm, lao động tập thể đã làm cho ýthức cộng đồng của người dân khai hoangngày thêm củng cố. Quá trình lao động gian khổcàng làm cho con người thiết tha gắn bó vớiđất đai, vườn tược do chính họ làmnên.

Tạonên mảnh vườn là sáng kiến cải tạo thiênnhiên cộng với sức lao động cần cùnhẫn nại. Xác định cơ cấu cây trồngtrên đất vườn và phát triển nghề làmvườn đòi hỏi con người phải tìm tòi pháthiện những bí ẩn sinh học của các loại câytrồng, biết di thực và lai tạo các giống câytrồng thích hợp trên vùng đất mới, biếtbố trí cây trồng sao cho sự phát triển đạtđược hiệu quả kinh tế cao nhứtđối với từng vùng đất. Kinh nghiệmđã có về nghề làm ruộng, trồng giồng, khôngthể áp dụng cho nghề làm vườn. Điều kiệnsản xuất mới đòi hỏi con ngườiphải biết suy nghĩ, tìm tòi, học hỏi, pháthiện cái mới. Cần cù nhẫn nại chưađủ mà còn phải có kiến thức cần thiếttrong sản xuất. Lao động không giản đơnmà lao động phải thông minh. Chính do đặcđiểm nầy mà người lao động nghềvườn sớm phát hiện và biết khai thác nhiềutầng sinh thái, từ khai thác đơn giản ba tầngđã tiến đến khai thác năm tầng. Ngày nay trongmột khu vườn công thức nuôi trồng: dừa, câyăn trái, tổ ong, mô nấm, liếp rau, ao cá, chuồnggia súc không còn là điều mới lạ, mà là công thứcnuôi trồng phổ biến. Nghề vườn còn chia rahai ngành: ngành trồng cây và ngành ương cây. Khu vực CáiMơn - Vĩnh Thành ngành ương cây, chiết và ghép cây,lai và tạo giống cây phát triển từ những năm30. Ngành ương và ghép cây thể hiện mộtbước tiến quan trọng của nghềvườn, từ kinh nghiệm tiến đến kếthợp kinh nghiệm với tri thức khoa học. Trong vòng ba thế kỷ, ba cù laohoang vắng đã trở thành ruộng vườn, làng xómtrù phú như ngày nay quả thật là một kỳ côngcủa lao động tập thể, một chiến côngchinh phục thiên nhiên hết sức vĩ đạicủa các thế hệ con người đã nốitiếp nhau khai phá đất Bến Tre.

4.

Kinhtế vườn phát triển, đồng thời trêncơ sở của sinh hoạt kinh tế đó,đời sống và sinh hoạt văn hóa tinh thầncủa người dân miệt vườn cũngđổi mới và phát triển. Hoàn cảnh mới, sinhhoạt mới, nảy sinh tình cảm, tâm tư, cách làm,thói quen mới. Người lao động miệt vườnngày ngày cặm cụi đào mương đắpliếp, bồi đất lên gốc cây trồng, chămchút từng chiếc mầm xanh, say sưa với chùm tráichín. Đêm đêm họ thích thú ngắm nhìn sôngnước, bóng dừa pha với ánh trăng, mùi bôngdừa, bông bưởi, bông cau, đưa hương thoangthoảng, lòng rộn rã với tiếng chày giã gạokhuấy động vườn khuya tĩnh mịch, bângkhuâng nghe giọng hò chèo ghe lên bổng xuống trầm, bàngbạc ngân vang giữa trời cao sông rộng.

Nghềvườn khác hẳn với nghề ruộng. Dừa ngàycàng cao, sào chiếc sào đôi không với tới.Người làm vườn muốn giựt dừa phảidùng đến câu liêm, dừa quá cao thì leo lên ngọn bẻtrái. Giựt dừa phải có sức mạnh nâng chiếccâu liêm dài năm, bảy thước lên ngang ngọndừa, một động tác giựt phải đổcả một buồng dừa từ năm đếnchục trái. Họ leo dừa nhanh như sóc và chuyền trênđọt dừa từ cây nầy sang cây khác ngoạnmục như một tiết mục xiếc. Laođộng miệt vườn có sức khỏe chưađủ mà đòi hỏi phải thật nhanhnhẹn,dẻo dai.

