Học giả, dịch giả Olgar Dror viết về Nhã Ca & ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’ (kỳ 09)
Những Quan Điểm Cá Nhân từ phía Cộng Sản: Trường hợp Bùi Tín

Bùi Tín nhìn thấy nguyên do thứ ba trong hệ thống giáo dục Cộng Sản hiện hữu lúc bấy giờ, mà, theo quan điểm của ông, bắt rễ trong hận thù. “Giáo dục thù hận, cần trong thời chiến tranh, được gia tăng tới mức cực đoan, [và] những huấn thị được lan truyền rộng rãi rằng ‘những tay sai giết người,’ [và những kẻ khác] là những kẻ thù nguy hiểm nhất, nhất định không được để cho chúng trốn thoát.” Như Bùi Tín xác định, hệ thống giáo dục như thế đã tạo ra căn bản cho cuộc tàn sát thảm khốc.(79)

Như Huỳnh Tấn Phát, người được Trương Như Tảng nói đến, Bùi Tín cho thấy rằng không có lệnh hành hình được đưa ra trước. Dù cả Huỳnh Tấn Phát, như được Trương Như Tảng cho biết, và Bùi Tín đều phủ nhận sự có mặt của lệnh từ thẩm quyền cao nhất trước cuộc tấn công, họ lại có cách giải thích khác nhau về các vụ giết người -- người trước [Trương Như Tảng] cho rằng tính tự phát từ một người lính bình thường, trong khi người sau [Bùi Tín] thì cho rằng khả năng của mệnh lệnh như thế là từ một người không rõ vào thời điểm rút lui của lực lượng Cộng Sản. Cả hai đều không nói đến vấn đề những vụ giết người được thực hiện rất lâu trước khi [Cộng Sản] bắt đầu rút lui.

Bùi Tín kể rằng quá trình ra quyết định của chính quyền và Đảng Cộng Sản không bao giờ được công khai, nhưng ông cho rằng đảng và chính quyền đã không có nỗ lực đáng kể qua việc điều tra hay trừng phạt sau đó: “Các lãnh đạo của Đảng Cộng Sản có khuynh hướng xem ‘sự chệch hướng’ nhẹ như là, chẳng hạn, [đã xảy ra] trong thời Cải Cách Ruộng Đất và các chiến dịch chống tôn giáo” khi mà con người và các vấn đề “tất cả đều được xử lý đại khái.”(80)

Bùi Tín nêu tên 3 người bị “phê bình” đối với thảm kịch tại Huế. Đại Tướng Trần Văn Quang, tư lệnh kiêm chính ủy của khu vực nơi mà Huế nằm trong đó, bị phê bình nhưng vẫn tiếp tục binh nghiệp và vào năm 1981 được bổ nhiệm là thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và được thăng cấp thượng tướng vào năm 1984. Thiếu tướng Lê Chưởng, chính ủy của quân đội Việt Cộng của Mặt Trận, dựa trên sự phê bình đã được thuyên chuyển làm thứ trưởng Bộ Giáo Dục. Ông đã chết vào năm 1973 trong một tai nạn xe. Người thứ ba bị phê bình, theo Bùi Tín, là Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch quân sự bên tả ngạn Sông Hương. Theo Bùi Tín, Đại tá Lê Minh đã chết vì bệnh sau đó.(81) Bùi Tín không nói rõ thời gian Lê Minh chết, nhưng Lê Minh chắc chắn còn sống lâu sau Tết Mậu Thân. Hơn nữa, năm 1987 ông [Lê Minh] đã viết một bài cho số báo tưởng niệm, Huế, Xuân 68, được xuất bản trong dịp kỷ niệm 20 năm Tết Mậu Thân tại Huế vào năm 1988, 5 năm sau cuốn sách của Bùi Tín được xuất bản.

Trường hợp Lê Minh

Bài viết của Lê Minh trong báo Huế, Xuân 68, nổi bật với những bài viết được viết bởi các chính trị gia và những người tham dự vào các sự kiện. Một cách nào đó nó miêu tả sự chệch hướng đáng kể từ sự xử lý của chính quyền đối với thảm kịch. Lê Minh viết rằng những tàn ác là một phần không thể tránh được của chiến tranh. Ông ca ngợi hiệu xuất của lực lượng Cộng Sản tại Huế trong thời gian Tết Mậu Thân: “Cần nói rằng sau khi chúng tôi rút lên rừng, nếu có điều gì đó còn bám rễ sâu trong tâm trí của người dân Huế, thì trước hết, đó là việc nâng cao hình ảnh của ‘bộ đội bác Hồ [Hồ Chí Minh].’” Nhưng rồi ông đi lạc vào chủ đề các vụ giết người tại Huế: “Khi chúng tôi rút lui, kẻ thù đã phản công chúng tôi với sức mạnh ghê gớm.” Ông thừa nhận rằng có một số trường hợp cụ thể những người thuộc ngụy quân và ngụy quyền đã bị bắt và những người chống Cộng Sản. “Trong các tình thế này, một vài anh chị em của khối quân đội của chúng tôi (quân đội, du kích, tự vệ, vân vân) đã không thể tránh được những hành động nông cạn [tác giả viết chữ nghiêng] trong trường hợp này. Chúng tôi ở trong tình thế cực kỳ khó khăn mà chúng tôi không thể kiểm soát hết những hành động của từng tay súng và từng du kích…gồm cả một số chủ lực địa phương, trong những phản ứng của họ đối với các sự kiện.”

