Văn hóa miền Nam nước Việt hay văn hóa Đồng Nai Cửu Long

Nghiên cứu và viếtvề văn hóa xã hội vùng này từ trước tớigiờ đã có nhiều người làm, khởi từTrịnh Hoài Đức đến Sơn Nam, NguyễnĐình Đẩu, Vương Hồng Sển, NguyễnVăn Hầu, Huỳnh Minh, v v. . . "Gia Định ThànhThông Chí" của Trịnh Hoài Đức chứađựng nhiều sự việc và dữ kiện quý giávề Trấn Gia Định xưa. Sơn Nam với nhữngquyển "Đồng Bằng Sông Cửu Long hay VănMinh Miệt Vườn", "Lịch Sử KhẩnHoang Miền Nam", "Đình Miếu và Lễ HộiDân Gian Miền Nam", và "Đất Gia ĐịnhBến Nghé Xưa. . ." ghi lại nhiều nét đặcbiệt về khu vực văn hóa miền Tây Nam Phần.Vương Hồng Sển lưu lại nhiều hìnhảnh sống động của Sài Gòn Chợ Lớnhồi thuở nào qua các tác phẩm "Sài Gòn Tả PínLù" và "Sài Gòn Năm Xưa" của ông. HuỳnhMinh với một loạt các tác phẩm về các tỉnhxưa cho thấy sự sống của người dânmiền Lục Tỉnh như thế nào. Nhưng nói chung,đó là những công trình nghiên cứu cá nhân, lẻ tẻ.Gần đây hơn, khởi sự từ năm 1979, chánhquyền Việt Nam đã cho thiết lập mộtchương trình nghiên cứu quy mô về vùng ĐồngNai Cửu Long. Năm 1981 một hội nghị vềđồng bằng sông Cửu Long đã đượctổ chức ở Sài Gòn. Kết quả của các côngtrình nghiên cứu đã được trình bày trong hộinghị này và được in thành sách năm 1982 vớinhan đề "Một Số Vấn Đề KhoaHọc Xã Hội Về Đồng Bằng Sông CửuLong."Tiếp theo đó, năm 1984 quyển "MấyĐặc Điểm Văn Hóa Đồng Bằng Sông CửuLong" được xuất bản ghi dấu công trìnhnghiên cứu quy mô này. Mấy năm sau, nhân kỷ niệm300 năm thành lập thành phố Sài Gòn, bộ sách 4quyển "Địa Chí Văn Hóa Thành Phố Hồ ChíMinh."(với trên 2,000 trang giấy khổ lớn) rađời. Nhiều tài liệu, dữ kiện vềkhảo cổ, và lịch sử văn hóa xã hội có giátrị khoa học về vùng Đồng Nai Cửu Long cóthể tìm thấy trong đó. Tuy nhiên vì chủ trươngcủa chính quyền là đặt nặng vấnđề tuyên truyền cho chủ nghĩa xã hội nên cómột số những bài viết trong đó phảilấy chủ nghĩa xã hội làm triết lý cănbản, và phải hướng vào mục đích xâydựng chủ nghĩa xã hội hơn là nhằm mụcđích khoa học nên phần giải thích các sựkiện cũng như phần kết luận các bàiviết này thường thiếu vô tư và lúc nào cũng cónhững từ ngữ "xã hội chủ nghĩa","Đảng" và "Nhà nước" chen vào.

Ở đây chúng tôi chỉlàm công việc tìm hiểu một cách khách quan, khoa họcchớ không phải làm bình luận văn chương(literary essay), để bênh vực, hay biện minh chomột chủ thuyết nào. Chúng tôi sưu tầm, nghiêncứu để có những hiểu biết trung thựcvề các hình thức sinh hoạt của nhữngngười đến định cư ở vùngđất mới ở Nam Việt Nam quen gọi làđất Nam Kỳ Lục Tĩnh (hay Đồng NaiCủu Long). Những câu hỏi chính mà chúng tôi đặt raở đây để hướng dẫn công cuộcnghiên cứu này là: (1) Nam Kỳ Lục Tỉnh thành hình rasao, vào lúc nào? (2) Những người Nam Kỳ LụcTỉnh này là những ai, thuộc hạng người nào,và từ đâu đến? (3) Họ sinh sống thế nàonơi vùng đất mới này? (4) Họ mang theo vớihọ di sản văn hóa gì? Họ phải va chạm, thíchnghi với những văn hóa khác đã có từtrước trên vùng đất này như thế nào? Vàkết quả của những va chạm, pha trộn, thíchnghi đó là những gì?

Công việc nghiên cứuở đây đáng lý phải tựa trên cách thứcthường dùng trong các khoa học xã hội, nhất làkhoa văn hóa nhân loại học (social cultural anthropology), màquan trọng nhất là quan sát tại chỗ (field work).Nhưng vì vấn đề có tính cách lịch sửnhiều hơn và vì hoàn cảnh không cho phép thực hiệnngay trên khu vực nghiên cứu thành ra chúng tôi chỉ cóthể tựa trên những tài liệu và dữ kiệnđã có hoặc sự ghi nhớ của nhữngngười từng sống ở vùng này. Mục đíchcủa việc nghiên cứu này là nhằm tìm hiểu vàgiải thích sự việc nhiều hơn là dùng kếtquả nghiên cứu để thiết lập đề ánxây dựng hay cải tiến xã hội/văn hóa theomột đường hướng địnhtrước nào. Đối tượng nghiên cứu làvăn hóa xã hội vùng Đồng Nai Cửu Long, tức lànhững sinh hoạt của con người ở vùng đấtnày trong vòng mấy thế kỷ nay, trong những lãnhvực quan trọng như xã hội (bao gồm kinh tế),tín ngưởng, ngôn ngữ, nghệ thuật, v v. . .Với mục đích và tinh thần khoa học đã nói,chúng tôi xin bắt đầu đi vào những chi tiếttrả lời cho những câu hỏi vừađược đặt ra ở trên.


NAM KỲ LỤC TỈNH THÀNHHÌNH RA SAO VÀ VÀO LÚC NÀO?

Khi Nguyễn Hoàngđược cử vào cai quản Thuận Hóa (1558) thìđất đai của nước Việt về phía Namchỉ có đến Phú Yên. Từ đó đến BìnhThuận còn là lãnh thổ của Chiêm Thành hay Champa. Nhưngtừ lúc xứ Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam)của Chúa Nguyễn bắt đầu thành hình thì cũnglà lúc Chiêm Thành khởi sự suy yếu dần. XứĐàng Trong càng lớn mạnh lên bao nhiêu thì xứ ChiêmThành càng yếu đi và càng nhỏ lại bấy nhiêu. Chođến cuối thế kỷ thứ XVII thì nướcChiêm Thành kể như không còn nữa và dân tộc Chămtrở thành người dân thiểu số trong cộngđồng người Việt. Biên giới phía Nam củanước Việt bấy giờ là vùng Bình Thuận, vànước láng giềng về phía này của Việt Nam lànước Chân Lạp (tức Kampuchea hay Cao Miên) của ngườiKhờ Me (tức người Miên như người trongNam thường gọi). Vùng Đồng Nai Cửu Long lúcnày thuộc về Chân Lạp.