Đấtvườn, sông rạch mương xẻo như mắccửi, bước ra khỏi nhà là gặp cầu. Từnơi nầy sang nơi khác, đi chợ, đi xóm,thăm hỏi lẫn nhau phần nhiều phải đixuồng, xuồng bơi, xuồng chèo, xuồng moat chèo,xuồng hai chèo. Giỏi đi cầu khỉ, giỏi chèochống, bơi xuồng là đặc điểm củangười miệt vườn từ già chí trẻ.Cầu khỉ không dài nhưng qua cầu phảiđiềm tĩnh, nhẹ nhàng, nhanh, và phải biếtphối hợp các động tác thăng bằng cầnthiết. Chèo xuồng, chèo ghe, không phải chỉ có cònglưng, ưỡn ngực, mà người chèo phảibiết bố trí các động tác cân đối nhịpnhàng, uyển chuyển, khoan thai khi điều khiển máichèo khua mặt nước. Có lẽ do sinh hoạt hằngngày, thói quen sử dụng các động tác qua cầu,bơi xuồng, chèo xuồng, con người miệtvườn có dáng đứng dáng đi khỏe khoắn,gọn gàng, khoan thai, uyển chuyển.

Môitrường đổi mới, cuộc sống phong phúhiền hòa, miệt vườn sớm nổi tiếng lànơi nước ngọt cây lành, trai xinh gái đẹp.

Nhàcửa miệt vườn vẫn giữ dáng dấp nhàcửa của làng quê Việt Nam truyền thống,nhưng rất ngăn nắp, sạch sẽ, khang trang.Trước nhà là sân hoa với hàng rào cắt gọnbằng cây cảnh, phổ biến nhà nào cũng có bồnhoa, chậu cảnh được tạo dáng khá công phu,chăm sóc hết sức cẩn thận, người ta chorằng đó là những nhân tố cần thiết làmđẹp cửa đẹp nhà, thêm niềm vui cho cuộcsống. Sau nhà là ao cá, mương tôm và chuồng trạichăn nuôi. Ngày giỗ, ngày tết, ngày thường, khicần thiết, nhà vườn có đủ cả hoaquả, thịt cá.

Ngườimiệt vườn thích trang trí trong nhà các loại tranh phongcảnh. Trên vách, giữa bàn thờ ông bà, người tathường treo tranh, tứ thời, tứ bình, nhữngloại tranh theo các đề tài cổ điển: tùng lộc,hoa điểu, mai hạc v.v... Nét độc đáo làgiữa nhà thường có một bức tranh sơnthủy cỡ lớn, trong tranh có mái nhà thân thuộc,cội cây, cầu nước, dòng sông uốn khúc, xa xa làchiếc buồm trắng giữa dòng nước biếc,in bóng non xanh, man mác một khoảng trời bao la xathẳm, sâu sắc tình quê, đượm hồn nonnước.

Conngười sinh ra và lớn lên trên đất vườnlao động rất cần cù và thích cuộc sống êmđẹp, hiền hòa, tao nhã. Họ rất hiếu khách,cởi mở, chân tình, quý người phương xanhư thân thuộc. Đất vườn trù phú, cảnhvật hữu tình, người miệt vườnđẹp nết, đẹp người, chân tình,hiếu khách, đã thu hút số đông người thànhthị về thăm quê vườn trong những ngàynghỉ, ngày Tết..

Ngườimiệt vườn siêng năng, chăm làm, ham họchỏi. Lao động và cuộc sống đòi hỏihọ phải cần mẫn và thông minh. Họ rất saysưa tìm tòi những bí ẩn sinh học của câytrồng để bồi dưỡng, thuần hóa và cảitạo nó. Từ thuở xa xưa chỉ có cây dừa, câycau, cây chuối, dây trầu là những loại cây trồngphổ biến, ngày nay tập đoàn cây trồng trênđất vườn hết sức phong phú. Mỗiloại cây qua sự thuần dưỡng của conngười cũng đều có sự phát triển,đổi mới, hơn hẳn về số lượngvà chất lượng so với nguồn gốc cũ.Cải tạo và sáng tạo tự nhiên là nét độcđáo của người lao động miệt vườn.