Thực tế, trọng điểm của ông vẫn còn hẹp – ông đã không đề cập đến nhiều nạn nhân, nhưng từ sự mô tả của ông chúng có vẻ chẳng quan trọng gì và hạn cục đối với các giới chức quân đội và chính quyền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ông cho thấy một chừng mức nào đó của sự phạm tội được cho là do lực lượng Cộng Sản, không phân biệt họ là người bắc hay người nam. Thêm nữa, ông thực sự cho rằng trách nhiệm của chính ông đối với các hành động của lực lượng Cộng Sản như là người chỉ huy của những lực lượng đó. Ông kết luận bằng một câu còn ấn tượng hơn: “Nhiệm vụ hiện nay của cách mạng là đưa ra ánh sáng sự bất công gây đau khổ cho các gia đình và những trẻ em của những người đã chết trong hoàn cảnh đó khi pháp luật cách mạng không bao giờ cố tình đẩy họ vào chỗ chết.”(82)

Bài viết của ông có ý nghĩa đặc biệt bởi vì, không giống Trương Như Tảng và Bùi Tín, những người đã sống ngoài Việt Nam và sách của họ được xuất bản tại Hoa Kỳ sau bài viết của Lê Minh, được xuất bản trong Việt Nam. Thật khó tưởng tượng rằng nó là tác phẩm “giả tạo” và rằng nó đã không đi qua quá trình kiểm duyệt thường xuyên. Có thể bởi vì cuốn sách được xuất bản tại Huế, cách xa quyền lực trung ương tại Hà Hội, nên sự kiểm duyệt không khắt khe. So với một tuyển tập có tiêu đề tương tự, Mậu Thân 68, được xuất bản tại Hà Nội bởi Ban Tuyên Truyền và Giáo Dục Tư Tưởng Trung Ương cùng thời điểm và cùng nói về một biến cố, đánh giá cao sự thành công của Cộng Sản ở thời điểm đó và thậm chí không đề cập gì tới Huế.(83) Tuy nhiên, có vẻ như rằng với sự có mặt của sự kiện đổi mới vào năm 1986, tương tự với sự cải tổ của Sô Viết, quốc gia đã trải qua hàng loạt tác động mãnh liệt về kinh tế và tác động ít mãnh mẽ hơn nhưng vẫn là những thay đổi chính trị quan trọng. Sự thay đổi sau cho phép hay được mong đợi cho phép vào thời điểm đó một mức độ tự do ngôn luận lớn hơn trước đó. Tôi nghĩ rằng nếu bài viết của Lê Minh được chính quyền đồng ý, có lẽ nó là bước mở ra khả năng thảo luận nhiều hơn nữa. Giả thuyết của tôi được hậu thuẫn bởi sự kiện là bài viết của Lê Minh được đề cập bởi Nguyễn Văn Diệu, là cán bộ liên lạc nước ngoài của Đảng Cộng Sản, tới ký giả của báo the Washington Post là Keith Richburg, người đề cập nó trong bài viết của ông “Việt Nam Thừa Nhận ‘Sai Lầm’ tại Huế,” được xuất bản năm 1988.(84)

Trong khi tôi không rõ chính quyền Việt Nam đã có làm gì đối với điều mà Lê Minh nói tới như là “việc đưa ra ánh sáng sự bất công đau khổ,” sau khi xuất bản bài báo, sự xuất hiện tiếng nói của ông không chỉ xác định sự kiện các vụ giết người mà cũng cho thấy rằng trong số những người chiến đấu bên phía Cộng Sản, có người cảm thấy và/hay nói lên tội lỗi đối với thảm kịch tại Huế.

Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường

Mười năm sau bài viết của Lê Minh, vào năm 1997, một người khác đi xa hơn Lê Minh trong sự đánh giá của ông đối với những vụ giết người tại Huế: Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người dân Huế mà trong thời gian Tết là một trong những lãnh đạo của lực lượng Cộng Sản tại miền Nam. Ông được cho là có liên can trực tiếp đến các vụ giết người trong tác phẩm của Vennema và được cho là liên can gián tiếp trong “Giải Khăn Sô Cho Huế.”

