Bể dâu

Trung tuần tháng tám, năm 2006, trong một tiệccuới, tôi ngồi cận Bác sĩ B. Q. M., bạn cùng khóa.

- M. Toa còn nhớ bị nhốt ba ngày trong conex không?

- Đâu phải ba ngày. Một tháng với ba ngày.

- Mà toi có viết cái thơ võn vẹn chín chữ đókhông?

- Moi đâu có viết. Tụi nó chỉ nghi thôi mànhốt moi suýt toi mạng.

Đêm hôm đó, bổng nhiên cả một khungtrời dĩ vãng hiện lại trong trí tôi.

Nhân dân cho lên lon.

Đài phát thanh thông báo lệnh của Thượngtướng Trần văn Trà, Chủ tịch Ủy banQuân quản Thành phố Hồ Chí Minh (tên mới củaSàigòn): Các sĩ quan chế độ cũ phải trìnhdiện “học tập cải tạo”. Những sĩ quancấp thiếu tá trở lên phải đi trình diệntừ ngày thứ bảy 15  vàchủ nhật 16 tháng 6, 1975, thời gian “cải tạo” là 30 ngày và  điạ điểm trìnhdiện là các trường học rải rác khắp Sài gòn,Chợ lớn, Gia định như Petrus Ký , TrưngVương, Hồ Ngọc Cẩn, Don Bosco…

Gia đình tôi ở đường Nguyễn Trải,Quận 5, gần Nhà thương Phước Kiến,căn phố lầu, tầng một và hai. Tầngtrệt làm phòng mạch. Khuya thứ haí 7-6-75 (hết hạn trình diện họctập cho cấp tá và tướng), có người nhậnchuông. Nhìn đồng hồ: một giờ sáng. Tôixuống mở cửa, bực và lo. Không phải một, mànăm người: bốn bộ đội với súng AKvà một người đeo K54 mà tôi đoán là hạ sĩquan. Vừa bước vào bên trong, hắn hỏi ngay:

- Anh tên Nguyễn Sơ Đông phải không?

- Phải.

- Sao anh chưa đi trình diện học tập?

- Đài ra thông cáo: cấp thiếu tá trở lên trìnhdiện, tôi chỉ là đại úy thôi.

Tôi đưa cho hắn xem giấy tờ của CaoĐăng Chiếm, Đại tá Công An/Tình báo cọngsản ký.

- Tôi có lịnh mời anh đi trình diện họctập ngay.

Làm sao tôi cải lại được vớI AK và K54:

- Lệnh gấp như vầy, các anh phải cho tôisửa soạn áo quần, thuốc men, thực phẩmchớ…

Vừa nói tôi vừa bước trở lạIhướng cầu thang để lên lầu.

- Không , anh không được đi đâu hết.Muốn gì, gọi người nhà anh lấy.

Đành chịu thôi. Bà xã tôi vừa sắp xếp áoquần, thuốc suyễn, thức ăn tiền bạccho tôi, vừa khóc thút thít. Trước khi bước racửa, tôi còn bình tĩnh dặn:

-“Má” đừng sợ.. Nếu họ muốn giếtthì chắc đã giết rồi chớ còn dẫn đi đi đâu.

Ra khỏi nhà, tôi đi giữa, bốn ngườibộ đội đi bốn góc. Thì ra chúng dẫn tôixưống Chi Cảnh sát Chợ Hoà Bình. Vào trong chicảnh sát, đã thấy ba ngườI tôi đóan là sĩquan ngụy như tôi. Đến gần ba giờ sáng,lục đục bộ đội dẫn về thêm haingười nữa. Cọng với tôi là sáu. Chất lên xecảnh sát cũ (màu xanh và trắng), chở lên Ty Cảnhsát Quận Năm, đường Đồng Khánh. Chúng tôiđược đưa vào một phòng nhỏ có vài cáibàn, mươi cái ghế và bốn năm ngườingồi chờ. Mỗi người được phátmột tờ giấy học trò.

Khai lý lịch. Cấm “liên hệ” với nhau. Gầnbốn giờ sáng, một công an, có vẻ là sĩ quanđến, ngồi sau một bàn viết, kê ở góc phòng,gọi từng người, “khai thác “ lại.

- Anh khai là trung úy. Tình báo nhân dân bảo anh là thiếutá. Tại sao?

- Dạ, vì tôi mang lon Hải quân, bà con nhìn không rachớ tôi mớI 23 tuổi, làm sao lên thiếu táđược?

- Anh thì sao? Anh khai là binh nhì đào ngũ?

- Dạ phải, tôi thuộc Sư Đoàn 5 Bộ binhở Lai Khê. Tôi đào ngũ. Vì tôi muốn o con nhỏở trong xóm, nên tôi mang đại lon thiếu tá giả. Tôihọc chưa hết lớp ba, làm sao làm thiếu táđược?

- Anh thì sao? Tình báo nhân dân “nhất trí “ anh là thiếu támà ?  Hắn hỏi tôi.

- Tôi mang lon đại úy từ năm 68; lúc sau này,mỗi lần về thăm nhà, tôi mặc dân sự, bà contưởng tôi lên thiếu tá rồi, chớ thật tôi cònlà đại úy.

Mỗi người đều có một lý do riêng.Cuối cùng, tên công an bảo:

- Các anh xác nhận không phải sĩ quan cấp tángụy phải không?

- Dạ đúng.

- Khai mang “cách mạng” kỷ luật nặng lắm.Được, tôi cho các anh về chờ lệnh.

Lục tục, chúng tôi mang đồ đạthướng ra cổng Ty Cảnh sát Quận năm.Bổng tên công an gọi lại. Hồi hộp. Hắnbảo: mớI 5 giờ sáng, còn giới nghiêm (cho đến6 giờ), mấy anh ra đường bộ độibắn chết. Thế là xe cảnh sát chở tôi vềnhà. Hú vía. Nhận chuông. Bà xã tôi tưởng tôi “hiện thânvề’.

Tự chui vào rọ.

Chủ nhật 23–6-75, khoảng một giờ trưa,bạn tôi, Nguyễn Lộc Thọ, Giáo sư TrườngQuốc gia Nghĩa tử đến chở Honda tôi đitrình diện “học tập cải tạo”.

Lần này, trình diện đúng ngày, đại úythật, 10 ngày. Địa điểm: Trường NữTrung học Trưng Vương, gần Sở Thú.

Sắp hàng. Vai mang túi áo quần, thuốc men… và mộtcái võng nylon.

Đến lượt tôi, đứng trước bànmột bộ đội tôi không biết cấp bực.Hắn ngồi ngay ngắn, nhìn tôi khá lâu và hỏi:

- Anh đứng trước cán bộ cách mạng màcòn mang kính?

Tôi chưa kịp hiểu anh ta nói gì, đã nghelệnh:

- Gỡ kính xuống.

Gỡ thì gỡ. Tôi là kẻ bại trận mà. Tôigỡ kính, cầm tay, không dám để trên mặt bàn.

- Ngồi xuống.

Ngồi thì ngồi. Giờ tôi như cá nằm trênthớt. Hắn đưa tôi tờ giấy, bảo khai lýlịch. Tôi cầm tờ giấy, chậm rãi:

- Kính thưa…Tôi không biết gọi anh ta bằng gì?Đồng chí thì không đúng và không được.Cấp bực thì tôi không biết. Gọi bằng ông sợbị mắng.

- Cho phép anh gọi tôi là cán bộ.

-Vâng, kính thưa cán bộ, kính tôi mang là kính cận,tròng trong vắt, không phải kính râm. Tôi cố đọctrọ trẹ “râm-dâm”, sợ cán bộ không hiểu nếutôi phát âm theo “Nam kỳ rặc” là “râm”. Gọi là kính mát,chắc chắn hắn không hiểu rồi. May mà tôi khôngmang verre fumé.

Cán bộ ra lịnh tôi gỡ kính xuống, tôi khôngthấy đường để viết, đọc gìhết. Hắn nhìn tôi, nhìn sang kính tôi đang cầm tay,gật đầu:

- Cho phép anh mang kính lại.