Thật ra đấtĐồng Nai Cửu Long chỉ có thuộc về ChânLạp trên danh nghĩa thôi, trong thực tế ngườidân Khờ Me không có mặt nhiều trên phần đấtnày. Người dân Khờ Me chỉ sinh sống ởmột vài nơi thưa thớt, rải rác trên vùngđất cao, hoang vu mênh mông ở vùng Hậu Giang củađồng bằng sông Cửu Long. Ở vùng ĐồngNai thì có các bộ lạc người Mạ và ngườiXtiêng sinh sống, cũng rải rác, cũng thưa thớttrong vùng đất mênh mông hoang vu vậy. Triều đìnhChân Lạp chưa có thiết lập các cơ quan hành chánhcai trị hay những đồn binh quân sự trấnđống để bảo vệ đất đai và dânchúng của họ trên vùng đất này. Chợ búa, thànhthị cũng không có gì cả. Theo Huỳnh Văn Lang thì:"Cuối thế kỷ 17, các nhà truyền giáo vàthương nhân Bồ-đào-nha ước lượngnước Chân-lạp lúc đó với một diện tíchbằng Kampuchea, Nam-phần và phần Hạ-Lào hiệngiờ mà chỉ có một dân số chưa đến 700ngàn, đang khi đó thì địa phận Đàng-trong ,tức là thuộc địa của chúa Nguyễn, diệntích chỉ bằng¼ Chân-lạp mà dân số đã trên 100vạn hay là 1,000,000 người. Gần 250 năm sau,tức là năm 1836-37 khi vua Minh-mạng cho lệnh tổngkê dân đinh nước Chân-lạp, vừa bị sápnhập vào địa đồ hay lãnh thổ V.N. thànhTrấn-Tây, thì chỉ có 970,516 người, đang khiđó thì ruộng đất lên đến 4,036,892 mẫu.(Tài liệu: Minh-mạng chính yếu)" (Chuyệnđường rừng, tr. 21-22). Đối vớingười dân Việt, những đất đai mênh mônghoang vu ở đây là đất vô chủ, không aiđể ý tới, không ai dòm ngó, kiểm soát. Vảlại ranh giới giữa hai nước (Việt - ChânLạp) không có gì rõ ràng, ranh giới giữa các sắctộc sinh sống rải rác trên vùng đất này (xemnhư vùng trái độn) lại càng mơ hồ, cogiản, biến thiên hơn. (Xem bài "Les données historiquesde la limite territoriale au tracé frontalier" của Michel Blanchardtrong Dòng Việt số 17, tr. 109-137). Trong tình huốngđó, và với bản năng sinh tồn mạnh mẽ,với máu mạo hiểm, nông nẩy làm việc đểsinh sống, người Việt không ngần ngại gì màkhông vào vùng đất hoang vu mới mẻ này để phárừng, dọn đất, trồng trọt, mưu sinh,lập nghiệp. Mô Xoài là nơi mà người Việtđã đến khai phá, định cư sớm nhất.Mô Xoài tức là Bà Rịa bây giờ. Các sách Gia ĐịnhThông Chí của Trịnh Hoài Đức và Đại NamNhất Thống Chí triều Nguyễn cho rằng xứ MôXoài là vùng địa đầu của Biên Trấn, tứclà vùng người lưu dân Việt đầu tiênđặt chân vào để khai phá mở mang Miền Namnước Việt.

Đây chỉ là nhữngbước đầu lẻ tẻ, chập chữngcủa những người đi tiên phong trong công cuộcmạo hiểm vào vùng đất mới lạ. Phảiđợi một cơ hội thuận tiện nào đóđể việc mở rộng về phương Namtrở thành phong trào mạnh mẻ, có tính cách quy mô hơn.Cơ hội đó là sự cầu thân của vua ChânLạp Chey Chetta II với Chúa Nguyễn Phúc Nguyên vào năm1620. Sử Khờ Me ghi là sau khi lên ngôi vua Chey Chetta II cho xâycung điện nguy nga tại Oudong rồi cử hành lễcưới long trọng với một nàng công chúa xinhđẹp của Việt Nam. Hoàng hậu Sam Đát(tức công chúa Ngọc Vạn) có đem nhiềuđồng hương sang Chân Lạp. Có người làmquan trong triều, có người làm thủ công, cóngười buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Theo hồi kýcủa giáo sĩ Chistofo Borri, một người Ý đã sốnggần Qui Nhơn từ 1618 đến 1622, thì chúaNguyễn đã viện trợ cho vua Chân Lạp cả tàuthuyền lẫn binh lính để chống lại quân Xiêm.Borri cũng tả rõ phái đoàn quan quân Việt Namđưa công chúa Ngọc Vạn về Oudong nhưsau:" Sứ bộ gồm khá đông người, cảquan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trênnhững chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí vàbày trí lộng lẫy. Khi sứ bộ tới kinh Oudong, thìdân chúng Khờ Me, thương nhân Bồ Đào Nha, NhậtBản, Trung Hoa đã tụ hội đông đảođể đón tiếp và hoan nghênh."

Về phương diệnxã hội, việc công chúa Ngọc Vạn theo chồngvề Miên có thể được xem như là mộtsự mở đầu cho những bành trướng lãnhthổ quy mô về phương Nam của dân tộcViệt. Theo chân Ngọc Vạn công chúa lưu dânngười Việt càng ngày càng vào Nam lập nghiệpnhiều hơn. Với chính sách khuyến khích khéo léocủa chính quyền, làn sóng vào Nam càng lúc càng bànhtrướng mạnh mẽ. Về phương diệnchính trị ngoại giao, cuộc hôn nhân của công chúaNgọc Vạn với vua Chey Chetta II là bước mởđầu cho mối liên hệ ngoại giao giữa hai dântộc Việt-Khờ Me, một mở đầu hếtsức quan trọng đối với triều Nguyễn vàngười dân Đàng Trong. Từ đây trở đitrước mắt người Đàng Trong mở ramột vùng đất mênh mông hoang vu để khai khẩnđể biến thành kho lương thực và tài sảnvô tận cho người dân và quốc gia. Cũng từđây triều Nguyễn luôn luôn sẵn sàng đểhoặc giúp đỡ/viện trợ, hoặc can thiệpvào nội tình Chân Lạp với những kết quả vôcùng thuận lợi cho người Việt. Cứ mỗilần quân chúa Nguyễn tiến lên xứ Miên làm mộtcông ơn gì đó đối với Chân Lạp là mỗilần triều đình Chúa Nguyễn đượcđền đáp bằng một số đất đaiđể hợp thức hóa những nơi lưu dânngười Việt đã từng vào khai phá. Nhữngsự kiện lịch sử sau đây đánh dấunhững bước tiến trong quá trình hoàn thành vùngđất Nam Kỳ Lục Tỉnh theo lối "dânđi trước chính quyền đến sau":

Những giai đoạn Namtiến kể từ năm 939

"Hai năm sau khiNgọc Vạn trở thành hoàng hậu Chân Lạp, năm1623, chúa Nguyễn sai phái bộ tới Oudong yêu cầu vuaChey Chetta II cho chúa Nguyễn lập hai đồn thu thuếtại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùngqua lại và nghỉ ngơi của thương nhânViệt Nam đi Chân Lạp. Từ khi có các đồn thuthuế của chúa Nguyễn, vùng này đã trở nên vùngthị tứ trên bến dưới thuyền rất làsầm uất.

"Năm 1658 triềuđình Chân Lạp có nội biến, thái hậu NgọcVạn đã khẩn cầu Chúa Nguyễn là HiềnVương Nguyễn Phúc Tần giúp quân đánh dẹpNặc Ông Chân dành lại ngôi báu cho dòng họ Prea Outey. ChúaHiền, cháu kêu thái hậu Ngọc Vạn bằng côruột, cho quan Khâm Mạng Trấn Biên dinh Phú Yên là TônThất Yến đem 3,000 quân qua giúp bắtđược Nặc Ông Chân giải về Quảng Bình."Người Cao Miên khâm phục oai đức củatriều đình đem nhượng hết cảđất ấy rồi đi lánh chỗ khác, không dám tranhtrở chuyện gì." (Gia Định Thông Chí, trung, tr.7).

Đất ấy đây làvùng Mô Xoài, chính thức thuộc lãnh thổ Việt Namtừ đó.

"Sang năm 1674 NặcÔng Đài lại liên kết với Xiêm La chốngĐại Việt. Chúa Nguyễn là Hiền Vươngcử cai cơ Nguyễn Dương Lâm đem quân đánhchiếm Sài Gòn và tiến lên Nam Vang. Chúa Nguyễn làm chủtình thế cả vùng Đồng Nai.

" Năm 1679 trấnthủ Quảng Đông là Dương Ngạn Địchcùng với phó tổng binh Hoàng Tiến, và tổng binh cácchâu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên cùng phó tổngbinh Trần An Bình đem 3000 quân Trung Hoa (nhà Minh) với 50chiến thuyền trốn quân Thanh chạy sang Việt Namxin làm thần dân của Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn PhúcTần dung nạp họ và cho người hướngdẫn họ đến vùng đất mới trong Namđể định cư sinh sống. Nơi đâyđã có một số người lưu dân Việt khaiphá. Dương Ngạn Địch vào Mỹ Tho, TrầnThượng Xuyên vào Biên Hòa khai khẩn đất đai,thiết lập phố xá bán buôn., phát triển nôngnghiệp và thương nghiệp cùng với ngườilưu dân Việt ở hai nơi này. Cùng lúc đó ở CàMau, một cựu thần khác của nhà Minh là MạcCửu cũng trốn quân Thanh sang đây khai khẩnlập nghiệp.

