Nhà văn nữ trước 1975: Túy Hồng

  Nguyễn Ngọc Chính

Giữa Nhã Ca và Túy Hồng[1] có nhiều điểm chung. Thứ nhất, cả hai đều sinh trưởng tại Huế và thành công trong văn nghiệp tại Sài Gòn. Thứ nhì, cả hai đều có chồng trong giới văn nghệ: Nhã Ca kết hôn với Trần Dạ Từ, có 5 người con trong khi Túy Hồng lập gia đình với Thanh Nam (mất tại Seattle năm 1985) với 4 người con.

Chất Huế có phần đậm nét trong văn của Nhã Ca, từ ngôn từ cho đến cảnh trí, nhưng lại chỉ bàng bạc trong những trang viết của Túy Hồng, thay vào đó là những trang viết “bạo” về sex, cụ thể hơn là những đoạn có liên quan đến nhục dục. Theo nhà văn Trần Phong Giao nhận xét: “… gái Huế chỉ nên là người tình chứ đừng nên bê về làm vợ” (sic). Kết cuộc là nhà văn Tuý Hồng và Nhã Ca đã phản đối tác giả Trần Phong Giao kịch liệt.

Túy Hồng dạy học tại trường Trung học Hàm Nghi, phía sau cửa Thượng Tứ. Đây là một ngôi trường khiêm tốn, không nổi tiếng như Quốc Học và Đồng Khánh. Từ trường Hàm Nghi, Túy Hồng xin thuyên chuyển về trường Gia-Hội, nằm sau đầm sen trước tư dinh ông Hoàng Mười. Ký ức về Huế được dàn trải trên những trang viết:

“Những đêm rằm, tôi chèo thuyền về xóm Đập Đá đất khô cứng, ngó xuống thôn Vĩ Dạ xanh um hàng cau lả mình trong gió đa tình, trong ánh trăng Hàn Mạc Tử, lòng thấy nhớ những cuốn sách dày, những tập thơ mỏng, những tên tuổi người viết lách…

Những ngày thứ bảy, tôi phóng xe đạp lên đồi Vọng Cảnh, hướng về điện Hòn Chén, thả tầm mắt ngắm núi Ngự Bình trọc đầu, nhìn xa xa về cửa Thuận An, rồi đăm chiêu ngắm Thành Nội êm đềm tĩnh lặng…


Túy Hồng.

Giữa khung cảnh trầm lắng của khung trời Huế đa tình đó, Túy Hồng nảy sinh tham vọng viết văn qua nhiều đêm thức trắng, vật lộn với truyện ngắn đầu tay và gửi đăng báo Văn Hữu ở Sài Gòn. Một tuần lễ trôi qua, tòa soạn Văn Hữu phúc đáp, trong thư trả lời có 1000 đồng tiền nhuận bút và những dòng chữ hồi âm của nhà văn Võ Phiến[2]:

“Sao tôi khờ dại và ngu như bò! Sao tôi thật thà chất phác như trâu. Suốt thời gian làm việc ở sở thông tin Huế, tôi dốt nát và u mê như heo! Tôi không dám tìm gặp cô một lần, và không đủ can đảm làm quen với cô hồi đó! Xứ Huế đang yêu ai và có bao giờ sông Hương ngủ đò.. Chào cô!..”

Đó là bước khởi đầu trong văn nghiệp của Túy Hồng với 1000 đồng nhuận bút và cũng là “mối duyên văn nghệ” của một cô giáo xứ Huế với nhà văn nổi tiếng ở Sài Gòn. Túy Hồng và Võ Phiến thư từ qua lại đều đặn mỗi ngày. Nhưng vào một buổi sáng khi “nắng Huế hung hăng bốc nóng” Túy Hồng nhận được bức thư từ ông cai trường. Trong thư Võ Phiến… thú tội:“Anh xin thú thật với em một tội lỗi, vì một ngày kia em sẽ hỏi. Xin em tha thứ cho anh: anh đã lập gia đình từ lâu, và vợ chồng anh có bốn đứa con”.

