Nhớ Bến Tre qua ca dao và vài vần thơ của những tác giả Đồng Nai – Cửu Long

Tếtđã qua rồi, sao vẫn “”nhớ nhớ quê”?  Vì nhớ Bến Tre nên tôi lụcsách báo, nhất là các đặc san Tiền Giang – HậuGiang, Bến Tre v.v. đọc lại.  Tôi cũng hỏi thăm bạn bè già để tìm những câuca dao, những bài thơ v.v. Tôi chỉ làm cái việc gom góp lại, trình làng,  mong các bạn có vài phút thoảimái với quê hương ta. Xin cảm tạ những tác giảđã viết bài về Bến Tre và tôi đã trích dẫn.

Tỉnh Bến Tre còn có tên Đồ Chiểu,và Kiến Hòa, tùy lúc, tùy thời.  Tỉnh lị mang danh là “QuậnChâu Thành Bến Tre”, và có khi mang tên là Trúc Giang (tên Hán Việt của chữ BếnTre).  Theo ông Lê Phát Minh, ghi lạitheo sách của ông Nguyễn Duy Oanh, thì: “Bến Tre trướckia chỉ là một Sóc của người Kampuchia vớitên Sóc-Tre (Srock Tréy hay Trây) thuộc Thủy Chân Lạp.” ÔngVương Hồng Sển cũng nói Bến Tre có nguồn từ chữ Srock Tréy.

Nhưngcho tới giờ nầy tôi vẫn chưa biết tạisao Sóc Tre lại thành Bến Tre.

Địa giới tỉnh Bến Tre gồmnhiều cù lao, nằm giữanhững nhánh của Tiền Giang. Nhưng hai  cù lao lớnnhất được coi là lãnh thổ chánh thức củatỉnh Bến Tre từ năm 1900-1945  CùLao MinhCù Lao Bảo: 

Dođó có câu ca dao “chơi chữ” sau đây: 

Bến Tre hai chữ cù lao,

Chữ nào tình mẹ, chữnào nghĩa cha.

(Phú Điền, trích thơ MạcThúy Hồng).

Tất cả tên của các tổng(đơn vị hành chánh nhỏ hơn quận, gồm nhiềulàng) ở Cù Lao Minh đềubắt đầu bằng chữ Minh như tổng MinhĐạt, tổng Minh Quới v.v.; và ở Cù Lao Bảo bằng chữ Bảo như tổngBảo An, tổng Bảo Đức v.v.

Bến Tre còn có vô số những “rạch” (sông nhỏ) nối liền với “sông cái” Tiền Giang (nhỏlà so với sông Tiền, chớ thật ra có nhiều rạchrất rộng, có khi đến nửa kí lô mét).  Do đó có rất nhiều nhữngsông nhỏ bắt đầu bằng chữ “Rạch”như: Rạch Ba Tri, Rạch CáiCấm, Rạch Cái Quao, RạchCầu Móng, Rạch Chợ Lách, Rạch Giồng Trôm, RạchMỏ Cày, Rạch Cá Lóc, Rạch Cá Trê v. v.  Tên đi sau chữ rạch, còn là“địa danh” của một quận, hay một vùngmà  con rạch chảy ngang qua,hoặc có ngư sản đặc biệt. 

Ngoàivài con rạch bên trên bắt đầu bằng chữ “cái”. Theo tác giả Vương KimHùng (VKH), ở Bến Tre còn cócác địa danh sau đây bắt đầu bằng chữ“cái”:

Thuộc huyện Chợ Lách (ngày xưa là quậnĐôn Nhơn) có Cái MơnCái Nhum,.  Đây là hai địa danh nổitiếng nhờ có nhiều vườn trái cây ngon, nhứtlà sầu riêng. Cái Mơn còn là quê của học giảPetrus Trương Vĩnh Ký và là một vùng theo Công giáo lâuđời.  “Cái Nhum là quêhương của Thánh Tử Đạo (Á Thánh Lựu) vàlà nơi chôn thi hài của Á Thánh Plillipe Phan Văn Minh”, (ông bịxử trảm tại Cái Sơn Bé theo lệnh của TựĐức; Cái sơn Bé, thuộc Vĩnh Long).

Ngoài ra, thuộc quận Mỏ Cày có vùng Cái Bè, và con rạch cùng tên, rạchCái Gấm nối vớisông Hàm Luông, và vùng Cái Quao.

Thuộc tỉnh lỵ TrúcGiang, ngang viện bảo tàng Bến Tre (dinh Tỉnh Trưởngcũ), phía bên kia sông là vùng CáiCối; ngoài ra còn có một xã tên là Cái Nứa; và ngay trung tâm tỉnh lỵ còn có cầu Cái Cốicầu Cái Đá .