"Năm 1698 MinhVương Nguyễn Phúc Chu cử thống suấtNguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất ChânLạp. Năm 1699, Nguyễn Hữu Cảnh đem binh lêntận Nam Vang để can thiệp và trở về vàokhoảng tháng Tư năm sau. Trên đường vềông cho quân sĩ theo dòng Tiền Giang, trú đóng tại CáiSao (vùng chợ Thủ của Long Xuyên). Một số quânsĩ bị phát bịnh dịch và chính ông cũng bịnhiễm bịnh và mất hai ngày sau khi quân ông rút khỏivùng này. Một số binh sĩ hoặc bị bịnhhoặc tình nguyện ở lại vùng Cái Sao khai khẩnđất đai sinh sống trước khi vùng nàyđược vua Cao Miên nhường cho Chúa Nguyễn.Họ được gọi là người dân HaiHuyện, trực thuộc phủ Gia Định từ xưa.(Xem Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam của SơnNam, tr. 23).
" Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân hành quân sang Cao Miênđánh quân Xiêm, trên đường về trú quân ởVũng Gù (nay là Tân An), khai khẩn đất hoang, cholập đồn binh và cho đào kinh cho rạch Vũng Gùăn thông sang rạch Mỹ Tho, nối liền sông VàmCỏ Tây qua Tiền Giang.

" Năm 1708 MạcCửu dâng cả vùng mới khai khẩn ở Cà Mau xin hàngphục Chúa Nguyễn. Vùng này gồm các ấp vừalập từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt,Rạch Giá đến Cà Mau. Hà Tiên trở thành mộtthương cảng quan trọng trong vùng. Chúa Nguyễn PhúcChu phong cho Mạc Cửu làm tổng binh, giữ đấtHà Tiên.

"Năm 1732 lưu dânngười Việt bị quân Miên tấn công. ChúaNguyễn là Ninh Vương cử Trương Phúc Vĩnhđem quân vào dẹp yên. Vua Chân Lạp là Nặc Thanhường Me Sa (Mỹ Tho) và Long Hồ cho Chúa Nguyễn.Chúa Nguyễn lấy đất Long Hồ lập thành châuĐịnh Viễn (Vĩnh Long) và đặt dinh LongHồ.

"Năm 1753 NguyễnCư Trinh đem quân sang đánh Chân Lạp. Vua Chân Lạplà Nặc Nguyên thua trận bèn dâng hai phủ Tầm Bôn và LôiLạp (Gò Công và Tân An) để cầu hòa. Bốn năm sauNặc Nguyên mất, Chân Lạp có nội biến. ChúaNguyễn cử Mạc Thiên Tứ đưa em họcủa Nặc Nguyên là Nặc Tôn lên ngôi. Nặc Tôn dângđất Tầm Phong Long (gồm An Giang và một phầnVĩnh Long) để tạ ơn Chúa Nguyễn và nămphủ ở vùng Hà Tiên cho Mạc Thiên Tứ. Năm phủnày được sát nhập vào trấn Hà Tiên.

Đến đây kểnhư vùng Đồng Nai Cửu Long đã trọn vẹnthuộc về Việt Nam, và thuộc về Đàng Trongcủa Chúa Nguyễn. Từ đầu thế kỷ XVIIđến giữa thế kỷ XVIII người ViệtNam mất 150 năm để tiến vào và mở mang vùngđất hoang vu mới mẻ này.

Đồng Nai - Cửu Longthời Phủ Gia Định

Ai là những ngườicó công trong việc hình thành và xây dựng nên kho lúa vànhững tài nguyên to tát này cho người dân Việt?

 

NGƯỜIDÂN ĐỒNG NAI CỬU LONG BUỔI BAN ĐẦU LÀNHỮNG AI? HỌ TỪ ĐÂU ĐẾN?

Trước khingười Việt đến vùng Đồng Nai khaikhẩn thì nơi đây còn là cả một vùng "toànrừng rậm mấy nghìn dặm" theo Phủ BiênTạp Lục của Lê Quý Đôn. Vùng rừng rậm hoangvu này là vùng cư trú của nhiều nhóm dân tộc thiểusố mà người Việt gọi chung là người"Man" theo tiếng Hán Việt hay nôm na là người"Mọi." Đó là các dân tộc thiểu sốngười Mạ, người Xtiêng, người Mnông,Người Cơho, người Churu, v v . . .Trong các nhóm nàyquan trọng hơn hết là người Mạ ở vùngMô Xoài Bà Rịa, người Xtiêng ở vùng Biên Hòa, BìnhDương và người Khờ Me ở Tây Ninh. Dântộc Mạ hay Châu Mạ (Châu theo tiếng Mạ cónghĩa là người) nói tiếng nói thuộc nhóm Môn -Khờ Me. Địa bàn sinh sống của Châu Mạ ngàyxưa là cả vùng Đồng Nai xuống đếnMỹ Tho (theo Bình Nguyên Lộc). 'Tuy phải triềucống Cao Miên, Mạ vẫn là một tiểu quốctự do. Tiểu vương Chê Mạ cai trị khắpvùng Tây Nam trên lưu vực sông La Ngà và, về mạnBắc, trên cao nguyên Di Linh và Lâm Đồng nay." (B.Bourotte. Essai d'histoire des populations montagnardes du Sud - Indochinoisjusqu'à 1945. BSEI, Saigon, 1955, tr. 31). Dân tộc Mạ mà ngườiViệt thường gọi là Mọi Bà Rịa, thạonghề dệt vải có hoa văn đẹp, ở nhà sàndài, có tục cà răng và xâu lỗ tai lớn. Họrất hiền hòa, thường bị người Xtiêng vàngười Miên bắt đem bán làm nô lệ ở cácnơi. Tệ nạn này chấm dứt khi ngườiViệt đến cai trị, nhưng lúc đầu vì còncần nhiều nhân công nên nạn mãi nô (thật ra làngười làm, đầy tớ hơn là nô lệ) còntồn tại một thời gian như đã ghi trongPhủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn:

"Từ các cửabiển như Cần Giờ, Soài Rạp . . . đi vào toànlà những đám rừng hoang vu đầy cỏ rậm,mỗi đám rừng có thể rộng hơn nghìn dặm.. . Nhà Nguyễn cho dân được tự nhiên chiếmđất. . . Lại cho họ thâu nhận nhữngngười Mọi từ trên đầu nguồn xuốngđể mua làm đầy tớ, đứa ở, saikhiến, hầu hạ. . ." (Về chế độmãi nô này xin xem thêm bài của Bình Nguyên Lộc trong DòngViệt, số 17, tr. 210-221). Dân tộc Mạ hiện cókhoảng 20,000 người cư ngụ ở vùng cựcNam Tây Nguyên, phía Nam tỉnh Lâm Đồng, và một sốở Đắc Lắc.

Người Xtiêng cư trútrong vùng các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hòa. Tiếngnói của họ có nhiều nét gần gũi vớitiếng Mnông, Cơho, Mạ, nằm trong nhóm Môn - KhờMe. Họ để tóc dài, búi đằng sau gáy, đeo bôngtai bằng cây hay bằng ngà, xăm mặt, xăm mình,đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Địa chíThủ Dầu Một ấn hành năm 1910 gọi dântộc Xtiêng là Mọi hoang, Mọi Cà Răng, MọiViệt hay Mọi Đồng Nai. Dân tộc Xtiêng hiệnnay có khoảng 40,000 người quần tụ vùng biêngiới Tây Nam, ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương,Đồng Nai.

Người Khờ Me(người Miên) có mặt rất ít ở vùng Tây Ninh.Họ rút đi về phía Tây của Tây Ninh, về vùng biêngiới Miên Việt khi người Việt vào khai phá vùngĐồng Nai. Ở Hậu Giang, vùng Trà Vinh - Sóc Trăng cónhiều người Miên hơn ở Miền Đông NamPhần. Những sóc người Miên này sống cáchbiệt với triều đình Kampuchea. Khi ngườiViệt vào khai khẩn vùng Hậu Giang thì ngườiViệt và người Miên cùng cộng cư, và sau này khitoàn cõi Nam Việt thuộc về Chúa Nguyễn thì nhữngngười Miên này trở thành người dân thiểusố trong cộng đồng người Việt.