Tôi biết, từ đây đời mình sẽ cònnhiều giông bão.

Tập họp chia nhóm: 18 người thành một A. Tôicũng không thắc mắc tại sao 18, không phải là 15hoặc 20. Bốn A thành một B. Tôi thuộc A8  B12. Lên lầu, vào lớp học,tạm trú.

Tôi đã đến trường Trưng Vươngnhiều lần rồi. Trong những năm ởĐại học Y khoa ở số  28 Đường Trần Quý Cáp,tôi là giáo sư dạy giờ, môn vạn vật,Trường Petrus Ký. Năm nào cũng đi gác thi, chấmthi Tú tài I và ÌI ở Petrus Ký, Gia Long, Chu văn An hoặcTrưng Vương. Đâu ngờ, đây là lầncuối cùng …vào Trưng Vương “Tử Cấm Thành”.

Khoảng 5 giờ chiều, lệnh xuống sân lãnhcơm. Trời! Cơm do Nhà hàng Đồng Khánh mangđến. Tôi nghĩ là phải ngon lắm vì nhìn cũnggiống cơm chiên Dương Châu mà mỗi lần đidự tiệc cưới ở Đồng Khánhngười ta hay đãi. Nhưng nuốt cho đỡđói thôi chứ có biết mùi vị gì. Nhìn chung quanh, anh emđồng cảnh… cũng lặng thinh. Mỗingười một tâm sự, ánh mắt lo âu.

Ăn xong tập họp. Nghe lệnh. Nhữngđiều cấm không được làm…khôngđược nói.

Màn đêm từ từ buông xuống.

Trở lên lầu, tìm cách giăng mùng giữa các bànhọc, ngủ đỡ, qua đêm.Trằn trọc mãi.

Bao nhiêu câu hỏi. Tương lai về đâu? Bao nhiêulo âu.

Nửa khuya, có tiếng tu huýt, lệnh trở xuốngsân. Tập họp theo đơn vị A, B. Nhậnlệnh mới. Di chuyển. Tuyệt đối cấm,cấm, cấm. Nhiều điều cấm lắm. Anh nàora khỏi hàng là bắn bỏ. Thòng lọng ở cổtừ từ siết lại.

Xe Motorola chờ sẳn trước cổngTrường Trưng Vương. Lên xe. Kiểm soát.Tấm bạt mui xe khép kín lại. TrờI tối càng thêmtối om… như đờI của kẻ bại trận.Có tiếng AK đạn lên nòng. Xe chuyển bánh. Quo vadis?

Sau nhiều lần quẹo, xe chạy thẳng và êmhơn. Mình ra xa lộ. Anh ngồi ngoài cũng hé chút muicố nhìn và định hướng. Chạy mãiđến sáng thứ hai 24-6-75.

“Ê, mình đến Long Khánh rồi đó mấy cha.Vừa qua khỏi  vườncây của Đại tướng Lê văn Tỵ, chạynữa. Đi đâu cà ?” Cuối cùng, bộ độimở tấm bạt. Xuống xe. Hai chân tê cóng. Anh nào đónhìn ra: đây là Long Giao, doanh trại cũ của TrungĐoàn 48, Sư đoàn 18 Bộ binh, trước là căncứ Black Horse của Mỹ.

Tập họp. Mỗi B gồm 72 người vàomột nhà, gọi là lán, domột cán bộ gọi là quảngiáo chỉ huy. Nhà trống, đầy bụi rác.Đủ thứ rác.

“Thế mình ở đây à?” Có giọng ngây ngô hỏi.

– “Ngủ ở đâu?”- “Nằm ngay trên sàn nhà màngủ”. Nhưng trước hết phải tìm cách quét chosạch cái sàn nhà đã.

Một đoạn đời mới từ đây.

Đời sống vôsản.

Mỗi người mang theo một túi vải, trongchứa áo quần, thuốc men. Đứa nào cũng có môtlon “gô”(lon sữa Guigoz bằng nhôm). Riêng tôi còn có thêm mấylưỡi câu, dây nylon và cái võng nylon có mùng luôn. Thuốcsuyễn uống và bơm. Hơn 100 viên chloroquine. Mỗituần một viên, tôi sẽ chịu đựng đượctrên hai năm. Tôi không tin mình sẽ đi 10 ngày, nhưng tôidự trù có sáu tháng thôi. Đâu ngờ phải đi ởtù lâu quá vậy!

Mỗi người được 40 cm sàn ciment. Tôinằm đong đưa trên võng, không đụng ai vàrộng thêm chỗ cho hai bạn tù bên phải và trái.

“Khôn dại  cùng chung ba thước đất
Giàu sang chưa chín một nồi kê!”

Vua Tự Đức mà còn cam ba thướcđất, mình được bốn tấc…mà còn thannổi gì?

Tổ chức thành “tổ” (A) và lán (B) chia phiên bữacủi, kéo nước giếng, nấu ăn (gọi là anh nuôi) hoặc ra ngoài trạilao động. Thật tình, đối với nhữngngười không bị đưa ra Bắc, phầnlớn là sĩ quan cấp úy, thì lao động không đếnmức “cực hình, khổ sai” nhờ nhiều yếutố. Bắt đầu cuối năm 1976, đầu1977, họ nhận được thơ, thực phẩm,thuốc mencủa gia đình, nâng đỡ tinh thầnlắm; họ còn trẻ, trên dưới hoặc vừabốn mươi ngoài, thân thể còn tráng kiện; thờitiết trong Nam không khắc nghiệt như ởthượng du Bắc Việt, trại Hà Nam Ninh, Hoàng LiênSơn, Cổng Trời…tối đến lạnh xuống3-4 độ Celsius; mỗi lần ra khỏi trại làm laođộng gặp dân địa phương còn có cảmtình với “ngụy”, nhiều khi họ giúp cho thứcăn như chuối, bắp cũng thấy “ấm lòng”.

Đói vẫn cứ đói, mỗi ngày 400 gram gạokhông thấm vào đâu. Tuy nhiên không ai than phiền gì vì bênngoài, gia đình mình cũng vất vả lắm. Chỉ locho vợ con. Lấy gì sống? Đi kinh tế mới. Quamấy lần đổ tiền rồi còn gì đâu!

Đời sống tinhthần:

Người cải tạo rất khổ tâm vềphương diện tinh thần. Những linh mụcphải đi học tập vì là đại úy tuyên úy cônggiáo rất đáng khâm phục. Bất chấp ngăn cấm,kiểm soát chặt chẽ, các cha vẫn làm thánh lễ chongườI tù công giáo. Lễ bỏ túi, lễ chạy,lễ di động. Nhưng vẫn có Thánh lễ, nângđỡ tinh thần với đức tin Chúa.

Ngược lại các cán bộ chỉ lập lạinhững lời tuyên truyền trước đây trongchiến tranh có thể áp dụng với dân chúng ít họcnơi vùng quê hẻo lánh nhưng bây giờ đốitượng lại là những sĩ quan có trình độ,tối thiểu cũng đã tốt nghiệp trung học.

Luận về tội của người đicải tạo: “Anh là giặc lái, lái máy bay bỏ bom toàntrẻ em và phụ nữ; bộ độiđược huấn luyện kỷ thuật tránh bom,đâu có chết. Anh là quân y, chích thuốc kích thích cho línhngụy nó hăng lên đánh phá cách mạng dữ dội.Anh là Cha, là Cố, làm phép cho lính Ngụy đạn bắnkhông trúng.”

Ngoài ra những buổi sinh hoạt “Văn nghệ” làmtôi khổ sở lắm. Không muốn nghe, không muốnthấy cũng không được. Ngồi xoay qua xoaylại cũng bị phê bình. Ngồi ngủ gục tộicòn nặng hơn nữa. Cuối cùng tôi có cách. Tuyệtchiêu! Tôi ráng nhớ hết tên quý cô giáo, thầy giáo, giáosư trung học, giáo sư đại học khoa học,đại học y khoa…Tôi ngồi đó, nhưtượng gỗ. Ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnhnhưng tôi không thâu nhận gì hết vì trí óc tôi đang bậnvới tên tuổi những ngườI đã góp phầndạy dỗ tôi. Xong. Tôi nhớ hết.