Trong bài viết mang tựa đề Võ Phiến, Túy Hồng viết: “Đó là cái nghiệp của ít nhiều nhà văn và nhà thơ nữ miền Hương-Ngự, những kẻ tháo gỡ vòng dây trói Khổng Mạnh Huế để vào Nam hòa nhập với tự do Sàigòn. Những người viết nữ thường sa vào tay những kẻ đã có vợ và nhiều con. Nếu tôi là một ông thầy tướng số mù, (thầy bói thì phải mù, chứ thầy bói mà hai mắt mở thao láo thì nói ai nghe), tôi sẽ tiên đoán vận mệnh của các nhà văn nữ: văn chương thì rạng rỡ, nhưng tình duyên thì trắc trở. Những nhà văn nữ thường thích sinh sống ở Sàigòn hơn ở Huế, Vĩnh Long, Phan Rang. Sàigòn thông cảm tâm sự của họ hơn Huế, và những nơi khác. Sài gòn có đủ đàn ông để họ lãng mạn và làm bạn”.

Túy Hồng thú nhận một cách thành thật: “Tôi tham vọng viết truyện dài, nhưng không có thực tài, khả năng chỉ đủ để sáng tác truyện ngắn. Trong một truyện vừa không ngắn không dài, tôi miêu tả hình ảnh một tên đàn ông đểu giả gian dối, một kẻ ngọai tình với tôi và phụ tình với vợ. Nhiều đêm dài mất ngủ, cùng với hoa quỳnh ngày tàn đêm nở, tôi trút giận hờn vào những câu văn ác ôn. Tình yêu là một giọt máu mang số 35”.

Võ Phiến khuyên: “Em hãy liên lạc với tòa báo, nói với ông chủ bút gửi trả lại cái truyện ngắn đó… không đăng báo. Em mà để cái truyện ngắn đó đăng lên báo… thì em lỗ, anh thì chẳng mất mát gì…

Em hãy thay đổi bút pháp, thay đổi giọng văn, đừng trút giận hờn vào bài viết. Đừng đùa với dư luận, đừng khai sự thật với độc giả.. Phải dấu kín, phải niêm phong bí mật lại. Dư luận độc địa lắm. Chúng ta không lấy được nhau thì chúng ta sẽ làm sui gia với nhau. Con anh sẽ lấy con em.”


Túy Hồng với Tôi đơn ca
(Tranh của họa sĩ Chóe).

Túy Hồng từ Huế vào Đà Lạt chấm thi, tạm trú tại cư xá Bùi Thị Xuân và Võ Phiến từ Sài Gòn lên thành phố sương mù vài giờ trước đó. Đà Lạt ẩn hiện dưới ngòi bút của nhà văn nữ mới chập chững vào đời:

“Chúng tôi đi đêm dưới trăng mờ Dalat. Vườn nhà ai, những búp hoa quỳnh màu bạch ngọc đã uốn cong cánh từ chiều muộn để sẽ nở bung cánh ra khi màn đêm dần xuống. Mỗi bước đi của chúng tôi là mỗi nhịp đời nhẹ êm, mỗi hé nở âm thầm của quỳnh hoa, mỗi hơi thở dài sâu của câm lặng tình cảm. Bóng tối chụp lên cảnh vật, nhưng ánh trăng cũng sáng soi chiếu xuống vòm cây cành lá. Đêm nhẹ êm, thế giới về khuya tĩnh lặng, hương quỳnh-tương thơm dịu trời mây. Trong thời gian và không gian này, quỳnh hoa sẽ bung nở với trăng, với khoảng không bao la và với bóng tối lan tràn để khi đêm hết, quỳnh hoa sẽ tàn vì mặt trời chói sáng, quỳnh hoa sẽ chết đúng vào ngày mai với ánh thái dương nóng cay. Cuộc đời của hoa quỳnh chỉ trường thọ được một đêm thôi”.

Phải chăng hoa quỳnh ẩn dụ một mối tình sớm nở tối tàn? Cũng tại Đà Lạt, Võ Phiến tâm sự với Túy Hồng:

“Anh không ham muốn em từ phút ban đầu, cũng không ham muốn em sau cái phút anh nhìn em qua cửa kính cư xá Bùi Thị Xuân, mà anh chỉ yêu em bởi vì những câu văn đầu tay em viết trong truyện ngắn gửi đăng báo… Yêu đời sống, chúng ta hãy đầu cơ khả năng, thì giờ và lòng thành vào văn chương. Anh cho nghệ thuật tất cả tài sản tinh thần của anh. Con đường anh đi là con đường văn nghệ, chấp nhận sống và chết, trừu tượng và cụ thể. Anh không phải là họa sĩ, nhưng anh có màu sắc nét vẽ; anh không phải là nhạc sĩ nhưng anh có âm thanh tiếng động.”