Vùng Đồng Nai, vùngcư trú của hai sắc dân Xtiêng và Mạ là vùngđệm giữa hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp.Vào đầu thế kỷ XVII, đất đai vùng nàyquá rộng mà người thì quá ít cho nên dân cư quá thưathớt, và phần lớn đất đai là rừng rú hoangvu đầy muôn thú. Khi người Việt bắtđầu vào khai khẩn đất hoang vùng này thìngười Mạ, người Xtiêng và một ítngười Khờ Me (ở phí Tây Tây Ninh) từ từ rútlui dần về vùng đất cao ở phí Bắc và phíaTây, nhường đất thấp ở phía Nam chongười lưu dân mới đến khai phá.Người Việt thành thạo hơn trong việc khaikhẩn đất đai, trồng lúa nước ởđất thấp (gọi là thảo điền), trong khingười sắc tộc thiểu số thì thành thạotrong việc săn bắn và làm rẫy trên các ruộng caohay giồng (sơn điền). Đất rộng mênh mônghoang vu, và lại là đất thấp không mấy thíchhợp với thổ dân, là hai điều kiện vô cùngthuận lợi cho người lưu dân Việt vào vùngĐồng Nai khai hoang sinh sống mà không gặp mộtsự chống đối nào.

Số ít ngườiViệt đầu tiên vào đây khai phá không biết là ai,không biết họ bắt đầu vào làm công việcđó từ lúc nào, không có một ghi chép nào để lạitên họ gốc gác của những người đó. Theocác sách sử sau này thì chắc chắn họ đã vào vùngĐồng Nai khai khẩn sinh sống rất sớm, ngaytừ lúc Nguyễn Hoàng vừa vào trấn thủ ThuậnHóa. Trịnh Hoài Đức cho là từ đời các"tiên hoàng đế" tức là từ thời các chúaNguyễn Hoàng, Nguyễn Phước Nguyên. Theo HuỳnhVăn Lang thì còn có thể trước đó nữa:"Không phải đợi đến năm 1620 hay 21người Việt mới vào khai hoang lập ấp ởvùng Mỗi-xuy Bà Rịa. Họ đã tự độngđi vòng bờ biển Chiêm Thành vào đó khai hoang lậpấp có thể trước đó ba bốn thậpniên." (HVL, Công Chúa Sứ Giả, tr.243) .

Những ngườiđầu tiên vào đây là những người tựnguyện chứ không phải là những ngườiđược chính quyền đưa đến hay bịlưu đày. Lúc này chính quyền chưa chính thức ápdụng biện pháp di dân vào Nam được. Lưu dânlúc này có thể là những người nghèo khổ,những kẻ bị áp bức, những ngườichạy trốn chiến tranh loạn lạc, nhữngngười không sống được trong xã hộiđương thời, phải mạo hiểm tìmđường sinh sống ở vùng đất mới.Họ có thể đến từ Miền Bắc hayMiền Trung. Nhưng phần đông chắc là ngườiMiền Trung, người Đàng Trong nhiều hơn,nhất là những người vùng Thuận Quảng. Sauđợt tình nguyện đầu tiên, nhất là sausự kiện Ngọc Vạn công chúa, chúa Nguyễn bắtđầu áp dụng chính sách đưa dân quân vào Nammỗi ngày một triệt để hơn. Trong quyển"Việt Nam, hành trình một dân tộc" Philippe Papinnhận xét:

"Cuộc tranh chấpgiữa hai phủ chúa thù nghịch đóng kín ranh giới,cho nên cuộc "Nam tiến" trở thành mộthiện tượng của riêng lãnh địa nhà Nguyễn; nước Việt Nam "mới" còn đi xa hơnnữa, nhưng từ nay là người miền Trungsẽ tiến vào miền Nam bao la của nướcViệt, bắt đầu được khai thác đúngvào lúc nước Việt đứt đoạn. . . .Mongmuốn kiểm soát một không gian ngày càng rộng lớn,các chúa Nguyễn bèn áp dụng một chính sách cư dântriệt để: các viên chức được lệnhtập hợp tất cả những người vô giacư, tất cả những ai không có tên trong sổ bộlàng xã, đưa vào các tỉnh miền Nam mới chiếmđược của Kampuchea. . ."(Nguyễn Khánh Longdịch, đăng trong Dòng Việt, số 17, tr. 76-77). Giáosư Nguyễn Đăng Thục ghi lại lờicủa Jules Sion trong "L'Asie des Moussons" về cuộcbành trướng của dân Việt về phương Namnhư sau:

"Cuộc bànhtrướng của dân Việt là một sựđồng hóa thật sự. Tính chất đó giảithích vì sao người Việt bành trướng chậmnhưng rất chắc chắn. Cao Miên và Lào quốcđánh nhau chỉ đem quân cướp lấy tù binhđem về làm nô lệ, lại có một giai cấp quítộc thống trị cho nên có cướp đượcđất cũng để mất ngay.

Mục đích củangười Việt lại khác. Họ không cần bắtnô lệ, họ làm lấy. Đối với họthắng trận không phải là để có ngườilàm, mà là để có đất cày.

Nhiều khi chiến tranhchỉ là để xác nhận một tình thế đãrồi. Dân Việt bành trướng một cách ôn hòa, sinhcơ lập nghiệp rồi sau binh lính mới tới.Trước khi Việt Nam sáp nhập đất Nam kỳvề mình, người Việt đã lập ở đâynhững tổ chức, những đám di dân đã xâydựng làng xóm hay là tới ở chung với ngườiMên, rồi lần lần nắm quyền chính.

Cuộc bành trướngthực hành bằng cách đưa đến nhữngđám người liên tiếp, đủ các hạng: dâncày không có ruộng, tù tội, kẻ chống đốichế độ hay là quân cướp muốn chuộctội. Cũng có khi chính phủ thu thập nhữngngười đó rồi đưa xuống nhữngmiền mới chiếm lãnh, hay là lập đồnđiền nơi biên thùy để phòng bị lân bangtới đánh. Những người ấy có quan lạicai trị và họ lập thành làng mạc." (DòngViệt, số 17, tr.68-69).

 [Michel Blanchard trong bài"Les données historiques: De la limite territoriale au tracéfrontalier" viết:

"Le delta du Mekong futcolonisé progressivement par les Vietnamiens, qui avancèrent peu à peu dans cesespaces peu peuplés, appliquant déjà la fameuse théorie de la "peau deléopard". Les colons vietnamiens, encouragés par le pouvoir central etnotamment la dynastie des seigneurs Nguyễn établie à Huế à partirde la duxième decennie du 17è siècle, occupaient les espaces vides entre lescomptoirs khmers, souvent tenus par les Chinois d'origine. Une partie desterritoires fut également obtenue par la guerre, comme dédommagement aprèschaque victoire sur le Siam, le grand ennemy et concurrent.

La colonisation encouragée parHuế portait notamment sur le déplacement des "individus ne jouantaucun rôle social", le petit peuple sans emploi. Le but avoué est demettre en valeur le sol, résister à l'ennemi, et assimiler ou refouler lesautochtones. " (Dòng Việt, số 17, tr. 109-110).]

Ngoài những ngườidân Việt từ vùng Thuận Quảng đến còn cóngười Trung Hoa vùng Quảng Đông - Quảng Tây,trốn chạy nhà Thanh, sang đây định cưlập nghiệp. Thành phần cư dân này rất quantrọng vì họ giúp phát triển mạnh vềthương mại và công nghiệp, nhất là thươngmại.

Trong số quân binh nhàNguyễn đi chinh chiến ở Miền Nam hay trên Cao Miêncũng có nhiều người tình nguyện hayđược chính quyền cho ở lại địnhcư, làm ăn với dân chúng. [Dẫn lời bà Langlet,Michel Blanchard ghi:

"Pour la colonisation desterres du Sud, la cour de Hue utilisa notamment, selon Mme Langlet, lesimplantations des "colonies militaires", qui passaientprogressivement au stade civil, composés des soldats-paysans et des condamnés.Des facilités étaient accordés aux colons volontaires, notamment des exemptionsd'impôts. La securité était établie par des postes militaires." (DòngViệt, số 17, tr.114)]

Nói chung thì phần đôngngười lưu dân là người Miền Trung thuộcđủ các thành phần xã hội cùng một sốđáng kể người Trung Hoa. Họ là nhữngngười có công lớn lao trong việc bành trướnglãnh thổ, mở mang bờ cõi Việt Nam vềphương Nam, biến vùng rừng rú hoang vu đầymuôn thú thành vùng đất đai phì nhiêu màu mỡ nuôisống và làm giàu cho cả nước.