Kế đến, lần sinh hoạt văn nghệtới, tôi ráng nhớ tên mấy đứa bạn cùnglớp. Lẽ dĩ nhiên tôi đâu có nhớ hếtnổi, nhưng đầu óc tôi đâu có rảnhđể “tiếp thu” những lời vô nghĩa,chướng tai. Tôi ráng nhớ mấy bài “học thuộclòng” (recitation). Vui lắm. Học từ những năm1947-48. Ví dụ bài”Cắt móng tay”:

Đời xưa có thóidị thường
Những người sangtrọng ngồi không tối ngày
Bởi nênkhông cắt móng tay
Để cho nó mọc radài uốn cong
Đời nay có thói lạ lùng
Móng tay họ cắt màkhông cắt cùi
Mỗi ngày mài dũa lauchùi
Thoa son đánh phấn ra mùi Tây U…

Cũng có bài cảm động lắm như bài “Tanbuổi học”:

Tan buổi học mẹngồi tựa cửa,
Nhác trông con đưađứa về dần,
Xa xa con đã tớigần,
Mẹ con tề tựuquay quần bửa ăn.
Cơm dưa muối khókhăn mới có,
Của không ngon nhà khócũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm dòn,
Chồng chồng vợ vợ, con con một đàn.

Hoặc bài” Après la bataille’ của Victor Hugo, bắtđầu bằng câu:

Mon père ce heros, au sourire sidoux,
…Donne lui tout de même à boire, dit mon père.

Đặc biệt bài “Lamaison paternelle” càng làm nhớ nhà thêm:

“Inoubliable est la demeure
Qui vit fleurir nos premier jours…”

Ngày lại qua ngày. Không ai dám đếm ngày đếmtháng nữa.

Vụ án Bác sĩ B. Q. M:

“Học tập cải tạo” đã hơn mộtnăm rồi. Ngày về mù mịt như Tô Vỏ chăndê. Bặt tin tức. Có “ai” đề cập đếnliên lạc vớI gia đình đâu.Trái lại, hàng ngày cán bộnhắc nhở lệnh: Cấm “liên hệ”với bấtcứ ai, lúc ở trong trại cũng như lúc ra ngoàiđi lao động (cuốc đất trồng khoai mì, chặttre, đốn củi).

Không biết bằng cách nào, các bà vợ “tù cảitạo’ở Sàigòn biết được Trại Long Giao.Thế là ngày nào cũng có mươi bà lên đón monggặp các toán tù “xuất trại để laođộng”.

- Các anh ơi, tôi là vợ của Đại uý X,trước ở Đơn vị Y. Các anh nhắn dùm làgia đình bình yên. Ba đứa con tôi nuôi không nổI nên chonó theo Cậu Z, theo chú nó hết rồi. OK Salem hếtrồi.

Thế là chiều hôm đó thế nào cũng có màn:“Sáng nay tao thuộc tổ chặt tre, có thấy Bà Xã mày lên.Không làm sao nhận được quà cáp gì hết vì bộđội kiểm soát chặt chẽ quá. Nhưng Bà Xã màynhắn là gia đình bình yên, ba đứa con bả choCậu Z nuôi. Mẹ, Cậu Z “vọt” hồI 75 phảikhông mậy? Ê, còn đường không, cho xin mộtthẻ”.

Tối hôm đó, trong giấc ngủ chập chờn,Đại úy X. mỉm cười.

Sau này, Bà Xã tôi kể lạI: đã lên Long Giao támlần. Những ngày ấy, tôi không thuộc toán laođộng ra ngoài. Những ngày tôi cuốc đất, váccủi ngoài trại, Bà Xã tôi không lên. Cũng dễ hiểuthôi: còn lo chạy gạo, săn sóc bốn đứa connữa chớ!

Mỗi buổi tối sinh hoạt, quản giáonhắc lại: Cấm liên hệ.

Rồi giông tố nổi lên. Không biết cách nàođó, cán bộ bắt được một tờgiấy nhỏ với vỏn vẹn chín chữ: “Má và cáccon yên tâm, Ba bình an”.

Theo ngôn ngữ được dùng, tác giả là mộttên Nam Kỳ. An ninh trại điều tra và quảquyết BS B. Q. M. là thủ phạm với bản án:“Nhốt vào conex”. Thời gian sẽ quyết địnhsau.

Conex là một hộp sắt hình vuông, mỗi cạnhkhoảng 1,5m, có hai cánh cửa, kín mít , dùng đểchứa hàng hóa, gởi từ Mỹ sang. Người takhoét hai lổ khoảng 10x20cm cho người tù thở. Conexđể giữa “trời cao đất rộng”, khôngmột bóng mát. Trong conex, tù không đứng thẳngđược. Ban ngày nhiệt độ lên tới 105-110F. Sắt giản ra bưng bưng (đâu có chuyện “ Nắng Sàigòn anh đi màchợt mát,” đâu có “áolụa Hà Đông”!). Người tù conex chỉ có mộtbộ đồ, cởi ra hết, che trên đầu, hyvọng đỡ nóng. Mắt đỏ hoe. Miệng khôđắng. Da sần lên như da cắt kè. Mỗi ngàyđược một lít nước. Tiểu tiện ngaytại chỗ. Nước tiểu vừa đụng sànconex đã bốc hơi. Cục phân, nhỏ như cứtdê, cũng khô cứng.

Cửa conex chỉ mở ngày hai lần cho bạn tùmang nửa khẩu phần cơm tới. Rồi đónglại ngay. Người ta không muốn tù đượchưởng chút không khí trong sạch. Đúng nghĩa khôngkhí trong sạch, không bóng gió gì hết.

Ban đêm lạnh thấu xương. Tù nằm congqueo nghe sắt co rút lại kêu răn rắc. Không cònsức để mà run.

Bị nhốt trong conex là kể như mình đãđặt một chân vào thế giới bên kia rồi.Chỉ cần rút nhẹ một chân nữa là xong mộtkiếp người ở cái tuổi chưa đầybốn mươi. Vậy mà BS B.Q.M. còn sống nhăn saumột tháng cọng với ba ngày trong conex.

Đến nay, ba mươi năm sau, BS B.Q.M. vẫnBỐN không biết: không biết ai là tác giả chín chữđó, không biết tại sao an ninh trại lạI quảquyết là mình, không biết tại sao đượcthả ra, không biết nhờ đâu mình sốngđược.

“Vertigo” của BS Nguyễnsơ Đông.

Một buổi chiều không đi lao động, tôiđang ngồi vá chiếc võng nylon thì có bộ độichuyển lệnh: lên văn phòng làm việc với AnhLực. Nghe tên Anh Lực, tôi lạnh mình. Mấyđứa bạn tù ngồi gần đó ngước nhìntôi, nhìn tên bộ đội non choẹt vác AK mà ngao ngán dùm tôi.

“Anh Lực” là trung úy an ninh của trại Long Giaonổi tiếng “ác ôn”. Thật tình, tận mắt, tôichưa có dịp thấy hắn hành hung, đấm đágì ai. Nhưng nộ nạt, sỉ vả, chửi mắng,hăm dọa tù là chuyện cơm bửa đốivới hắn. Tôi đã bị hắn gọi đích danh ra“trước hàng quân”...tù để sỉ vả:

- Lúc nhỏ, anh là con đẻ của thực dân Pháp(vì cái tội theo học ở trường  Chasseloup Laubat của Pháp), lớnlên, anh làm tay sai đắc lực cho Đế quốcMỹ. Tội của anh đáng chết mườilần, anh có thấy nhục nhã không?