Qua tác phẩm của ông chúng ta có thể thấy sự thay đổi quyết liệt trong suy xét của ông về thảm kịch Huế. Năm 1971 Hoàng Phủ Ngọc Tường viết cuốn sách “Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu: Biên Niên Sử.” Phú Văn Lâu là một tòa lầu cao trong Thành Nội Huế. Tựa đề cuốn sách cho thấy thời gian và nội dụng được mô tả trong đó -- khoảng thời gian Cộng Sản kiểm soát Thành khi lá cờ một sao của Cộng Sản tung bay trên đỉnh của tòa lầu Phu Văn Lâu. Ngày tháng ở cuối cuốn sách chỉ ra rằng nó được viết vào năm 1969; tuy nhiên, nó được Nhà Xuất Bản Giải Phóng ấn hành vào năm 1971. Trong khi chính quyền Bắc Việt và sau đó là chính quyền Việt Nam thống nhất cho rằng nhà xuất bản này ở miền Nam, sự thực thì nó ở tại Hà Nội.(85) Với nhà xuất bản tại miền Bắc được kiểm soát bởi chính quyền, thì bảo đảm để kết luận rằng chính quyền miền bắc biết rõ về cuốn sách này.

Không giống “Giải Khăn Sô Cho Huế,” không có gì trong cuốn sách trái ý muốn đường lối của đảng về các sự kiện tại Huế. Biên niên sử của Hoàng Phủ Ngọc Tường tập trung vào những người Mỹ chiến đấu (quân đội Nam Hàn cũng được nhắc đến nhiều lần), vào sự nhiệt tình của quần chúng Huế trong việc đón tiếp lực lượng Cộng Sản sau khi sống dưới chính quyền Mỹ Ngụy, và vào mối quan hệ tốt giữa dân chúng và lực lượng Cộng Sản. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mô tả một số người rời bỏ thành phố vào năm 1966 và trở lại với lực lượng Cộng Sản. Cuốn sách chấm dứt bằng lời ghi nồng nhiệt, mô tả tình cảnh như thế nào trước khi Cộng Sản bị đánh bại, một trong những tay súng Cộng Sản nói với mẹ ông ấy, “Đã hòa bình rồi, Bác Hồ sẽ vào thăm Miền Nam. Bác sẽ đến thăm mẹ và con.” (86) Cuốn sách không nói gì tới các chiến dịch tuyên truyền, những tòa án vô thẩm quyền và bất hợp pháp, các vụ tàn sát người vô số, hay những mồ chôn tập thể. Khi tôi đọc cuốn sách này, tôi không thể thoát khỏi cảm nghĩ rằng nó là một phản ứng thực sự với Giải Khăn Sô Cho Huế: Biên niên sử của Hoàng Phủ Ngọc Tường chống lại tác phẩm của Nhã Ca.

Vào đầu thập niên 1980s, Hoàng Phủ Ngọc Tường rất dứt khoát trong quan điểm về các vụ tàn sát người tại Huế. Được Stanley Karnow phỏng vấn cho loạt phát sóng có chủ đề Việt Nam: Thiên Lịch Sử Truyền Hình, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng: “Người dân rất ghét những ai tra tấn họ trong quá khứ nên khi cách mạng đến Huế thì họ diệt trừ tận gốc những kẻ bạo ngược để thoát khỏi chúng cũng giống như chúng là những con rắn độc nếu để chúng sống thì sẽ phạm nhiều tội khác nữa.”(87)

Ngày 12 tháng 7 năm 1997, nhà phê bình văn học và nhà báo Thụy Khuê, chủ trì các chương trình văn học và nghệ thuật cho Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI)(88) bằng tiếng Việt, đã phỏng vấn người đàn ông sáu mươi tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường. Vào lúc này, Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một nhà viết sử nổi bật của Huế và tác giả của nhiều tác phẩm văn học. Trong cuộc phỏng vấn ông phản ánh cuộc phỏng vấn trước đó của ông với Karnow, về các sự kiện tại Huế, và về Giải Khăn Sô Cho Huế.
(còn tiếp)

Ghi Chú

(79) Sách đã dẫn trên, trang 184-86.
(80) Sách đã dẫn trên, trang 186.
(81) Sách đã dẫn trên, trang 184-86.
(82) Lê Minh, “Huế, Xuân 68”, Huế, Xuân 68 (Thành Ủy Huế, 1988), trang 73-76.
(83) Mậu Thân 68 (Ban Tuyên Huấn Trung Ương, Hà Nội, 1988).
(84) Báo Washington Post, ngày 3 tháng 2 năm 1988, trang A8.
(85) Phỏng vấn vào mùa hè năm 2013 với Thái Thành Đức Phổ, một trong những giám đốc nhà xuất bản từ năm 1969 tới năm 1975 tại Hà Nội, cho nghiên cứu của tôi về một dự án khác. Sau chiến tranh, Thái Thành Đức Phổ được chuyển vào Sài Gòn/Thành Phố Hồ Chí Minh vào năm 1975 và tiếp tục làm việc ở đó cho tới năm 2004.
(86) Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu (Nhà xuất bản Giải Phóng, Hà Nội, 1971), trang 78.
(87) Stanley Karnow, phóng viên trưởng, “Tết 1968,” Vietnam: A Television History [Việt Nam: Một Thiên Lịch Sử Truyền Hình], PBS, WGBH Educational Foundation, Boston, 1983.
(88) Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp truyền thanh từ thủ đô Paris bằng nhiều ngoại ngữ, gồm tiếng Việt.