Tình yêu của họ cũng tựa như hoa quỳnh. Theo lời của Túy Hồng, nó kết thúc ngay tại Đà Lạt trong một tình huống khiến người đọc ngỡ ngàng:“Khi chúng tôi ngang qua quân trường võ bị, bỗng có một người đàn bà đi ngược chiều, tay dắt một đứa con gái mặc áo đầm. Võ Phiến mặt mày tái xanh, sợ hãi, vụng về hoảng hốt quýnh lên:Vợ anh, em tìm xe về đi”.

Võ Phiến có một nhận xét rất “trắng trợn” về Túy Hồng: “Em không bằng Nguyễn Thị Hoàng, em thua kém Nguyễn Thị Thụy Vũ. Họ kính nể người yêu, họ không oán trách người tình, không căm giận những người đàn ông mà họ đã thương. Còn em, em không tốt, em nói xấu anh dữ dội trong truyện ngắn em viết..”

Túy Hồng cũng nhận xét về chính mình một cách thẳng thắn: “Em là gái trời cho không đẹp, và trời không cho một đàn ông. Một cô gái đã già, một nữ giáo chức cô đơn dạy học ở một tỉnh lỵ chậm tiến… nhưng tôi không Huế một chút nào cả, tôi nhanh chóng hội nhập đời sống Sàigòn. Hồi đó, tôi nói tiếng Bắc, phát âm rõ từng chữ và đúng giọng, nhưng không bắt chước được giọng Nam”.


Thủ bút của Túy Hồng.

Chuyện Túy Hồng-Võ Phiến vẫn chưa chấm dứt ở Sài Gòn. Túy Hồng gửi bản thảo Những sợi sác không để dự thi Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc năm 1970 cùng với Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ… và hội đồng giám khảo gồm Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo và có cả… Võ Phiến!

Trong vai trò giám khảo, Võ Phiến loại bỏ Những sợi sắc không với lý do “tác giả chỉ đánh máy bản thảo chứ không gửi sách”. Trong phiên họp cuối cùng, hội đồng giám khảo cho biết sẽ không có tác phẩm trúng giải nhất, mà chỉ có hai tác phẩm đoạt giải nhì đồng hạng vì không hội đủ sự đồng tình của cả ba giám khảo.

Nhà văn Thanh Nam[3], khi đó đã gắn bó với Túy Hồng, nhận xét: “Có những kẻ nhớ lâu và giận lâu.. Anh, một người con gái anh đã quen và đã yêu thì không bao giờ anh ghét. Anh công bằng nói rằng Võ Phiến thù em.”

Túy Hồng chỉ nghĩ một cách thật đơn giản:“Văn không phải là người. Những gì tôi viết ra.. đều là đùa nghịch giỡn chơi thôi. Tôi chỉ biết một điều về Võ Phiến là ông ta rất thương yêu vợ…” Ở một bài khác, Túy Hồng viết: “Tôi chưa thấy một người đàn ông nào thương vợ nhiều như thế, yêu vợ kỹ như thế. Vợ anh, vợ anh.. cái miệng cứ tía lia vợ anh vợ anh, làm như người ta sắp giựt mất. Bà Võ Phiến tên cúng cơm là Viễn Phố”.


Võ Phiến và vợ.

Mối tình Thanh Nam-Túy Hồng cũng có nhiều điều đáng chú ý. Gặp nhau năm 1966, và chỉ một tháng sau họ lấy nhau, khi đó, theo lời Túy Hồng, “Thanh Nam đã là một lực sĩ đuối sức trên hai vòng đua tình và tiền”.

“Khi một phụ nữ gặp gã đàn ông chưa quá vài lần mà đã ngủ với hắn ngay và lấy hắn làm chồng liền, đó là hoả hoạn của tình dục, của hoang dâm bấy lâu đè nén đã thừa cơ bật dậy. Những cuộc hôn nhân vội vã như thế này thường xuyên có thể đưa đến đổ vỡ, nhưng Thanh Nam và tôi lì lợm chung sống với nhau hoài bên bầy con bốn đứa. Hôn nhân của chúng tôi đứt đôi chỉ vì có một cái chết”.