“Anh Lực” mà ra lệnh nhốt vào conex thì hếtthấy mặt vợ con, anh em, bè bạn. Tôi lạinhớ đến hình dáng của BS B.Q. M.sau khiđược dìu ra khỏi conex. Trắng xanh, mắt sâuhoắm, không còn chút sinh lực, ốm tong teo…Nhìn vào khôngthấy đâu hết, chỉ thấy bộ quần áorộng thênh thang bay phất phơ trong gió. Đứng khôngvững. Nói không ra tiếng. Bây giờ, năm 2006, ngồiyên viết lại, chớ lúc đó tôi sợ lắm,bước chậm chậm như cái xác không hồn. Tôiráng lấy can đảm, nắm chặt tay lại chớchân tôi bắt đầu run run khi gần đến vănphòng Tiểu đoàn tù L2T1.

Đến cửa văn phòng, tự nhiên tôi quaylại nhìn trời. Biết đâu đây là lần cuốimình còn có thể nhìn lại chút bầu trời trong mát.

Bộ đội đứng nghiêm:  “Báo cáo đồng chí… “ , vừabáo cáo vừa để tay vào lưng tôi, “diù” nhẹ tôi vàovăn phòng. Toàn thân tôi nổi da gà. Tôi có cảm tưởngđao phủ đưa tội nhân

lên máy chém..Tôi bước vài bước vào đứngnghiêm trong văn phòng Trung úy Lực:

- Kính xin báo cáo…Tôi vừa nói vừa nhìn hắn, cốlấy giọng bình tĩnh.

Hắn ngồi sau bàn viết, cố tình không nhìn tôi,như đang tìm kiếm gì đó, lấy ra một xấphồ sơ. (Tôi nghĩ đó là hồ sơ của tôi vìtừ khi vào trại đến giờ đã khai lý lịchtrích dọc trích ngang hơn chục lần rồi). Rồitừ từ, hắn đứng dậy, kéo áo lại chongay ngắn, từ từ tháo dây thắt lưng có dính tònten bao da đựng cây K54, để nhẹ trên bànviết, kế một tách trà đã vơi.

Nãy giờ cũng đã gần năm phút rồi,hắn vẫn không thèm nhìn tôi bằng nửa con mắt,không thèm phán cho tôi nửa lời. Tim tôi đập liênhồi, có cái gì ngăn ở ngực. Muốn ói. Tai ù.Mắt mờ. Như đang lạc vào thế giớihuyền ảo. Cái sợ đã lên tới tộtđỉnh.

Bổng hắn đập mạnh nắm tay xuốngmặt bàn. Rầm. Tiếng rầm kéo tôi trở lạithực tế. Tôi mở mắt to, há hốc nhìn hắn.Hắn quát:

-Tại sao tới giờ này anh còn dối cách mạng.Cách mạng đã tha tội chết cho anh…Thật làmột lũ ngụy.

Sợ quá , tôi không biết lúc đó tôi có hiểuhết những gì hắn nói không. Hắn ra mặt giậndữ, vừa thét to, vừa đẩy xấp hồsơ về phía tôi.

Như có phép lạ, trong thoáng giây, đầu óc tôi minhmẫn lại. Có lẽ ngọn đèn bừng sáng lêntrước khi bị dập tắt. Tôi linh cảm trongcử chỉ, trong giọng nói của hắn có chút gìgiả dối, có chút gì muốn áp đảo tôi.

- Xem đây, anh viết anh không hề vào đảng “ThằngThiệu” mà sao lên cấp bậc đại úy. Mẹ, khôngvào đảng, lên đại úy. Dối cách mạng chocải tạo mục xương.

Tôi tỉnh lại hẳn. Tôi cám ơn hắn đãlập lại câu nói  “không vàođảng, sao lên đại úy”. Tôi không nghe sai. Tôi cảmđược con người tôi hiện đầy sinhkhí. Tôi muốn cười thật to, cho sướng. Tôivẫn đứng nghiêm. Hắn còn hét to lên nữa,tiếp tục mắng chữi, hăm dọa đủđiều. Tôi đâu có nghe nữa. Tôi biết chắc chắnhắn hố rồi. Tôi biết chắc chắn không có gìđể buộc tội tôi, ngoài cái tội ngụy. Và tôikhông sợ nữa. Hắn mệt rồi. Hớp cạntách trà, hắn ngồi lại xuống ghế, mắtmở to nhìn tôi như cố ý xem tôi “xanh mặt”đến mức nào. Run chưa?

Tôi chậm rãi để hưởng hết cáihương vị đậm đà của “chiếnthắng”.

- Kính thưa anh cho phép tôi báo cáo.

Sau một thoáng suy nghĩ hắn gật đầuchấp thuận.

- Kính xin báo cáo anh mấy điều. Thứ nhất,anh xem lại bảng lý lịch của tôi, tôi không có mangcấp bực thiếu úy động viên vào quân đội… (Tôi muốn nói Quân lực Việt Nam Cộng Hòa mà khôngdám)…

-  Ngụy chứ quânđội gì, hắn cắt ngang.

 - Động viên tháng 3năm 1966, tôi mang ngay cấp bực trung úy (tôi cố tránhchữ ngụy). Thứ hai: Trong quân đội Miền Nam…

 - Tôi ra lệnh anh nói quânngụy, hắn bực dọc lắm rồi.

  - Vâng trong quân ngụy,không có cấp “thượng” như thượng úy,thượng tá, thượng tướng, nghĩa làtừ trung úy lên ngay đại úy. Thứ ba: Tôi lênđại úy từ năm 1968 (đặc cách tạimặt trận, tết Mậu thân, tôi không dám nói sợhắn “quýnh” tôi) và đến năm 1975 vẫn còn mangđại úy. Như thế tôi vào quân … ngụy hơn 9năm, lên có một cấp bực thì có đảng nàođâu!

Tôi vẫn đứng nghiêm, nghiêm để nhìn cáibối rối của hắn. Hắn vẫn trừngmắt nhìn tôi, trong ánh mắt có chút bẽn lẽn củamột người vừa đánh … hụt. Hắn cốgỡ gạc:

- Cách mạng tìm được tài liệu anh làđảng viên đảng “Thằng Thiệu” thì sao?

- Kính xin báo cáo: tùy cách mạng định đoạt.

- Thôi cho anh về. Cấm kể lại chuyện nàycho bất cứ ai. Chết với tôi đấy.

Hắn gọi bộ đội đưa tôi lạilán B12. Trên đường về tôi huýt sáo nho nhỏ… “Thelongest day”. Về đến lán, anh em ngạc nhiên thấytôi còn nguyên vẹn. Mắt không bầm, mặt không sưng.Tay chân còn cử động nhịp nhàng. Tuy nhiên không anh nàodám hỏi han gì hết.“Anh Lực” oai đến thế.

Chuyển trại

Một ngày đầu tháng 3 năm 1977. Sáng sớm banquản giáo ra lệnh: hôm nay không học tập, không laođộng, các anh mang hết đồ đạc ra sânkhám xét.

Đây không phải là lần đầu. Trong quákhứ, thỉnh thoảng đôi ba tháng một lần chúngtôi bị “khám xét tổng quát”: vũ khí nhọn (chốngđối), cơm khô (âm mưu trốn trại), thưtừ (liên hệ), tài liệu (tuyên truyền) … Sau khi ăncơm trưa, xét tiếp đến xế chiềumới xong.

Anh em đang xếp đồ đạc lỉnhkỉnh cho vào túi vải bỗng quản giáo ra lệnh: “Cánbộ Trung Đoàn đến, tất cả đứng yêntại chỗ”. Cán bộ Trung Đoàn, gầy đét,mắt vàng sốt rét kinh niên, môi thâm thuốc lào trao mộttờ giấy, quản giáo đọc: “Các anh có tên sauđây đứng qua bên phải, chờ lệnh”.Mười lăm, muời sáu tên, trong đó có tôi. Các anhkhác mang đồ trở vô lán, đóng cửa lại.Cấm trở ra sân. Nhóm chờ lệnh, hoang mang. Nhómtrở vào nhà lo âu. Cả hai nhóm đều xanh mặt.