 

ĐỜISỐNG CỦA NGƯỜI DÂN ĐỒNG NAI CỬU LONG

a)Đời sống vật chất, xã hội, kinh tế

Phần đôngngười dân ở vùng Đồng Nai Cửu Long sốngở nông thôn, sống với ruộng nương hayvườn tượt. Họ sống giữa những biểnlúa mênh mông, với đủ thứ loại từ "lúama" hay "lúa trời", đến "lúasạ" và "lúa nước". Lúa ma hay lúa trời làloại lúa mọc tự nhiên không do người tatrồng, thường chỉ có ở vùng Đồng ThápMười. Lúa sạ là loại lúa lên cao theo mựcnước, và không phải cấy, loại này chỉ cóở vùng nước nổi ở Châu Đốc, Long Xuyên.Lúa nước là lúa cần có cày cấy ở phầnlớn các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Phần.Cũng có loại ruộng không phải cày gọi làruộng chầm. Trong quyển "Trấn Tây KýLục", Doãn Uẩn mô tả việc làm ruộngchầm ở miền Nam như sau: "Việc làmruộng lúa đơn giản, phát cho lau sậy ngã rạp,cào cỏ hai ba lần rồi cấy, không cần phí sứcnhiều. Như đã cấy rồi thì không cầnphải trông nom tới, cũng khỏi lo thiếunước." (Sơn Nam trích dẫn trong ĐồngBằng Sông Cửu Long, tr.46). Nguyên cả chu kỳ làmruộng là bắt đầu phát cỏ, cày, bừa,trục, gieo mạ, nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ,gặt lúa, đập lúa, giê lúa, phơi lúa và đem vàobồ, hay lẫm (kho) để chứa. Chu kỳđể biến lúa thành gạo để nấu cơmăn thì bao gồm các công việc: xay lúa, quạt lúa,giả gạo, sàn gạo. Tất cả các hoạtđộng trên đây đều do những ngườinhà quê từ hạng trung nông trở xuống hạng làmcông, làm mướn, đảm trách cùng với vợ conhọ. Các công việc này đều phải dùng đếnnhững dụng cụ đặc biệt tạo nênbởi một kỹ thuật còn thô sơ nhưng thựcdụng, có cái đã có ở miền Bắc và miền Trungnhưng cũng có cái chỉ mới có ở miền Nam (vaymượn của người Chăm và Khờ Me). Phátcỏ thì dùng phảng, cày thì dùng lưỡi cày, bừa vàtrục thì dùng máy bừa, máy trục. Đập lúa hayđạp lúa thì có hai cách: đập là do người tađập từng bó lúa vào một cái cộ có dừngbồ chung quanh kéo đi theo người đập, cònđạp lúa là cho trâu giẫm lên lúa đểtrước sân nhà hay ở ngoài ruộng. Xay lúa thì cócối xay. Xay xong rồi phải quạt để táchrời trấu ra khỏi gạo. Có thể dùng chiếuđể quạt trấu hoặc tốt hơn thì dùng máyquạt gió (xa gió). Giã gạo thì dùng cối chày tay haycối chày đạp. Sàn gạo thì dùng cái dừng sàngạo để tách rời cám ra khỏi gạo. Nhữngcông việc trên đây bắt đầu mất dần khicó các nhà máy xay lúa dựng lên ở các nơi . Ở trong Namngười ta chỉ làm ruộng có một mùa, nhưng cóthể có lúa sớm hoặc lúa muộn. Hết mùa lúa thìphải tìm công việc làm khác làm ăn sinh sống. Cácchủ điền thường chứa lúa trong bồ haytrong lẫm, chờ gần đến mùa mới bán ra cho cógiá. Mua lúa thường là các chủ chành người Hoa. Lúađong bằng giạ (40 lít), cho vào bao bố tời, haihay ba giạ một bao. Ở những vùng đồngruộng (gọi là miệt đồng) thường cónhững bờ đê trên đó người ta hay trồngcây trâm bầu. Gần nhà có người trồng cây suađủa, hay cây gòn, ngoài những cây dừa, cau haychuối.

Những người làmvườn thì có thể trồng các loại cây ăn tráihay dừa khô. Vườn thường phải ởgần sông rạch để có đất phù sa. Cây ăntrái thì chỉ có huê lợi theo mùa, như vú sửa, dưahấu, cam quýt thì chỉ có vào mùa xuân, còn bòn bon, lôm chôm,măng cụt, sầu riêng, xoài, mít thì có trái vào mùa hè.Chỉ riêng vườn dừa khô thì có trái quanh năm,nhưng có 6 tháng dừa mùa (nhiều trái), và 6 tháng dừatreo (ít trái), tháng nào cũng có thu huê lợi vàođược. Muốn làm vườn dừa thì phảimướn người lên líp, biến ruộng thànhvườn. Người ta phải đào mươnglấy đất đấp lên líp. Cứ mỗi cáimương thì có một bờ vườn ở liềncạnh nhau. Khi mới lên líp, đất còn phèn,người ta phải bắt đầu trồng mì vàchuối trước, trong khi đó người taươm dừa. Chờ cho đất rõ hết phèn vàdừa bắt đầu lên cây thì người ta mớitrồng dừa và cau. Dừa thì thường phải 5năm mới có trái. Khi mới có trái thì cây dừa cònthấp nhưng vài chục năm sau thì cây dừa lênrất cao. Lâu hơn nữa thì dừa lên thật cao vàtrở thành dừa lão. Muốn leo lên dừa hay caungười nhà quê thường dùng cái “nài”. Ở nhữngnơi có vườn dừa thật lớn và thậtnhiều thì người ta phải “giựt dừa”.Thường trong một vườn dừa có hai baloại dừa cao thấp khác nhau cho nên ngườigiựt dừa phải có nhiều cán hay sào giựt dừavới độ cao khác nhau, gọi là sào thấp – sào cao.Sào giựt dừa là một cây tre dài có gắn lưỡi liềmở đằng đầu. Người giựt dừadùng lưỡi liềm đó để cắt đứtcả quày dừa. Mỗi tháng giựt dừa mộtlần. Khi giựt dừa thì phải có ngườilượm dừa, và gánh dừa. Nếu không gánh thìphải lùa dừa theo các mương vườn hay các conrạch nhỏ để đem dừa về sân nhà.Dừa đây phần lớn hay hầu hết là “dừata” (trái to, không ngọt nước), không phải đểăn mà để bán làm dầu. Người ta chỉtrồng một ít “dừa xiêm” (trái nhỏ, nướcngọt) hay “dừa lửa” hoặc “dừa tân quang” ởchung quanh nhà để ăn thôi. Dừa giựt xuống làdừa khô, bán ra cho những người lái dừa,thường là khách trú. Dừa mua xong là người tamướn người lột dừa. Ngườilột dừa thường dùng cây nầm lưỡisắt, cậm sâu xuống đất, rồi lộttừng trái dừa một trên cây nầm đó. Lột xongliệng vỏ dừa qua một bên và gáo dừa qua mộtbên. Lái mua dừa chỉ chở gáo dừa mà thôi. Có khi nhàvườn tự mình cạy lấy ruột, phơihơi khô rồi chở đi bán. Muốn bán cái dừanhư vậy thì sau khi lột dừa xong, người taphải đập (hay bổ làm đôi) gáo dừa.Nước dừa có thể thắng làm nước màu,không thì bỏ. Gáo dừa đập ra rồi đemphơi nắng. Khi nào cái dừa hơi khô thì ngườita cạy ra, lấy cái dừa phơi tiếp cho khô hơnchút nữa rồi đem bán. Miễng gáo, tức vỏcứng hay còn gọi là muỗng vùa, thì dùng để nhómlửa lấy than đỏ.