Túy Hồng tiết lộ qua bài tản mạn mang tựa đề Thanh Nam: “Chín năm chung sống với nhau ở Saigon, Thanh Nam không phải là người chồng tốt. Chúng tôi lấy nhau có đám cưới nhưng không có hôn thú. Khi con gái đầu lòng học hết lớp mẫu giáo, chàng mới chịu đóng tiền đút lót một ông lý trưởng ở Quảng Nam để ông ta cấp cho một tờ hôn thú lậu và làm giấy thế vì khai sinh cho con”.

Dưới con mắt Túy Hồng, Thanh Nam, chỉ là “một văn sĩ nhỏ nhưng chơi toàn với những tay lớn”, nên đã nhờ một ông thiếu tá giới thiệu với một bác sĩ quân y để xin một giấy chứng nhận bị bệnh thần kinh để nghỉ phép ăn lương. Túy Hồng làm ở đài phát thanh bốn năm mà vẫn lãnh thêm lương giáo chức.

Sau đó Thanh Nam nhờ nhà báo Lê Phương Chi giới thiệu Túy Hồng với ông giám đốc Khai Trí để bán tất cả những tác phẩm đã viết, đang viết, và sẽ viết với một số tiền trả trước. Thanh Nam nói: “Em cứ làm theo lời anh. Trời phạt anh chịu.”

Không biết nói chơi như vậy có đúng hay không nhưng những ngày tháng cuối cùng của Thanh Nam bên Túy Hồng tại Seattle là cả một chuỗi bi kịch kể từ khi bác sĩ tuyên bố Thanh Nam bị chứng ung thư cổ họng. Để chữa trị, ống nhựa, ống hút đặt trong mũi, trong miệng khiến Thanh Nam không nói được. Hai người chỉ dùng giấy bút để nói chuyện.


Thanh Nam.

Túy Hồng kể lại: “Từ ngày mất tiếng nói, chàng viết: “Ngày xưa ăn chơi, sang Mỹ bỏ chơi chỉ còn ăn... Một thằng khoái ăn ngon như anh mà trời không cho đớp”. Rồi lại viết: “Cái khổ của kiếp người là chỉ có một đời để sống mà lại có quá nhiều đời khác để mơ.”

Thanh Nam đọc sách, ôm kinh Phật tụng âm thầm, cố gắng tập thể dục thực hành những lời thiền chỉ dạy. Hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm. Có những đêm thức giấc, đứng sau cửa kính mờ, Thanh Nam nhìn ra ngoài trời không trăng sao, có những ngày an phận nín câm, Thanh Nam đi tới đi lui, ngồi nằm...

Có khi con cái tan trường về, Thanh Nam vui cười nấu ăn, coi tivi, lòng thư thái an lành như lá bạch dương êm ái chạm vào nhau khi có gió. Còn tôi ngồi bên cạnh, tôi nghe bộ tiêu hoá của chàng réo sôi ùng ục, đồ ăn cử động trong bao tử, chuyển từ ruột non tới ruột già xuống hậu môn.

Bằng hũu đến thăm, gửi thư gửi thiệp chúc mừng. Thơ và văn, thiền và thuốc, và những cơn đau khủng khiếp vỡ đầu bể ngực từ cái ống nhựa đặt trong cổ thay thế cho thanh quản, khí quản gì đó phải cắt bỏ vứt đi, và từ những phản động hoá học của thuốc mê, thuốc tỉnh, thuốc viên, thuốc nước, thuốc bột, trụ sinh, an thần, morphine.. .

Trước khi đi vào hôn mê, Thanh Nam đã viết xuống: “Người nghệ sĩ có những lúc sống cẩu thả, buông thỏng dây cương luân lý, nhưng em nên nhớ rằng từ ngày lấy em, anh không bao giờ phản bội thể xác em.

Đôi mắt Thanh Nam to nhưng cạn và mờ đục, lúc đó ánh lên, nhìn thẳng mặt tôi. Tôi thấy tôi hiện diện trong cái nhìn thật thà đó: ở chàng, tình nghĩa vợ chồng cũng quý báu như lòng hiếu hữu ái mộ bạn hiền.


Thanh Nam của ngày xa xưa.

Như đã nói, hai nhà văn Nhã Ca và Túy Hồng có nhiều điểm chung nhưng giữa họ cũng có một điểm khác biệt lớn: truyện của Nhã Ca dựa vào bối cảnh chiến tranh trong khi Túy Hồng lại dựa vào tính dục của con người.