Sau đó, nhóm chờ lệnh mang túi đồđạc được dẫn lên trước vănphòng tiểu đoàn L2T1, ngồi thành một hàng dọc cùngvới nhiều nhóm khác. Tiếp tục chờ lệnh.Chờ lệnh trong sợ sệt. Chốc chốc lạicó anh thì xin phép đi tiểu. Mờ tối, khoảng 8giờ, một đoàng 5 chiếc Molotova tới. Bây giờcán bộ Trung Đoàn mới cho biết: “Có lệnhchuyển trại các anh.” Giống như gần 2 nămtrước từ  “Tửcấm thành Trưng Vương” lên Long Giao, nghĩa làđi ban đêm, với bạt mui xe đóng kín; lệnhrất nghiêm nghĩa là ra khỏi hàng là  bắn bỏ. Một chi tiếtnhỏ: lần này, tôi không nghe tiếng AK đạn lênnòng. Molotova chạy suốt đêm, bỏ đườngnhựa, chạy quanh co đâu trong rừng, dằn, xốclắm. Sáng hôm sau, đoàn xe thả tù xuống mộttrảng tranh. Lần lượt nhảy xuống. Anh nàocao dưới 1.60 m không thấy đâu! Tranh cao khỏiđầu. Tập hợp. Chia tổ, chia lán. Đốncây, dựng nhà, đào giếng. rành quá rồi. Địadanh: Katum, rừng già, nguyên là mật khu giữa Tây Ninh và biêngiới của Việt Miên.

Sống giữa rừnggià Katum.

Cán bộ nói chung quanh không có hàng rào, không kẽm gai,không bộ đội gác gì hết, nhưng các anhđừng có dại dột mà trốn trại. Khôngbiết đường ra đâu. Đúng, chúng tôi bịnhốt giữa rừng già. Đi lao động thỉnh thoảnggặp hầm hố, công sự chiến đấu, doanhtrại của cộng sản, trước 75, nay đãhoang tàn. Cuộc sống có vẻ đỡ gò bó vàđỡ đói vì có “kiếm chác” được chút “của trời cho”: cải trời, măng, trái cây rừng… Thích nhất là gặp những hố bom, mỗi hốđường kính rộng hơn cả 10m, không biếtsâu bao nhiêu, nhưng đầy âm ấp nước; cónước là có sinh vật: cá và ếch. Tôi mang lưỡicâu “thứ thiệt”, có ngạnh đàng hoàng, nhợ nylon,chặt trúc làm cần câu cá và ếch, thằng bạn cùngtổ làm việc ngạc nhiên lắm. –“Ở đâu mày có?”–“ Mang theo khi đi trình diện chứ ở đâu mậy.Tao đâu có tính 10 ngày mậy”.

Giữa rừng già, đêm xuống, trăn trởnhớ nhà lắm. Trăng rừng, bóng trăng xanh tải,lành lạnh. Chập chờn, ma quái. Mưa rừng reorắt, buồn thúi ruột. Còn lòng dạ nào mà nhớ ThanhNga … “Mưa rừng ơimưa rừng giọt mưa, nhớ ai mưa triềnmiên” …Thấm thoát mà ở tù hơn hai năm rồi. Cáchđối xử của cán bộ đối với tùvẫn hằn học và khinh rẻ. Họ là kẻthắng trận, nhưng họ biết không khi nào họ“tẩy não” được chúng tôi. Vậy, họ còngiữ chúng tôi làm gì? Từ ngày lên Katum đến nay đã4, 5 tháng rồi có “học hành” gì đâu. Những đêmtrằn trọc nghe bạn tù mớ … mớ cha, mớmẹ, mớ vợ, mớ con … mớ bạn bè.

Thăm nuôi. Vive la “2CV”

Một ngày đầu tháng6/1977, quản giáo ra lệnh: “Khẩn trương,đốn cây, cất thêm mấy căn nhà. Các anh sắpđược thăm nuôi. Cắt tóc, chọn áo quần“tốt” mà đón gia đình”. Chúng tôi ghi nhận tin “thăm nuôi” bán tín, bán nghi. Lần này, như có phép lạ,“Cách Mạng” thực hiện điều mới tuyênbố. L’exception confirme la règle.Thế là tôi được gặp mặt vợ con.

Lại Nguyễn Lộc Thọ, cựu giáo sưQuốc gia Nghĩa tử, người đã chở Hondatôi đi trình diện học tập ngày Chúa nhật23/6/1975, nay chở vợ và bốn đứa con tôi lênKatum, bằng chiếc 2 CV cũ kỹ. Cảm độngnhất, là có bà nhạc mẫu tôi. Bà ngoại, bảymươi ngoài, lụm cụm lên thăm thằng rể“tù”.

Ánh sáng cuốiđường hầm

Tháng 8/77, một số chuyên viên y tế, kiến trúc,kỹ sư được “chuyển trại”. Không  nói thẳng, nói thật, chuyểntrại, thế thôi. Về bến mới đục haytrong? “Cũng liều nhắm mắt đưa chân”. Autant en emporte le vent. Sắpxếp hành trang lên Molotova … lần thứ ba.

Lần này, chúng tôi nhận thấy hai điểm “sángsủa”, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, là di chuyểnban ngày và bạt mui xe không khép kín lại, tuy vẫn có haibộ đội với AK ngồi ngoài bìa hai băng xe. CóAK nhưng không nghe tiếng đạn lên nòng. Đếnxế chiều, xe chạy vào một doanh trại cũcủa Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không biếtđơn vị nào, chỉ nghe anh ngồi ngoài bìa nói TâyNinh. Xe ngừng. Lần lượt nhảy xuốngđất. Bỗng nhìn lên vách một căn trạichữ phai mờ rồi nhưng còn đọcđược: TD 252 PB. Mắt tôi hoen mờ. Môi tôi nghemặn. Tôi đã khóc: thì ra đây là một phần củađơn vị cũ của tôi, sư đoàn 25 bộbinh.

Tái diễn cái màn: chia tổ, chia lán, nhưng khỏidựng nhà. Hàng dãy doanh trại bỏ trống. Ởđây tôi gặp lại Dương Tấn Lợi,đại úy quân nhu, trong nhóm Chasseloup/ Jean Jacques Rousseauđi nhậu hàng tháng với nhau. Vợ anh Lợi “dân Tây”- Quốc tịch Pháp, thứ thiệt chứ không phảinhư tôi bị chửi oan, đã đem đứa con“hồi hương” về Pháp rồi. Khỏe ru. Nókhỏi lo con, cháu nó. Lợi kéo tôi ra một góc, “nói nhỏcho mầy biết, tao còn hai con khô sặc, tao cho mầymột con”. Trời! Tôi không biết caviar, tôi không biết“khô lân chả phụng” ngon đến mức nào, chớgiờ đây, đổi con khô sặc rằn, rằn,rằn này … tôi không chịu.

Độ hai tuần sau, tôi được giấyxuất trại …Tưởng là tốt lắm. Có ngờđâu, như thầy Huyền Trang Tam Tạng, sau 80nạn rồi … chỉ thỉnh được mấy pho“vô tự kinh”.

NguyễnSơ Đông

01 tháng 1 năm 2007

Sống lại

Đúng như Tam Tạng qua bao nỗi “trần ai”chỉ thỉnh được mấy pho “vô tự kinh”.

Được giấy xuất trại chỉ làthả ra khỏi trại tù nhỏ Củ Chi … Đểđược giam trong trại tù lớn Việt Nam.

Chữ “Ngụy” được in vào hồ sơ,như được xâm lên trán, thời trung cổ.

Ngụy có nghĩa là:

- Mất quyền công dân.

- Bị áp lực đi kinh tế mới, giao nhàcửa cho nhà nước “cách mạng” quản lý.

- Lẽ dĩ nhiên không nơi nào cho mình việc làm,bất cứ ở tầng lớp nào trong xã hội.

Dẹp hết tự ái, tôi xin vào làm y tá trong phòng ytế của một xí nghiệp dưới sự“chỉ huy” của một “bác sĩ chuyên tu” cộngsản. (Chỉ mong có việc làm ở Sài Gòn, khỏiđi kinh tế mới). Vậy mà hai tuần sau, chi bộđảng quyết định: chỗ này phải dành cho“thân nhân liệt sĩ cách mạng”.