Cá tôm càng về xưa càngnhiều. Trên ruộng, trong sông rạch, trong các mươngvườn, các đìa, các ao, ngoài biển, ở đâucũng có cá, tép, tôm, cua, ốc, rùa, cua đinh, lươn,rắn. “Nhiều đìa cá ở xa đường giaothông, cá nổi đầu lên như mù u chín rụng,nhưng chẳng ai khai thác, gặp năm cá sụt giá.”(Sơn Nam, Đồng Bằng Sông Cửu Long, tr. 47). Cá linhvào khoảng tháng 10 ta, hồi thập niên 1930 mỗigiạ chỉ có không đầy ba cắc bạc. Nóivề cá linh, Nguyễn Hiến Lê ghi lại lờingười dân Đồng Tháp Mười nhưsau:”Tại phía trong Hồng Ngự, nó lội đầyrạch, chỉ việc lấy thùng thiếc mà xúc. Hồilúa rẻ, mỗi thùng chỉ bán có một cắc. Ănkhông hết, làm nước mắm và mắm cũng khônghết, có khi, người ta phải đổ đi,hoặc dùng làm phân bón thuốc (thuốc lá).” (NguyễnHiến Lê, Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười,tr.78). Người nhà quê Nam Việt không thiếu đồăn. Họ có nhiều cách bắt tôm cá. Câu, chỉa, nôm,xúc, đăng, đó, đặt nò, đặt gió, chài,lưới, vở chà, tát mươn, tát đìa, bắtcảng, bắt hôi, v v . . . Chặn mương, đắpđìa, bỏ chà ở bờ sông lớn, bỏ ốcở bãi bùn bên cồn là những hình thức nuôi cá, tôm,ốc mà không phải cho ăn. Mấm, nước mấm,khô được sản xuất rất nhiều. Aicũng biết mấm lóc, mấm sặc, mấm trèn,mấm cá linh, mấm thái, mấm còng, mấm tôm. . .,cũng như khô lóc, khô sặc, khô tra, khô cá gộc, khô cáthiều. . . Nhà nào cũng có nuôi gà vịt, một số ítcó nuôi heo. Gà vịt nuôi để ăn nhiều hơn làđể bán. Ở làng quê thỉnh thoảng có chú“chệch ” đi qua thổi còi quảng cáo “thiến heo”.Nhà nào nuôi heo nái để sanh heo con thì phải đirước “heo nọc” ở một nơi chuyên chomướn heo nọc. Heo lớn lên thì bán cho mộtngười làm thịt heo trong làng. Anh này thường làmheo, ra thịt, gánh đi bán trong xóm, trong thôn ấp. Hoặcbán cho các lái heo người Hoa.

Ngoại trừ cácđại điền chủ hay điền chủ, cònhầu hết đều phải làm lụng vất vảmới có miếng ăn. Có thể gọi là cực khổnhưng dù sao thì sự cực khổ ở đây cũngkhông tệ hại như cuộc sống của nhữngngười nghèo khổ ở Miền Trung hay MiềnBắc. Nhất là ở đây không chết đói baogiờ. “Nghèo tới mấy, suốt năm, họ cũngđược ăn cơm với cá hoặc mắm, chứkhông phải ăn khoai, ăn ngô (bắp) như ngoàiBắc”. (Nguyễn Hiến Lê, Bảy Ngày Trong ĐồngTháp Mười, tr.33). “Chủ điền trong này lànhững ông vua nhỏ! Chánh Tham Biện vào nhà họ,thấy những thứ rượu của họ, mà thèm!Họ mua từng thùng để đãi khách quý. Cha kiếmdễ, thì con phải phá: trước hồi kinh tếkhủng hoảng, các công tử Bạc Liêu (miền nàyhồi đó, mới phát, lúa chất cao như núi, tiềnnhiều như ốc). Muốn khoe giàu với gáiđiếm, lấy giấy xăng (trăm) quấnthuốc hút chơi! Quả thật là họ đã liệngtiền qua cửa sổ.” ( Nguyễn Hiến Lê, sđd.,tr. 91). Đó là trường hợp hiếm có củanhững đại điền chủ còn phần đôngngười dân quê thì như Sơn Nam diễn tả sauđây: “Đời sống thường nhật thuởấy chắc hơi giống những nét mà ông Việt Cúcmô tả lại. . .”Hằng ngày sáng ra lót lòng cơm vớimuối mè, hoặc cháo, trưa và chiều hai bữa cơmđạm bạc cá mắm canh rau, quần bô áo vải, nobụng ấm thân thì thôi. Người đượcmạnh khỏe, ít hay ốm đau. Xóm thưa, dân sốít, hai ba năm mới nghe cái đám ma. . . Nhà cửaphần nhiều là nhà nghèo, cất bằng cây đốnnơi rừng, lợp tranh lá. Thật là bực đạiphú mới làm nhà bằng cây điều mộc, nền xâyđá ong, vách ván, lợp ngói âm dương. Hai ba xóm mớithấy bóng một nhà ngói đỏ lói, thiên hạ ghémắt trầm trồ khen. . . .””(Đồng Bằng SôngCửu Long hay Văn Minh Miệt Vườn, tr. 57-58).

Miền Tây Nam Phần làvùng văn minh sông rạch. Đường sông,đường biển là mạch máu của ngườidân. Phương tiện di chuyển, giao thông quan trọng nhấtlà ghe, xuồng. Xuồng ba lá, ghe tam bản, ghe lườn,một số các nhà trong làng đều có sắm. Làng xómmọc lên từng cụm dọc theo bờ sông, con kinh, conrạch. Làng này qua làng kia nối tiếp nhau, không có mộthàng rào ngăn cách nào. Ranh giới giữa hai làng chỉ cóngười địa phương quen thuộc mớiphân biệt được. Đường đi trong làngthường phải qua rất nhiều những câycầu, nhất là ở Miệt Vườn. Cầudừa, cầu cau, cầu tre bắt qua các mươngvườn, cầu đúc, cầu ván, cầu khỉbắt qua các con rạch lớn hơn. Mỗi làngthường có cái chợ nằm bên bờ sông, mỗi ngàyđều có nhóm để người trong làng tới bánbuôn mua sắm. Chợ thường nằm bên con rạch vàmang tên con rạch đó, như chợ Rạch Gầm,chợ Rạch Đình, hoặc lấy tên làng nhưchợ Vĩnh Kim, chợ ông Văn. Ở mỗi quậncó chợ quận như chợ Cái Bè, chợ Gạo,chợ Bình Đại, chợ Sóc Sải, v v . . . Ởnhững nơi ghe thương hồ thường dừnglại nghỉ đêm, ở những chỗ gọi là vàm(như Vàm Kỳ Hôn, Vàm Cống), thường có nhữngchiếc xuồng bán đồ ăn (chè, cháo, bánh ú, bánh ít,bánh tét, bánh dừa, khoai lang, xôi, bắp, v v . . .) của cáccô gái bán vàm.

Nghề thủ công ởMiền Nam gồm một số những nghề truyềnthống đem từ Miền Bắc và Miền Trung vào vàmột số những nghề mới. Nói chung nghềthủ công ở đây mang sắc thái văn hóa đặctrưng, hình thành và phát triển theo điều kiệnđịa lý và môi trường sinh sống, và từthế kỷ 19 trở đi đã bước vào conđường kinh tế sản xuất với nhữngxóm nghề hay làng nghề hay có khi cả khu vực nhưnghề trầu rang và cau khô, nghề làm trống, nghềđóng xe bò, nghề đóng ghe thuyền, nghề làm tàuhủ ky, nghề nắn nồi đất, nghề làmcần xé, v v. . . Trong “Niên Giám Đông Dương” phát hànhnăm 1910, có ghi tình trạng nghề thủ công ở NamViệt như sau” Người bản xứ chế tácmột số ít kim hoàn, các vật dụng đan bằngtre (thúng, mủng. . .), chiếu và các loại túi bàng.Người Hoa hình như độc chiếm các nghềsành sứ và gạch ngói. . . Họ quản lý hầuhết các lò nung vôi, các xưởng nấu rượu vàxưởng cưa.”