Các nhà phê bình thường cho rằng nhiều nhà văn nữ có lối viết mới hơn, kêu hơn, vào sâu hơn trong vấn đề tình dục, nhưng vấp phải cái hỏng ở phần xây dựng nhân vật. Họ không vẽ được cái mặt và cái chân tướng của người đàn ông, nghĩa là không thể hiểu một cách cặn kẽ tâm lý đàn ông.

Nhân vật của Túy Hồng thường là cô giáo trong khi Nguyễn Thị Thụy Vũ lại khai thác đối tượng là các cô gái bán bar. Lê Châu nhận xét: “Đọc văn đàn bà ngày nay, ta nhận thấy đàn ông trong các tác phẩm hình như phải nhận một hình phạt nho nhỏ nào đó. Phải chăng trên cõi đời này đàn bà đã yêu đàn ông nhiều hơn họ được yêu lại? Phải chăng khi đọc họ, ta nghe được tiếng kêu buồn của tình yêu không được thoả mãn?”.

Nhà phê bình Nguyễn Văn Lục trong bài Phụ nữ và vấn đề tình dục trên Hợp Lưu năm 2005 viết: “Trước đây, thập niên 60-70, đã có Tuý Hồng viết rất bạo dạn, dữ dội. Gái Huế đa tình… nay đã có nhà văn như Tuý Hồng buông thả, phóng khoáng, mở toang … ”

Theo ông, âm hộ như một cánh cửa giải phóng phụ nữ và đồng thời là một bản cáo trạng về kinh nguyệt, màng trinh, mòng đóc và chuyện sinh đẻ. Trong khi đó, nhà phân tâm học Sigmund Freud định nghĩa female hormone là “những giọt dầu dâm dục trong cơ thể đàn bà, những giọt mỡ màu xám chì trong máu, những giọt nhớt từ các phần mềm của phái yếu nhiễu ra, và cũng là những giọt nước mắt béo từ ngọn nến tình dục muộn màng”.

Nhà văn nữ người Pháp, Francoise Sagan, là một hiện tượng trong văn học VNCH với các tác phẩm như Bonjour Tristesse (Buồn ơi chào mi, Nguyễn Vỹ dịch năm 1959), Un certain sourire (Có một nụ cười, Nguyễn Minh Hoàng dịch) và Dans un mois, dans un an (Một tháng nữa, một năm nữa, Bửu Ý dịch năm 1973). Sagan đưa ra một lối viết thật ngắn, lối sống, lối nghĩ thẳng băng đến thản nhiên, đến vô tình. Và đặc biệt hơn cả, quan hệ tình dục ngang trái, khác đời của một nữ sinh còn trên ghế nhà trường trực tiếp tác động trên đời sống thanh thiếu niên thành thị miền Nam.

Các nhà văn nữ vào những thập niên 60 như Nguyễn thị Hoàng, Túy Hồng, Lệ Hằng, Nguyễn thị Thụy Vũ có những nét gì trùng hợp với Sagan? Chúng ta không dám khẳng định họ “bắt chước” Sagan nhưng khi đọc các tác phẩm của họ, người đọc cảm thấy hình như phảng phất đâu đó không khí của Sagan.

Nguyễn Văn Lục viết: “Sagan tả những liên hệ tính dục một cách phơn phớt, không đào sâu, không đậm đặc, “không mặn”, không sống sượng như Túy Hồng hay Nguyễn thị Thụy Vũ. Đọc những nhà văn viết mặn này xong là khát nước. Lối văn của Sagan cụt, hụt hẫng, hững hờ, không màu mè, diêm dúa. Mục đích của Sagan không phải là mô tả những scènes tình dục cho bằng muốn nhắn gửi: cuộc đời chẳng có gì quan trọng, ngay như chuyện làm tình...”

Túy Hồng trong bài phỏng vấn của Hoài Nam, Phụ nữ và Văn chương, trình bày quan điểm của mình về lớp nhà văn nữ sau này ở hải ngoại như Lê thị Thấm Vân, Trịnh Thanh Thuỷ, Nguyễn thị Thanh Bình, Nguyễn thị Ngọc Nhung… và ở trong nước như Vi Thùy Linh, Đỗ Hoàng Diệu…:

“Viết là tưởng tượng – fiction – căn cứ trên thực tại – fact. Tôi yêu fiction dựa trên fact.. Nghệ thuật có giá trị khi nó là sự thật, không phải của giả. Tình dục không cho ta một nắm to của cái cảm xúc gọi là “sướng”, và không gây cho ta một chỗ đau nào đó trên thân thể. Sự thật, giây phút tuỵệt đỉnh lúc ân ái chỉ diễn ra chừng năm bảy tích tắc kim đồng hồ, và cái lượng đam mê cũng nhỏ thôi chứ đâu có bự như những nhà văn nữ lớp mới đã tả. Sự thật thì ít nhưng chúng ta đã xít ra cho nhiều. Sự thật thì bé nhưng chúng ta đã xé ra cho to”.