Thuộc huyện (quận) Dòng Trôm, (tổng BảoPhước, làng Hiệp Hưng), có vùng Cái Da Trại (cạnh rạch Cái Da), và Cái Cối (hai nơi nầyngày xưa Nguyễn Ánh có đi qua, theo tác giả VKH). 

Thuộc quận Ba Tri có vùng Cái Bông, sinh quán của ông Phan Thanh Giản. 

Bến Tre cũng có nhiềucâu hát liên quan đến thổ sản, chim cá.  Sông rạch ởBến Tre ngày xưa có rất nhiều cá lòng tong và cá bóngcát.

Concá lòng tong ăn móng*,

Con cá bóng cát ăn rong

Anh đi Lục Tỉnh giápvòng

Về đây Cầu Móng đem lòng thương em.

( * ăn bọt nước có rong, hoặc códính loại thực phẩm khác mà cá thích).  

Hoặc:

Bìmbịp kêu, nước lớn anh ơi

Buôn bán không lời, chèo chóng mỏimê.  Hoặc:

Ba phen quạ nói với diều,

Ngã ba Bến Rớ Có nhiều cá tôm.                

(Câu nầy còn đượcghi như sau:

Chiều chiều quạ nói vớidiều,

Cù lao Ông Chưởng có nhiềucá tôm .

BếnRớ thuộc tỉnh Bến Tre, Cù lao Ông Chưởng thuộcLong Xuyên. Hai nơi đó đều có tiếng là nhiềutôm cá. Dân gian thay đổi một vài chữ trong ca dao cho hợpvới tình cảnh địa phương là chuyệnthường có.

Bến Tre nổi tiếng vềcác vườn dừa. 

Cónhiều câu hò ghi lại tình cảm nam – nữ và các địadanh:

Hòơi !  Bến Tre dừa xanhbát ngát,

Đường đi Ba Vát gió mát tậnxương

Em về Chợ Giữa, GiồngTrôm,

Đừng quên Chợ Lách, Cái Mơn đợi chờ.(Hồ Liễu). 

Hoặclà:

Đầulàng có một cây da

Cuối làng cây thị ngã ba câydừa

Dù anh đi sớm vềtrưa

Xin anh nghỉ bóng cây dừanhà em.

BếnTre còn nổi danh về kẹo dừa, bánh phòng mì và bánhtráng giòn:

Emtráng bánh tráng, anh quết bánh phòng,

Cảm thông đôi má ửng hồng.

Hẹn em chợ Mỹ Lồng ăn cháo vềđêm. (H L)

[(Một bạn già, dân BếnTre, có nhắc câu chuyện là dưới thời Pháp thuộckhoảng thập niên 1945-55, Bến Tre có tổ chức “kẹtmết” (Pháp: kermesse = hội chợ ở địaphương), ba giải nhất về sản phẩm màanh bạn già còn nhớ là:

Bánhtráng Mỹ Lồng, Bánh phòng SơnĐốc, Bánh dừa GiồngLuông.)]

Ngoài ra còn có vài câu khác liên hệđến địa danh:

Aivề Chợ Giữa, XómDưa,

Ruộng nương giúp mẹ,nắng mưa chẳng màng.

Ai về Thạnh Phú, Tân Hương ,

Để mong để nhớ,để thương trong lòng.

Haylà:

SôngBến Tre có nhiều hang cá ngác

Đường lên Ba Vát gió mát tậnxương

Anh có thương em thì nốisợi chỉ hường

Chớ bán rao cho lắm, hãy chừađường . . .em đi. (Yên Châu ) 

(Xinghi chú thêm là trong chữ SrokTréy = Bến Tre, nói bêntrên, theo tiếng Khmer (Cam Bốt), “Tréy” có nghĩa là cá (tréytuksat = cá nước ngọt hay cá sông, và tréy sramot = cá biểnv.v.)  Vậy theo suy luậnthông thường, Bến Tre phải có nhiều cá.  Có nhiều cá, nên dân sống bằngnghề chài lưới, và phải có “bến” cho ghe thuyềnđậu.  Phải chăngSóc Tréy thành Bến Tréy rồi thành Bến Tre. Xin bà con chỉgiáo giùm.)

Dân Bến Tre thích món cá trê (préy on-đang), và  tép bạc”*nấu canh bầu,  hoặc cá trê nướng chấm nước mắm gừng(gừng giã nhỏ và dầm với nước mắm PhúQuốc nguyên chất, không pha chế) và món canh cải nấugừng.

Canhbầu nấu với cá trê,

Chồng ăn một miếngchồng mê tới già

(Mắm gừng chấm vớicá trê,

Chồng ăn một miếngchồng mê suốt đời.)

Cóbạn già khác cho câu sau đây:

Canhbầu nấu với cá trê

Ăn vô cho mát mà mê vợ già.