Tôi cắn răng chịu đựng mọiđắng cay: ra sở y tế (tòa lãnh sự Trung Hoa DânQuốc cũ, đường Hai Bà Trưng) thành phốHồ Chí Minh, gặp bác sĩ Nguyễn Hải Nam, cùng khóaY Khoa Sài Gòn. Nam bây giờ là VIP, vì là “cơ sở cáchmạng” (nằm vùng) do anh ruột Đại tá công ancộng sản Nguyễn Hải Thọ gài trong bệnhviện cảnh sát/ Tổng Nha Cảnh Sát Việt NamCộng Hòa, đường Võ Tánh. Nam chỉ phán mộtcâu: ”Anh về thu xếp đi kinh tế mới”.

Đứng xếp hàng mấy tiếng đồnghồ để mua “nhu yếu phẩm”, thì bà tổ trưởngdân phố bảo:

-  Cậu là ngụy, khôngbán.

Cay đắng ỡ chỗ: bà này bà con khá gầnvới mình, nhưng nay mình là ngụy: hết bà con. Tôicố xoay sở, cố nuốt nhục, mong gia đìnhđược dễ thở chút nào. Nhưng sau đây làgiọt nước mắt làm tràn ly.

Con trai đầu lòng, học hết lớp 9, xét lýlịch, con ngụy, không được tiếp tục lênlớp 10.

Vậy người cộng sản muốn đầyđọa bao nhiêu thế hệ gốc Quân Lực ViệtNam Cộng Hòa?

Tôi xin viết rõ ràng, minh bạch cho thế hệ maisau: tôi đã đi dạy trung học, đã là giám khảothi Tú Tài I & II nhiều khóa, tôi đã hành nghề y khoatrong và ngoài giới quân đội, tôi chưa khi nào hỏilý lịch thí sinh hay bệnh nhân. Thí sinh giỏi, tôi chođiểm tốt. Bệnh tôi chữa. Bịthương, tôi săn sóc. Nặng tôi gọi trựcthăng tản thương không cần biết đó làchiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hay Việtcộng. Đó là tôn chỉ của Việt Nam Cộng Hòa.

Vì thế, khi con tôi mang phải cái tội “con ngụy”bị từ chối lên lớp trên, tôi quyếtđịnh vượt biên.

Tôi bàn kỹ với nhà tôi, chấp nhận biết baogian lao, nguy khổ, đem mạng sống cả gia đìnhđổi lấy tự do. Chúng tôi hy sinh, mong các con cómột tương lai sáng lạn hơn hay ít nhất khôngbị trả thù.

Trong lịch sử, chưa có thời nào, chưa có dântộc nào phải chấp nhận thương đau,chết chóc, tan nát … bỏ xứ ra đi nhiều nhưViệt Nam Cộng Hòa, sau 75. Một cách khiêm tốn,ước lượng 10 người vượt biên, 6người thoát hiểm, 4 người chết ngoàibiển khơi (giông bão, bệnh, hải tặc, đói …),thì nếu 300.000 (ba trăm ngàn) “boat people” đến được bến bờtự do, đã có 200.000 (hai trăm ngàn) chìm sâu đáybiển.

Việc tôi không hiểu được là con sốchết chóc quá cao như thế, đã làm thức tỉnhlương tâm cả THẾ GIỚI … mà chính quyềnmới vẫn dửng dưng. Họ có lương tâm haykhông? Tôi không sai khi viết “thức tỉnh lương tâmcả thế giới”.

Trại Bidong

UNHCR, tháng đến hai lần, có khi ba bốn lần.Lãnh sự Pháp Jean Blattes, phái đoàn Mỹ, Úc, Pháp, Canada,Norway, Sweden, Danemark … đã đến phỏng vấn,nhận tị nạn …và nhận cả con nuôi.

Khắp thếgiới

- Đủ mọi thành phần xã hội từnhiều quốc gia, kể cả những nhân vậtđã từng có thái độ thiếu thân thiện vớichính phủ Việt Nam Cộng Hòa như  triết gia Jean Paul Sartre, ca sĩYves Montand, tài tử điện ảnh  Brigitte Bardot, văn hào VirgilGeorghiu.

- Màu da, tôn giáo, ngônngữ họ khác.

- Chính kiến, lập trường, nhân sinh quan họkhác.

Nhưng họ có một mẫu số chung:lương tâm và tri thức con người.

Họ đã cùng nhau quyên góp tổ chức “Một contàu cho Việt Nam” (Un bateau pour le Viet Nam) để cứuvớt người vượt biển.

Vượtbiên:

Tìm cái sống trong ngàn cái chết, gia đình tôi rờiSài Gòn ngày 26/10/78. Lẽdĩ nhiên đầy hãi hùng. Chúng tôi chấp nhậnhết. Nhờ ơn trời, chúng tôi đến Pulau Bidongngày 3/11/78: ngưỡng cửa trước khi vào chântrời mới.

Ở Bidong, cũng khổ cực, thiếu thứcăn, thiếu đủ thứ … và nhiều lo lắng,nhưng sống vẫn HY VỌNG. Hy vọng làm lạicuộc đời ở một “đệ tam quốc gia”… Úc, Mỹ, Pháp … gì cũng được. Nơi đó cóchút tình người. Những ngày đầu đói lảngười. Chồng 39 tuổi, vợ 38. Bốn con,đứa nhỏ nhất: 5 tuổi.

Gia tài: mỗi người một bộ đồ,chứa trong túi vải cộng với bộ đangmặc là hai, cọng với 2 ponchos “nhà binh”: mộttấm trên nền cát, một làm mái che mưa nắng. Cònđược 16 gói “gạo sấy”. Đồ hành quân củaQuân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó nấu thànhcháo lỏng … ráng chịu đựng.

Không một dollar. Không một chỉ vàng. Đó là giađình tôi khi cập bến Bidong.

Tôi đi vòng khắp đảo … tìm viện trợ.Hỏi Ban đại diện: không biết! Chính quyền MãLai không cho được hạt gạo, lít nướcnào.

Ngày thứ sáu trên đảo. Hết gói “gạosấy” cuối cùng. Tôi gặp lại bác sĩ NguyễnCẩm Thạch và Dược sĩ Nguyễn Kim Sơn(trước ở Trung tâm 3 Huấn luyện), vợchồng bác sĩ Trịnh Văn Chương và Bác sĩ MãNgọc Phương, Bác sĩ Đoàn Lân, không quentrước nhưng giờ làm quen … tiếp tế cho mìgói, gạo, chén, nồi và dầu (để nấu vàđốt đèn). Quý hơn bát cơm Xiếu Mẫu. Trântrọng đội ơn năm bạn.

Vào thời điểm này tháng 11/1978, “dân số” Bidongkhoảng 12 ngàn. Việc tổ chức “ban đạidiện” rất phôi thai. Trại trưởng là Nha sĩĐỗ Cao Minh (anh ruột Trung tướng Đỗ CaoTrí).

Chúng tôi làm thủ tục ghi tên. Tàu chúng tôiđược xếp số thứ tự 76, đểtheo đó mà được gọi vào phỏng vấn khi cóphái đoàn “đệ tam quốc gia” đến.

Ngày nào cũng có “vượt biên” đến: hoặcđến “thẳng” từ Việt Nam, hoặc do chínhquyền Mã Lai chở đến từ các trại khác.Exodus. 7, 8, 10 … 15 mười lăm ngàn vào cuối 1978.

Nha sĩ Minh rời trại. Bác sĩ NguyễnDương Đơn (con của bác sĩ NguyễnDương Đôn, Bộ trưởng Quốc Gia GiáoDục năm 1954) thế. Bác sĩ Đơn đếnđảo trước tôi nửa giờ, cùng với giađình bên vợ là Bác sĩ Nguyễn Đình Hoàng, giáosư Quang tuyến Y Khoa Sài Gòn ( Tàu số 75).