Thủ bút và chữ ký của Túy Hồng
(Tranh do Tạ Tỵ vẽ).


Nhánh tóc sợi dòn.


Eo biển đa tình.


Tạp chí Văn, số đặc biệt về Võ Phiến.


Thanh Nam.

____________

Chú thích:

[1] Túy Hồng: tên thật Nguyễn Thị Tuý Hồng, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1938 tại Chí Long, Phong Ðiền, Thừa Thiên. Tốt nghiệp đại học sư phạm Huế. Đoạt giải Văn học Nghệ thuật của VNCH năm 1970. Định cư tại Mỹ năm 1975, tại thành phố Seattle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ.

Tác phẩm đã xuất bản:

  • Thở dài (nhà xuất bản Đời Mới 1965, Kim Anh tái bản 1966)
  • Vết thương dậy thì (nhà xuất bản Kim Anh, 1966)
  • Trong móc mưa hạt huyền (nhà xuất bản Đồng Nai, 1969)
  • Tôi nhìn tôi trên vách (nhà xuất bản Đồng Nai, 1970)
  • Những sợi sắc không (Giải Văn chương toàn quốc, nhà xuất bản Khai Trí 1971)
  • Biển điên (nhà xuất bản Văn Khoa, 1971)
  • Bướm khuya (nhà xuất bản Đồng Nai, 1971)
  • Nhánh tóc sợi dòn (1972)
  • Mối thù rực rỡ
  • Eo biển đa tình (1973)
  • Trong cuối cùng
  • Sạn đạo
  • Tay che thời tiết
  • Mưa thầm trên bông phấn
  • Thông đưa tiếng kệ

[2] Võ Phiến: tên thật là Ðoàn Thế Nhơn, sinh năm1925, tại Trà Bình, Bình Ðịnh. Ông đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc của VNCH vào năm 1960 với tác phẩm Mưa Đêm Cuối Năm. Ông là tác giả của 4 tiểu thuyết, nhiều tập truyện ngắn, 9 tập tùy bút, một tập thơ và hàng chục tác phẩm phê bình, tiểu luận, truyện dịch.

Những năm gần đây ông đã cho xuất bản 7 bộ sách về Văn học miền Nam 1954-1975, dày gần 2000 trang, chú trọng về tiểu thuyết, thơ, kịch, ký và tùy bút. Trong lãnh vực nghiên cứu văn học, bộ Văn học miền Nam của Võ Phiến, dù gây nhiều tranh cãi sôi nổi và dù còn một số hạn chế, vẫn là một trong những thành tựu lớn nhất. Bộ sách không những giúp người đọc nhận diện một khía cạnh khác trong tài năng của Võ Phiến mà còn cung cấp cho người đọc một khối tài liệu đồ sộ, đáng tin cậy về một nền văn học từng một thời phồn thịnh nhưng ngỡ đã bị quên lãng.

Tác phẩm đã in:

Tiểu thuyết: Giã từ (Bách Khoa, Sài-gòn, 1962), Một mình (Thời Mới, 1965), Đàn ông (Thời Mới, 1966), Nguyên vẹn (Người Việt, California, 1978).

Truyện ngắn: Chữ tình (Bình Minh, Quy Nhơn, 1956), Người tù (Bình Minh, 1957), Mưa đêm cuối năm (Tự Do, Sài-gòn, 1958), Đêm xuân trăng sáng (Nguyễn Đình Vượng, 1961), Thương hoài ngàn năm (Bút Nghiên, 1962), Về một xóm quê (Thời Mới, 1965), Truyện thật ngắn (Văn Nghệ, California, 1991).