Thương mãi pháttriển mạnh, phần lớn là do người Hoanắm. Thương cảng Sài Gòn đã trù phú, phồnthịnh từ thời Gia Long, và càng ngày càng phát triển mạnhthêm. Năm 1822 một phái đoàn Anh do ông Crawfurd dẫnđầu có đến yết kiến Tả Quân Lê VănDuyệt, Tổng Trấn Gia Định . Trong dịp nàyCrawfurd thú nhận: “Đây là lần đầu tiên tôitới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bấtngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nướcXiêm. Về nhiều mặt trông nó còn sầm uất hơn,không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cảhợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơnnhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giácnhư đây là một vương quốc lý tưởng.”Sau đó ông còn ghi lại trong quyển nhật ký của ôngvề những sinh hoạt của thành phố Sài Gòn lúcđó và tiếng tăm của Ngài Tổng trấn nhưsau:

 “Thành phố Saigun không xabiển, có lẽ cách độ 50 dặm; thành phố Pingeh(Bến Nghé) gần đó cách thành phố Saigun độ 3dặm. Dinh Tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm.Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông hà. Nơi đâybuôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đâyđược Tổng trấn cho nhập hộ tịch,qua một hai đời đã trở thành người GiaĐịnh. Đông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Cácdân tộc nơi đây được nhà nướcbảo hộ và họ đều có nghĩa vụ nhưnhau. Tất cả đều được sống trongbầu không khí an lành. Trộm cướp không có.Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấnrất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọnphỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưngông lại rất tàn bạo với bọn cố tình khôngchịu quy phục triều đình. Chưa ở đâukỷ cương phép nước được tôntrọng như ở đây. Một vị quan nhỏ rađường ghẹo gái cũng bị cách chứclưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹTổng trấn biết được cũng bịphạt rất nặng.

Ở đây chúng tôi muađược rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừngtê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp.Từ các nơi, dân đi thuyền theo các kênh rạch lênbán cho chúng tôi. Nhìn dân chúng hân hoan vui vẻ, chúng tôi biếtdân no đủ. Nhiều người rất kính trọngvị Tổng trấn của họ.

Con người này íthọc. Nhưng lạ lùng thay là có được cái nhìncởi mở hơn nhiều những đại thầnvà cả nhà vua học rộng, làu kinh sử củaKhổng giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mangđất Gia Định này trù phú hơn mọi quốcgia khác ở trong vùng biển Đông.”

Dưới thời Phápthuộc, Sài Gòn và nhiều thành phố khác như Cà Mau,Cần Thơ, Mỹ Tho v v . . .ở Nam Kỳđược phát triển thêm với nếp sốngvăn minh mới. Lớp người theo tân học ởthị thành càng ngày càng đông. Tỷ lệ ngườidân thành thị tăng thêm nhiều. Những hạngngười mới trong xã hội thành hình, nhất lànhững công tư chức. Những lớp người nàycó đời sống tân tiến, gần với văn minhTây phương hơn người nhà quê. Tuy có nhữngđổi mới ở thành thị nhưng nhữngđổi mới này không làm thay đổi nếp sốngcủa người dân quê nơi ruộng vườn.

 

b)Đời sống tâm linh: Tư tưởng, TínNgưỡng, Tôn giáo.

Bao phủ bởi rừngrậm hoang vu với nhiều thú dữ, với sơn lamchướng khí, đe dọa bởi những hiểm nguykhông lường trước được, ngườilưu dân trong cuộc mạo hiểm vào phương Nam lúcnào cũng sống trong sự kính nể, lo sợ, nhưngcũng mong mỏi được che chở bởi mộtthế lực siêu linh huyền bí. Họ phải tin,phải thờ cúng, nguyện cầu nhiều bậcthần linh mà họ nghĩ ra được hay tìm rađược trong tâm tư họ. Gần gũi vớihọ nhất là ông bà tổ tiên, những vong linh củanhững người thân trong gia đình. Thờ ông bà,tổ tiên là truyền thống tín ngưỡng/tôn giáo quantrọng của họ. Đi đến đâu họcũng mang theo truyền thống tốt đẹp đó.Phần đông đều tin rằng vong hồn củangười đã khuất vẫn còn sống ở mộtthế giới siêu linh nào đó, và ông bà tổ tiên vẫnlinh hiển theo dõi cuộc sống của con cháu, giúpđỡ hộ trì cho con cháu. Người ta cúng ông bàđể tỏ lòng tôn kính, biết ơn, và cũngđể nguyện cầu cho gia đình, con cháuđược bình yên, làm ăn phát đạt.

Kế đó là các thầnlinh vốn là những người có thể là anh hùng có côngkhai phá, bảo vệ, phát triển nơi vùng đấtngười dân sinh sống. Các vị thần linh đóđược thờ phượng trong các đình,miễu ở trong làng xã, hay trong các lăng miếu chốnđô hội thị thành. Anh hùng hay phúc thần cho cảvùng thì có Lăng Ông thờ Đức Tả Quân Lê VănDuyệt ở Bà Chiểu, Gia Định. Gần nhưở mỗi tỉnh đều có một vị anh hùngđược dân chúng thờ phụng trong tỉnh củahọ: Biên Hòa có Nguyễn Hữu Cảnh, Long An cóNguyễn Huỳnh Đức, Rạch Giá có Nguyễn TrungTrực, An Giang có Thoại Ngọc Hầu, Mỹ Tho cóNguyễn Hữu Huân, Gò Công có Trương Công Định,v v . . . Mỗilàng, mỗi xã thường có đình làng để thờthành hoàng. Nhiều nơi ở mỗi ấp cũng cómột cái miễu thờ thần địa phương.Nghi thức cúng đình rất được ngườidân và làng xã hay hương chức hội tề chú trọngrất nhiều. Làng nào cũng có ban tế tự bêncạnh ban hội tề. Tế tự thì có từ cácvị bồi, bái đến ông kế hiền, trong khi banhội tề thì gồm hương cả, hươngchủ, hương thân, hương giáo, hương sư,hương trưởng, dến hương thôn,hương quản và chánh lục bộ. Khi cúng đình thìhương chức hội tề mỗi ngườiphải cúng ít nhất là một mâm xôi. Cúng xong thườngkhông dùng hết nên làng kiếng lại cho các viên chức hộitề. Ông cả được kiếng mâm xôi vớiphần thủ vĩ, ông chủ cũng với từngấy xôi nhưng được cái nộng heo, v v . . .Cúngđình thì phải có hát bội. Làng mướn một gánhhát bội hát trong ba đêm. Các hương chức nhưcả, chủ thay nhau cầm chầu. Dân làng đi coi thí,không phải tốn tiền gì cả.

Người lưu dânViệt khi vào Nam đã tiếp nhận và Việt hóamột số thần linh của các dân tộc khác nhưsự thờ cúng Bà Chúa Xứ, Bà Mã Châu, Bà Đen, v v . ..Đồng bào Nam Việt hằng năm đi hànhhương, cúng bái ở các miễu Bà Đen, Bà Chúa Xứ,Bà Mã Châu đông không biết bao nhiêu mà nói. Người thìcầu tài, mong mua may bán đắt, người thìmượn lộc, vay tiền của bà để làmăn, người thì cầu phúc, cầu cho gia đạotai qua nạn khỏi, hết cơn đau bệnh,sống bình yên hạnh phúc, cũng có nhiều ngườicầu xin cho tình duyên tốt đẹp, suông sẻ,hạnh phúc. Sự tín ngưỡng của người dânmiền Nam đối với các vị thần linh này,nhất là Bà Chúa Xứ, thật vô cùng mạnh mẻ.Người ta thấy gần như ở làng xã nào cũngcó miễu Bà Chúa Xứ, và trong nhiều khuôn viên đình, chùacũng đều có miễu thờ vị nữ thầnnày bên cạnh miếu Ngũ Hành, miếu ThổĐịa.

Về tôn giáo, ngườidân miền Nam vẫn tin ở Phật Nho Lão, nhưng tamgiáo vào đây cũng biến thể khi đượcnhập vào tín ngưởng tôn giáo đặc biệtcủa địa phương như Cao Đài, BửuSơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo.

 

c)Ngôn ngữ.