Tép bạc (Đầu tôm)mà  nấu với bầu

Chồng chan vợ húp gậtđầu khen ngon.

Canh cải mà nấu với gừng

Chẳng ăn thì chớ xinđừng chê bai.

Hoặclà: Bồng bồng** mà nấu với tôm

Chồng chang vợ húp tốiôm sáng bồng.

Haylà:   

ChợBa Tri thiếu gì cá biển

Anh thương nàng anh nguyệnvề đây.

 [(* Dân chài lưới trong các sông rạchphân biệt “tôm” (loại có  cặp“càng” to, màu xanh, thân mình thường tròn và dài,  mà hiện tại chúng ta dùng làm món“tôm kho tàu”) và “tép” là loại không có hai càng to.  Tép màu trắng gọi là “tép bạc”có thân hình nhỏ và dẹp.  Hiệnnay vì lý do thương mại, người ta gọi chunghai loại đó là “tôm”, và ngoài hộp thường ghi “cỡ”(size) bằng con số như 30-40; con số nầy cónghĩa có khoảng 30 đến 40 con tôm trong mỗi pound,số càng lớn có nghĩa là tôm càng nhỏ vì cần nhiềucon mới nặng đủ một pound. **Bồng bồnglà tên một loại rau.)]

Thêm vào còn có những câu hát, câu thơ, hoặcca dao về vẻ đẹp của cô gái Bến Tre:

Congái  Bến Tre tóc mây da trắng,

Mắt nhung đen má phấnmôi son,

Dáng đi yểu điệuru hồn,

Em đi khuất dạng mà anhcòn trồng cây si.(H L)

Gái bến Tre còn nổi tiếnglà “bảnh bao”  (theo học giảLê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ, “bảnh bao:đẹp đẽ, gọn gàn, vẻ người phonglưu”)

Trainào gan cho bằng trai Cao lãnh

Gái nào bảnh cho bằng gái BếnTre

[(Có bạn già ghi là:  Gái nào bảnh cho bằng gái Nha Mân(thuộc tỉnh Sa Đéc). Theo lời truyền miệngthì ngày xưa, có một thời gian chúa Nguyễn Ánh đãcư trú ở vùng Nha Mân để tránh sự lùng bắt củaTây Sơn. Sau đó, khi bị quân binh Tây Sơn rượtđuổi bất ngờ, Chúa chỉ kịp đem quân họâvệ chạy thoát thân và bỏ lại nhiều hầu thiếpxinh đẹp. Họ ở lại vùng Nha Mân nầy, vềsau lập gia đình và sanh  nhiềucon gái, cũng đẹp, bảnh bao, giống các bà mẹ.)]

Trai Bến Tre phải biếtlặn lội đường xa, phải biết “nói chiệncho hay” mới mong theo đuổi được mụctiêu, cô gái vừa đẹp vừa nhu mì:

Giồng Trôm có gái nhu mì

Qua thương nhớ Bậu,sá gì đường xa

Và đôi khi cũng phải biết“xạo” (nói dóc cho vui, không có hại đến ai) chút chútcho nàng cười”:

Thươngem anh trèo lên ngọn ớt,          

Ớt gảy, anh rớt xốngngọn hành

Hành đâm anh lủng ruột,sao em đành làm ngơ.

Một vài câu hò khác ở vùng BếnTre

Có thể nói là bất cứcâu hát ru em nào cũng có thể dùng vào điệu hò đểdiễn tả, bắt đầu bằng hai chữ “hòơ... Những câu hò là một đặïc điểm kháccủa dân ca truyền miệng vùng ĐN – CL. Cách hò rấttự do trong việc dùng số chữ, miễn làm sao có vầncó điệu và diễn tả được ý muốn nóilên, nói xa, nói gần, nói bóng, nói gió... thế nào miễn là“đối phương hiểu được ý củamình là được”. Tác giả Nam San  có ghi lại những câu hò sauđây trong bài “Hạt ngọc”:

Hòơ... Thấy emđôi má ửng hồng,

Phải chi em đừng mắccỡ thì qua bồng qua hun...

Gió đưa con buồn ngủlên bờ,

Mùng ai có rộng... cho tôi ngủnhờ một đêm...

Hò ơ ... Đất gò khum cấy đau lưng,

Hễ ai cấy đặngơ .. ơ .. em ưng làm chồng . .

Hò ơ  ơ... Ngày hò chữ thương chữ nhớ’,

Tối ngủ nằm mớkêu nàng

Giật mình ngọn gió nào sang,

Nhớ nàng nhớ lắm, (hò ớ .. đừng để*) xóm làng họ nghi. . .

(*chữ xiên trong ngoặc là do một bạn già khác thêm vào).