Bác sĩ Đôn rời trại rất sớm, Giáosư Lê Tấn Kiệt, cựu hiệu trưởngmột trường trung học công lập ở HậuGiang lên thế.

Người tị nạn ồ ạt đến.Việc tổ chức “ban đại diện” lầnlần chu đáo hơn, liên lạc thường xuyênvới Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR/United Nations High Commissioner for Refugees)). Nhờ vậy trạiPulau Bidong được chính quyền Mã Lai tiếp tếthức ăn, nước ngọt. Tất cả chi phí doUNHCR đài thọ: 4(bốn) US dollar cho mỗi đầungười tị nạn, mỗi ngày.

Tàu tị nạn tiếp tục đến, vẫn cónhiều chiếc bị Hải quân Mã Lai kép trở rahải phận quốc tế … Mặc cho sóng bão …

BS BernardKouchner và “một con tàu cho Việt Nam”

Tàu bệnh viện L’ Ile deLumière

Nhắc đến Jean Blattes, Lãnh sự Pháp ở KualaLumpur, Bernard Kouchner và nhóm cộng tác, 

Thuyền trưởng Francois Herbelin và thủy thủđoàn, tôi chỉ có 6 chữ: THÀNH KÍNH TRI ÂN & CẢMPHỤC

Vượt bao khó khăn, trở ngại khắpmọi nơi, từ Paris đến Geneve, đến KualaLumpur, trở ngại ngay trong nhóm Médecins sans frontiere, trở ngại với IRC,với MRC (Malaysian Red Crescent), Bác sĩ Kouchner đã thựchiện chương trình cứu trợ ngườivượt biển với tất cả con tim và khốióc của ông:

- Cứu trợ trực tiếp, đúng lúc, ngay trênbiển cả.

- Đón người vượt biển, chữa  trị và đưa đếnbờ tự do THẬT SỰ.

Bác sĩ Kouchner và nhóm cộng tác đã thuê một tàuhàng “trống lỏng” ở Nouvelle Calidonie. Ráp vàogiường, máy quang tuyến X, phòng thí nghiệm, phòngvệ sinh … để biến thành tàu bệnh viện

L’Ile deLumière.

Bao nỗi trần ai, bao nỗi nhọc nhằnvới được chính quyền Mã Lai cho phép hoạtđộng. Tàu cập bến Bidong ngày 18 tháng 4, 1979.

Tôi đang làm trưởng trại, thế giáo sư LêTấn Kiệt đã được định cư.Cảnh thật là cảm động. Người tịnạn hoan hô dậy trời. Những người “maymắn” đến gần được phái đoàn, ômchầm lấy họ, òa lên khóc. Khác màu da, khác màu mắt,khác ngôn ngữ … Sao họ chấp nhận xa vợ, xa con,quên no ấm, quên tiện nghi … tìm đến một góctrời xa thẳm để cứu giúp mình … Nhữngngười họ chưa hề quen.

Phái đoàn cứu trợgồm có: Jean Blattes, lãnhsự Pháp, Bác sĩ Bernad Kouchner, Bác sĩ Vladan Radoman, Bácsĩ  Eric Cheysson, Bác sĩPatrick Laburthe, Bác sĩ Pierre Bonniaud, Bác sĩ Jean Claude Sénéchalvà cô Ghislaine Martin, y tá.

Không người nào cầm được nướcmắt. Các bác sĩ và y tá đã từng tình nguyện đicứu trợ ở nhiều trại tị nạnrồi, nhứt là Bác sĩ Bernard Kouchner đã từngđến Afghanistan, Biafra, Eritrea, Jordan, Kurdistan, Tchad … và SàiGòn. Nhưng chưa bao giờ họ thấy tình trạngthê thảm … “địa ngục trần gian Bidong”.

Bắt tay ngay vào việc. Khám bệnh. Cần thìchuyển lên “Ile de Lumière” … Quang tuyến X, thửnghiệm, giải phẫu. và … sanh … trên tàu.

Tàu rời Bidong ngày 5 tháng 7 năm 1979 với thànhquả: khám bệnh 1927 người, 151 ca “giảiphẫu” với gây mê, 18 em bé đã chào đời trên tàu,trong đó có 3 trường hợp sanh mổ.

Trước khi rời Bidong vì gần hết giao kèo vàgần hết tiền quyên được, Bác sĩ Kouchnerđã cho gỡ hết máy móc, dụng cụ, giườngbệnh, máy phát điện … để giúp ban đạidiện trại Bidong lập một bệnh viện 65giường. Thuốc men, y cụ … cho lại hếtđể Ban Y Tế có thể tiếp tục hoạtđộng.

Bỗng nhiên tôi nhớ đến một chuyệntrong “Bài tập đọc” lớp nhì: một convượn bị thợ săn bắn, biết mìnhsắp chết (hết tiền quyên được) bènvắt hết sữa của mình cho con bú.

Bác sĩ Kouchner đã gõ hết các cửa ở Paristừ Điện Matignon (Phủ Thủ Tướng Pháp)đến Quai d’ Orsay (Bộ Ngoại giao) và đãđược phép - với một quota khá cao - vớtđược người tị nạn nào, chính phủPháp sẽ chấp nhận cho vào Pháp người đó..

Nhờ thế, sau khi rời Bidong, “con tàu cho ViệtNam” còn “tuần dương” dọc theo đườngvượt biển Việt Nam – Mã Lai và Vịnh Thái Lan trongnhiều tuần.

Và nhiều người tị nạn đượccặp bến bờ tự do … bờ sông Seine.

Nhân vật đếnđảo Bidong

Chắc chắn có nhiều vị đã từnggiữ những chức vụ quan trọng trong hai nềnĐệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa nhưngtôi không biết. Có rất nhiều kỹ sư, kiếntrúc sư, luật sư. Đốc sự hành chánh …

Tôi chỉ xin ghi lại giới dân, quân y mà thôi:

Vào tháng 3, tháng 4 năm 1979, dân số Pulau Bidongđạt mức cao nhất: non 45.000 (bốn mươilăm ngàn), khoảng 140 y nha dược sĩ đủmọi khóa. Đặc biệt:

- Bác sĩ Nguyễn Đức Tiến, y sĩ trung tá,trưởng khối Tê Mê Tổng Y viện Cộng Hòa …Thuộc hạng “sư” về khả năng chuyên môn.Đàn em gọi là Tiến “thầy”. Gia đình anhvượt biên làm hai nhóm, trước sau. Cả hai nhóm (haicái ½ gia đình) đều gặp hãi hùng: anh suýt bịhải tặc Thái Lan đạp xuống biển, tàucủa chị cũng suýt bị đắm.

Mỹ, Nga phóng phi thuyền để ráp nốivới trạm không gian … tí teo trong vũ trụ mênh mông.

Dễ òm. Không ráp nốiđược mới là lạ, là trục trặc vìhọ có đủ yếu tố kỹ thuật. Hai cáinửa gia đình anh chị bác sĩ Nguyễn ĐứcTiến mà “ráp nối” nhauđược ở Pulau Bidong mới không phải làlạ mà là PHÉP LẠ. Anh em ở giới Y chúng tôi nghĩ:Trời giúp bởi anh chị Tiến rất hiền,rất tốt với mọi người.

- Bác sĩ Nguyễn Duy Cung rất hiền và đa tài.Anh đã là thuyền trưởng cận duyên và viễnduyên trước khi về học y khoa. “Interne Cung” (nội trú các bịnh viện). Chuyênkhoa giải phẫu lồng ngực. Giám đốc bệnhviện Nguyễn Văn Học. Ngày 30/4/75, từ chốilời mời di chuyển, đứng giải phẫuvới  bác sĩ Bernad Kouchnercho đến khi bộ đội cộng sản vàochĩa AK đuổi cả hai ra khỏi phòng mổ.

Anh Cung vẽ rất tài, làm chirungie plastique rất có“hoa tay”.