Tùy bút: Thư nhà (Thời Mới, 1962), Ảo ảnh (Thời Mới, 1967), Phù thế (Thời Mới, 1969), Đất nước quê hương (Lửa Thiêng, 1973), Thư gửi bạn (Người Việt, California, 1976), Ly hương (in chung với Lê Tất Điều, Người Việt, California, 1977), Lại thư gửi bạn (Người Việt, 1979), Quê (Văn Nghệ, 1992).

Tiểu luận: Tiểu thuyết hiện đại (bút hiệu Tràng Thiên, Thời Mới, 1963), Văn học Nga Xô hiện đại (Thời Mới, 1965). Tạp bút, ba tập (Thời Mới, 1965-66), Tạp luận (Trí Đăng, 1973), Chúng ta qua cách viết (Giao Điểm, 1973), Viết (Văn Nghệ, 1993), Đối thoại (Văn Nghệ, 1993).

Biên khảo: Văn học miền Nam tổng quan (Văn Nghệ, 1986), Văn học miền Nam, 6 tập, gồm 3 tập về truyện, 1 tập ký, 1 tập kịch - tùy bút và 1 tập thơ (Văn Nghệ, 1999).

Dịch thuật: Hăm bốn giờ trong đời một người đàn bà (Stéfan Zweig) (Thời Mới, 1963), Các trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại (André Maurois) (Thời Mới, 1964), Truyện hay các nước, 2 tập, cùng dịch với Nguyễn Minh Hoàng (Thời Mới, 1965), Ông chồng muôn thuở (Dostoyevsky) (1973).

Toàn bộ tác phẩm Võ Phiến được in lại trong Võ Phiến Toàn Tập, 9 cuốn (Văn Nghệ, 1993).

[3] Thanh Nam (1931 – 1985): Nhà văn, nhà thơ tên thật là Trần Đại Việt, người làng Mỹ Trọng, Nam Định. Năm 1946, mới 15 tuổi, Thanh Nam đã được tờ báo Thiếu Nhi tại Hà Nội đăng thơ và mời cộng tác và viết một số Sách Hồng cho nhà xuất bản Văn Hồng Thịnh.

Ông bắt đầu viết vào năm 1950, mới 19 tuổi, dùng bút hiệu Thanh Nam. Theo Tuý Hồng, bút hiệu Thanh Nam là ghép bởi Hà thành (Hà Nội) và Thành Nam (Nam Định), sau đó bỏ bớt dấu huyền trong chữ Thành.

Thanh Nam vào Sài Gòn năm 1953, trước hiệp định Genève chia đôi Nam Bắc. Chỉ sau mấy tháng, được mời làm Tổng Thư ký báo Thẩm Mỹ, viết truyện ngắn, truyện dài, bình thơ độc giả, phụ trách nhiều mục khác như Phụ nữ Gia Đình, Gỡ Rối Tơ Lòng … và còn ký nhiều tên con gái như Sông Hương, Cô Hồng Ngọc, Bà Bách Lệ, Tôn nữ Đài Trang… Năm 1960, ông cũng hợp tác với nguyệt san Hiện Đại do Nguyên Sa và Thái Thủy chủ trương và còn là Tổng Thư ký tuần báo Nghệ Thuật. Năm 1966, ông cộng tác trên tuần báo Kịch Ảnh.

Thanh Nam cùng Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Tô Kiều Ngân và nhiều văn nghệ sĩ khác phụ trách chương trình thơ nhạc Tao Đàn trên Đài Phát thanh Sài Gòn, Đài Quân đội… đặt lời ca cho một số nhạc phẩm, trong số đó phải kể đến bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống. Thanh Nam còn cộng tác với nhiều nhật báo tại Sài Gòn qua nhiều loạt truyện dài viết theo kiểu feuilleton, rất được đông đảo độc giả ưa thích.

Tác phẩm đã xuất bản của Thanh Nam:

  • Hồng Ngọc (1957)
  • Người nữ danh ca (1957)
  • Buồn ga nhỏ (1962)
  • Giấc ngủ cô đơn (1963)
  • Còn một đêm nay (1963)
  • Cho mượn cuộc đời, bầy ngựa hoang (1965)
  • Giòng lệ thơ ngây (1965)
  • Những phố không đèn (1965)
  • Mấy muà thương đau (1968)
  • Thuế sống, Xa như dĩ vãng, Gã kéo màn, ….
  • Đất khách (1983)
  • Hồi ký 20 năm viết văn làm báo (viết dang dở trên tờ Văn, 1984).