Hòơ...  NướcTân Ba chảy ra Trà Cú,

Em cấy khum khum lòi vú ... muốn hun ...

Nước mắm ngon dầmcon cá đối,

Nhắc Chị Hai mình trờitối Anh qua.  Ơ hò..

              

Hoặc chàng bắt đầubằng câu hò ướm thử coi tình trạng của nàngra sao:

Hò ớ …  Cuộc đời nầy khiđen khi đỏ,

Hai đứa ta còn nhỏthương nhiều,

Vừa gặp em là anh muốnnhư,

Hò ớ ... Anh muốn như

Anh Kim Trọng thương chịThúy Kiều thuở xưa ...

Nàngđối đáp với tất cả chân tình, rất thànhthật:

Hòớ…  Nghe giọng anh, em muốn nhưchị Thúy Kiều,

Nhưng hò ớ ... Thuyềnđà có bến, khó chìu lòng anh.

Thêmvào, chúng tôi còn đọc thấy vài câu ca dao liên quan đếnBến Tre do Gs Phan Tấn Tài ghi trong bài “Ca Dao Miền Nam” DSĐN-CL sồ 2, trích từ tác giả Hà Phương Hoài,trong quyển Từ Điển Ca Dao), xin chép lại cho “trọnbộ” về Bến Tre:

Bến Tre biển cá sông tôm,

Ba Tri muốimặn, Giồng Trôm lúa vàng

Bến Tre gái đẹp thậtthà,

Nói năng nhỏ nhẹ mặnmà có duyên.

Bến Tre giàu mía Mỏ Cày,    

Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài CáiMơn.

Bến Tre nhiều gái chưachồng,

Không tin xuống chợ Mỹ Lồng mà coi.

Bến Tre nước ngọtlắm dừa,

Ruộng vườn mầu mỡ,biển thừa cá tôm.

Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn,

Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày.

Mắm bày ven bãi Giồng Khoai, 

Bà Hiền,Tân Thủy hằng hà cá tôm.

Đồng Bến Tre nhiềubưng, nhiều lác

Đường về Ba Vát nặng trĩu sầuriêng 

Anh ra đi đã bốnnăm liền

Sao không trở lại kếtbạn hiền với em. *

Kẹo Mỏ Cày năm đồng một ký,

Đường Giồng Trôm một ký nămđồng.

Em đi buôn mong kiếm tấmchồng,

Để đêm năm canh,con gà gáy sáng,

Chốn cô phòng đỡ lẻloi.

Thànhthật mong các bạn vừa có vài phút thoải mái qua nhữngcâu hát, câu hò, câu thơ bên trên của miền BẾN TRE.  Xin chúc các bạn và gia đìng luônđược bình an khỏe mạnh.

                 

Tài liệu tham khảo

A.Tài liệu truyền khẩu:Một số câu ca dao do các “bạn già”  cung cấp.

B. Sách và Đặc San

HồLiễu, (2000).  “Thươngquá quê tôi”, Đặc San Bến Tre. Hội Ái Hữu Bến Tre xb,

    CA, USA.

Lê Phát Minh ,(1996).  “Tỉnh Bến Tre và Ông già Ba Tri”,Đặc San Tiền Giang

Liên Hội Ái Hữu MỹTho, Bến Tre và Gò Công xb, CA, USA.

Lê Văn Đức & Lê NgọcTrụ (1970). Việt Nam Tự Điển.  Khai Trí xb., Saigon, VN.

Nam San, (2002).  “Hạt ngọc”,  Đặc San Tiền Giang – HậuGiang, CA, USA.

Nguyễn Trúc Phương(1970). Văn học bình dân. Khai Trí xb. Saigon, ViệtNam.

Nguyễn Văn Hải,(2003).  “Địa danh”, ĐặcSan Tiền Giang – Hậu Giang, CA,USA.

Phan Tấn Tài (2005). “Ca Dao MiềnNam” Đặc San Đồng Nai-Cửu Long số 2.

   Nxb:Tả Quân Lê Văn Duyệt Foundation, WestminsterCalifornia, USA.

Phú Điền, (2000)  .  “BếnTre: Đất lành chim đậu”, Đặc San BếnTre. Hội Ái Hữu

    Bến Tre xb,  CA, USA.

Vương Hồng Xển(1993). Tự vị tiếng Việt miền Nam. Nxb VănHóa, Hồ Chi Minh,

    Việt Nam.

Vương Kim Hùng (2007). “ViệtNam qua những địa danh mang tên Cái”, ĐS

    Đồng Nai – Cửu Long, tháng 3, 2007, WestminsterCalifornia, USA.

Yên Châu, 2000.  “Điệu hò câu hát quêhương”,  Đặc San Bến  Tre . Hội Ai Hữu

    Bến Tre xb,  CA, USA.