Bác sĩ Nguyễn Bội Hoàn, quyết địnhđi Pháp, rời đảo rất nhanh. Bác sĩ Hoàn làtrưởng nam của Giáo sư Nguyễn Ngọc An,cựu Bộ Trưởng bộ Chiêu Hồi.

Bác sĩ Trần Dương Đôn (Dominique), emruột giáo sư Trần Lữ Y (Louis), cựu BộTrưởng Y Tế, ở đảo có mấy tuần.Vợ là Bác sĩ Thái Ngọc Hoa ( em của TháiTường, Tiến sĩ Dược, Giáo sư Ký sinhtrùng học) và con đã “di tản” sang Pháp trước30/4/1975 nên Son Excellence Consul deFrance à Kuala Lumpur, Jean Blattes chấp thuận lẹ.

Giới ca sĩ có Thanh Tuyền, Băng Châu.

Báo Nouvelle Calédonie, nơi xuấn xứ chiếc tàubệnh viện L’ Ile de Lumiere, đài truyền hình Mỹ:CBS, Pháp: Antenne 2 đến Pulau Bidong … làm phóng sự, thu hình… có “dính” tôi trong đó. Nhờ vậy, một sốbạn hữu ở Mỹ, Pháp biết tôi đã thoátkhỏi “địa ngục trần gian” và viện trợcho tôi, qua trung gian UNHCR.

Trở lại Pulau Bidonghay: 30 năm sau, Việt cộng vẫn là Việt cộng,nghĩa là tàn ác và ngu dốt.

Tháng 3, năm 2005, một nhóm thuyền nhân trởlại Pulau Galang và Pulau Bidong để: tưởngnhớ những người đồng cảnh ngộđã vắng số trên bước đường tìmtự do và tỏ lòng tri ơn chính phủ, hội đoàn,cơ quan, tư nhân … đã cứu giúp người tịnạn. Ở mỗi nơi họ dựng một tấmbia với những giòng như sau. Tôi xin ghi nguyên văn:

“In commemoration of the hundredsof thousands of Vietnamese people who perished on the way to freedom (1975 –1996). Though they died of hunger or thirst, or being raped, or exhaustion orany other causes, we pray that they may now enjoy lasting peace. Theirsacrifice will never be forgotten. Overseas Vietnamese communities, 2005”.

Tạm dịch:

Tưởng niệm hàng trăm ngàn ngườiViệt đã bỏ mình trên con đường đi tìmTự do (1975-1996).

Dù họ chết vì đói khát, vì bị hảmhiếp, vì kiệt sức hay vì bất cứ lý do nào khác,chúng ta thảy đều cầu nguyện đểhọ được yên nghỉ dài lâu.

Sự hy sinh của họ sẽ không bao giờ bịlãng quên.

CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI,năm 2005.

Chính phủ Việt Nam làm áp lực với chính phủMalaysia và Indonesia để phá bỏ hai bia đá đó.

Trăm năm bia đá thìmòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ

Làm lại cuộcđời

Gia đình tôi đến Annandale, Virginia ngày 01 tháng 06năm 1979. Lúc bấy giờ người “tị nạn”“boat people” chưa đông. Thủ tục trợ cấp xãhội, y tế (welfare, medicaid) rất nhanh …

Sáng sớm 4 giờ, tôi và ba đứa con lớnthức dậy đi … bỏ báo Washington Post. Nhớ bàihọc thuộc lòng từ lớp ba, năm 1948:

Tôi chỉ là mộttrẻ em bán báo
Khắp phốphường chân sáo nhảy tung tăng

Bán văn chương ai dám bảo nghề hèn …

Đến 6 giờ … “công tác phổ biến vănchương, chữ nghĩa” xong, cha con về ngủlại một chút.

7:30 sáng thức dậy. Con đi học. Cha đi làm“thợ phụ” với một nhóm … sửa chữa nhàđể có chút tiền bù vào “ngân sách” gia đình.

Tối về, cơm nước xong xuôi, các con làm “homework” vật vã với Anh văn cho học sinh ngoạiquốc (English as a Second Language/ ESL), cha lo học thi ECFMG(bằng tương đương cho bác sĩ ngoạiquốc).

Khóa ECFMG tháng 7/79 đã hết hạn nộp đơnrồi, hơn nữa biết gì mà thi – Tù đày cảitạo, gian khổ Bidong, trí óc có ngu muội, thì hợp lýthôi. Ráng “gạo” để thi khóa 02/80. Đến cuốinăm 79, đành phải bỏ bớt cái “job” “bán vănchương” của Washington Post.

Đậu ECFMG luôn phần Y khoa và Anh văn, mừnghết lớn. Lo nộp đơn “xin một chỗđứng dưới ánh mặt trời”: nội trú(residency). Ráng cho kịp niên khóa 80 – 81.

FMG, đứa con “vôthừa nhận”

Tôi gởi ra tất cả là 62 đơn, khắpnước Mỹ, trừ những nơi người taghi rõ ràng: No FMG. (Foreign MedicalGraduates là bác sĩ tốt nghiệp trường ngoạiquốc)

Đủ mọi ngành, trừ những ngành mìnhthấy rõ ràng là … vô hy vọng như Giải phẫuThẩm mỹ, Tai Mũi Họng, Nhãn khoa…. Tiền làmbản sao, tiền bưu phí … muốn ói cơm.

Số trời còn thương. Được banơi gọi phỏng vấn … và chỉ một nơinhận: Family Practice (Y khoagia đình) ở Delaware County Memorial Hospital, Drexel Hill, PA19026.

Bấy giờ là tháng 6/ 1980. Lần đầu tiên ,năm năm sau ngày cộng sản chiếm miền NamViệt Nam  tôi … thấy chút yêuđời.

Residency 3 năm. Cũng cực nhọc, cũng êchề lắm! Một y tá hỏi: Biết “start an IV”không ?

Một bà bệnh đuổi tôi ra khỏi phòng vì tôikhông hiểu “Charlie horse” làgì?

Thôi, rán nín thở lặn qua sông, thôi noi gươngQuốc Văn Giáo  Khoa Thư…về nhà viết một trăm chữ NHẪN…

Chân trời mới

Xong chương trình thường trú Family Practice tôi làm fulltime ER physician (bác sĩ khoa cấp cứu) ở SomersetHospital, PA 15501.

Khoảng đầu tháng 3 năm 1985, bỗng nhiên tôinhận điện thoại từ Los Angeles (L.A.).

- Bác sĩ xuống L.A. được không?

- Tôi đang đi làm, mà xuống L.A. làm chi? Ông là ai?

- Tôi đại diện CBS, muốn mời bác sĩxuống L.A. “thu hình”, trong tiết mục “Ten years later”.

- Tôi không xuống LA được. Thời khóabiểu (schedule) của phòng cấp cứu (ER) nhàthương chặt chẽ lắm …

- Vậy bác sĩ lên New York được không?

- Cũng không được … job mà!

Ông ta suy nghĩ một chút:

- Thôi, bác sĩ không xuống L.A., không lên New York thì CBS team sẽ đến nhà bácsĩ ở Somerset, bác sĩ có chấp nhận không?

- Ông có thể cho tôi biết lý do nào tôi đượchân hạnh này?

- Bác sĩ quên là hồi tháng 3 năm 79, CBS có thu hình bácsĩ ở Pulau Bidong?

- OK! OK! hẹn ngày giờ ngay.

Tối hôm ấy tôi suy nghĩ: cả đời khôngkhi nào dám khoe khoang. Có được cái gì đâu mà khoe.Nhưng, lần này, khi CBS đến phỏng vấn, mìnhphải “gáy” một chút. Để chi?

Để nhắn rằng những sĩ quan ngụy,vượt biên, những người mà họ gọi là “non sông chối bỏgiống nòi khinh” … giờ cũng an cư lạc nghiệpở nước ngoài và “đám con ngụy” mà họ trả thù không cho tiếptục học Trung học cấp III … nay đang theohọc ở các  Ivy League Colleges cả.

 

Bácsĩ Nguyễn Sơ Đông

Y Khoa Sài Gòn 65