Thiênnhiên ai cũng biết vừa hiền hòa vừa khắcnghiệt. Con người vừa nhận sự ưuđãi của thiên nhiên vừa phải tìm cách cảitạo và chế ngự thiên nhiên để tồn tại.Mấy thế kỷ gian khổ tạo dựng nên mảnhđất vườn, con người phải laođộng cật lực và đổ ra biết bao nhiêucông sức. Họ lớn lên từ đối phó, tìm tòi,học hỏi và sáng tạo. Hoạt động vậtchất là cơ sở sáng tạo văn hóa, nhưnghoạt động văn hóa lại có vai trò thúcđẩy hoạt động vật chất pháttriển. Không phải ngẫu nhiên mà thuở xa xưaở miệt vườn nầy đã sớm xuấthiện những con người hiếu học, thông minh,có học vấn cao nổi tiếng cả vùng lụctỉnh. Ngày nay cũng chính những con ngườimiệt vườn ấy, đã sớm thấy vai tròcủa khoa học, tìm đến với khoa học,rất cần mẫn và thông minh trong việc tiếpthụ và ứng dụng khoa học vào cây trồng. Họđang dẫn đầu phong trào tạo ra lúa cao sản,dừa cao sản, mía cao sản, đưa dây hồ tiêu vàcây ca cao vào đất vườn, biết khai thác batầng sinh thái trong đất vườn, biết thínghiệm và thuần hóa các loại cây công nghiệp khótrồng để đổi mới cơ cấu câytrồng, mở đầu cho bước phát triểnmới: công nghiệp hóa từ nông nghiệp đấtvườn. Con người lớn lên cùng với sự trùphú của thiên nhiên được cải tạo và sángtạo. Đời nọ qua đời kia, nhạy bén vàsáng tạo trong đời sống nối tiếp thànhtruyền thống. Thừa hưởng những thànhquả lao động sáng tạo của ông cha truyềnlại để rồi tiếp tục tiến xa hơn,người miệt vườn thực sự có lòngtự hào chính đáng về quê hương tươiđẹp của mình.

Ngườidân miệt vườn, tuy cuộc sống có đổimới do kinh tế vườn trù phú, nhưng vẫngiữ vững bản sắc thuần hậu, chấtphác, hun đúc hào khí Đồng Nai của cha ông truyềnlại, yêu đất, yêu vườn, thương người,thong nước. Phong trào  chống Pháp trên đất cù laokéo dài đến đầu thế kỷ XX vẫn cómặt của người miệt vườn. Lòng yêunước đã thử  tháchbản lĩnh và tài năng của họ.  Ba thế kỷ laođộng và chiến đấu đầy gian khổcủa mấy thế hệ cư dân trên đất cù laođã tạo dựng nên đất vườn và rènluyện bản sắc con người miệtvườn. Thừa hưởng truyền thống củacha ông, thế hệ con cháu người miệtvườn được hun đúc sâu sắc thêm lòng yêunước, yêu quê hương, gắn bó với đấtđai, cây trồng, cần cù, thông minh, ham học, ham làm,quý trọng đạo lý và tình người, hào hiệp,mến khách, biết lo xa, dám làm việc lớn.

Quákhứ và hiện tại, bản lĩnh và tài năng đãtạo cho con người miệt vườn dángđứng Bến Tre rạng rỡ niềm tự hào chínhđáng.

Tìmhiểu đất vườn và con người miệt vườn là để gópphần hiểu rõ chiều sâu những gì đã nuôidưỡng, phát huy và sáng tạo truyền thốngViệt Nam trên vùng đất mới.

Quákhứ và hiện tại chuẩn bị hành trình chobước tiến tương lai l

____________________

(1) và (2) Excursions etreconnaissances (1880) và Guide annuaire illustré de la Cochinchine (1899) do NguyễnDuy Oanh trích dẫn trong “Tỉnh Bến Tre trong lịchsử Việt Nam” xuất bản 1971.