Tiếng Việt vùngĐồng Nai Cửu Long có những đặc nétđặc biệt của nó. Tuy cả ba miềnđều sử dụng một thứ ngôn ngữ chungnhư nhau nhưng trên phần lớn ngữ vựng thôngdụng cho cả ba miền còn có những tiếngđịa phương đặc biệt chỉ xài chomột vùng hay một địa phương nào đó thôi.Có những danh từ để gọi những đồdùng như cái “phảng”, cái “nóp”, hay những độngtừ chỉ định những hoạt độngnhư “bắt hôi”, “mót” mà chỉ ở vùng Đồng NaiCửu Long mới có. Có khi cùng một từ ngữnhưng ý nghĩa lại khác nhau tùy theo miền. Cái hòmđối với người miền Nam là cái hàngđể tẩn liệm người chết trong khingười Bắc dùng chữ đó với ý nghĩacủa cái rương đựng đồ dùng củangười miền Nam. Củ sắn của ngườiBắc là củ khoai mì của người Nam. Nhữngtiếng xưng hô trong gia đình họ hàng cũng cóchỗ khác biệt. Tiếng cô, chú, bác giữa ngườiNam và người Bắc rất khác nhau cũng nhưnhững tiếng dì dượng thì chỉ có ngườimiền Nam và một số người miền Trung dùngđến. Khác biệt rõ ràng nhất là cách phát âm tiếngViệt của mỗi vùng, mỗi địa phương.Người miền Bắc phát âm đủ cả nămdấu, nhất là phân biệt được rõ ràng dấuhỏi và dấu ngã, phân biệt được phụ âm tvà c ở cuối chữ (như phát và phác, phút và phúc...),nhưng lại không phân biệt được hai phụâm tr và ch (trân châu và chân trâu chẳng hạn). Phầnđông người miền Nam đều phân biệt cácphụ âm tr và ch nhưng không phân biệt hỏi ngã và cácphụ âm t và c ở cuối chữ. Đối vớingười bình dân miền Nam thì người Huế phát âmcác dấu sắc hỏi ngã đều như dấunặng, và người Quảng Nam/Quảng Ngãi thì phát âmnhững nguyên âm a như ơ và ơ như ô. Chỉ nóiriêng về mặt phát âm, một số vần trongtiếng Việt Miền Nam đã có nhiều biếnđổi so với âm chính của tiếng Đàng Trong, vàĐàng Ngoài. Thí dụ: thì biến thành thời, chu thành ra châu,quí thành ra quới, vũ thành ra võ, v v . . .(Xem bài “MộtSố Từ Biến Âm Trong Tiếng Việt Miền Nam”của Nguyễn Viết Sơn trong Đồng Nai CửuLong 2). Năm 1954 khi có cuộc di cư ồ ạt củangười Bắc vào Nam, thì đa số người Namở miền quê không hiểu được tiếng nóicủa người Bắc, và các bà mẹ quê miền Namthường gọi những người Bắc di cưlà “người ngoại quốc” hay cho họ “không phảilà người Việt”. Người ở thành thị thìhiểu tiếng Bắc nhiều hơn, nhất là ởcác học đường, khi các học sinh, sinh viênphải thường xuyên tiếp xúc với bạn bè vàthầy cô người Bắc.


d) Nghệ thuật ca hát

Trương Vĩnh Ký ghilại câu tục ngữ vào cuối thế kỷ 19 là “Namlý, Bắc thơ, Huế hò” và ông giải thích rằngngười trong Nam hát lý hay hơn, còn ca, phú thơ vịnhthì phải nhường cho người ngoài Bắc, cònvề hò thì người Huế ở nơi kinh kỳ hayhơn cả. Theo nhận định trên đây của câutục ngữ thì lý có thể xem như một thểloại dân ca tiêu biểu của miền Nam. Lý là gì?Huỳnh Tịnh Của định nghĩa: “Lý hát: Làkể và hát, có mau có chậm”, và “Hát lý: Hát bắt nhịp,giọng cao, giọng thấp, lặp đi, lặplại.” Nhiều bài lý nổi tiếng như Lý Con Sáo, LýNgựa Ô đã được phổ nhạc lạigần đây và rất được nhiềungười ưa thích. Thật ra không phải ngườimiền Nam không thích hò. Ngược lại điệu hòmiền Nam rất được người dân ởđây ưa thích và sử dụng thường xuyên trongsinh hoạt hằng ngày khi làm lụng ở ngoàiđồng ruộng hay chèo ghe thuyền trên sông rạch.

Một hình thức diễnxướng ưa chuộng khác ở miền Nam là “nói”. Nóivè, nói thơ, nói truyện, nói tuồng. Đây là nhữnghình thức diễn xướng khá quan trọng trong sinhhoạt nghệ thuật của người dân miềnNam. Vè của trẻ con như “Bắt Kim Thang”, “Tùm Nụm,Tùm Niệu”, “Chặt Cây Dừa”, “Tập Tầm Vông”,rất phổ biến trong đám trẻ nhà quê. Vè thổsản như Vè Trái Cây, Vè Cá, Vè Chim Chóc, Vè Rắn U minh, vèlao động sản xuất như Vè Làm Ruộng, Vè BánQuán, Vè Chăn Vịt, v v . . ., có hàng ngàn bài vè nói lên mọikhía cạnh sinh hoạt của người dân Nam (Xem Vè NamBộ của Huỳnh Ngọc Trảng). Nói thơ LụcVân Tiên là một phong trào đôc đáo ở miền Nam.Phần đông người miền Nam xưa kiađều thuộc nằm lòng thơ Lục Vân Tiên củaNguyễn Đình Chiểu. Nói thơ Vân Tiên là cả mộtnghệ thuật, với âm điệu bổng trầm,tiết tấu khoan nhặt làm cho người nghe bịquyến rũ lôi cuốn theo. Nói tuồng là một hìnhthức giản đơn mở đầu cho hát bộivà cải lương sau này.

Trong “Trấn Tây KỷLược”, Doãn Uẩn viết” Từ chúa HiểuTriết (1641-1678) đến chúa Võ Vương (1739-1765),trong non một trăm năm ấy, mở mang bờ cõi. .. ruộng đất màu mỡ, lúa thóc đầy dẫy,cho đến cây gỗ, cá tôm đều vô khối. Cho nêndân dễ làm ăn. Làng xóm an vui vô sự. Duy tính nhân dân thíchca vũ lắm, không ngày nào không”. Ca vũ nói ở đây làhát bội. Đại Nam Nhất Thống Chí ghi: “. ..Người gần thành thị chơi bời biếngnhác, như con gái ở Mỹ Tho thì hay sửa soạn trangsức đi coi hát xướng. . .tật xấu chưachừa” (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Phủ QVKDTVH xb,S, 1959, tập thượng, tr.103). Hát bội xưa kiarất phổ biến trong dân gian, người dân miềnNam rất mê hát bội:

 “Má ơi đừngđánh con đau,

Đểcon hát bội làm đào má coi.”

Trong giáo trình “Hát, lý, hò Annam”Trương Vĩnh Ký viết: “Hát bội cũng đáng vôviệc lễ nhạc, cho nên nơi đình miếu, chùachiền đều có làm nhà võ ca để khi khấn váimột chầu thì kêu bầu gánh đem ban hát tới đómà hát”. Hát bội cúng thần là một trong những nghithức đã thành lệ với những lễ “xâychầu”, “tôn vương” thường thấy ở trongcác buổi cúng đình. Hát bội suy tàn dần khingười Pháp củng cố nền đô hộ ởNam Kỳ để dần dần nhường chỗ chosân khấu cải lương.

Cải lươngtrước hết là danh từ chỉ chung cho phong tràocải cách xã hội được nhiều thứcgiả cổ xúy ở Nam Kỳ vào đầu thếkỷ XX. Trên báo chí Nam Kỳ trong thời gian này có nhiềubài viết bàn về việc cải lương trênnhiều lãnh vực. Nguyễn Chánh Sắt hô hào cảilương nông nghiệp; Hồ Biểu Chánh kêu gọicải lương văn học và giáo dục; NguyễnTừ Thức bàn về cải lương nếp sốngcủa người phụ nữ. . . . Một số ngườitheo tân học thấy hát bội có nhiều điểmkhông còn thích hợp với xã hội mới. Họ kêugọi cải cách sân khấu hát bội bằng cáchđưa lên sân khấu những tuồng tích mới,với nghệ thuật trình diễn mới và đặcbiệt là dùng cái “mùi” của bài ca vọng cổ trongnhiều đoạn của một vở tuồng. Đólà sân khấu mới, được mệnh danh là “cảilương” thành hình vào đầu thập niên 1920. Gánh hátđầu tiên có danh xưng “Đoàn Hát Cải Lương”là gánh hát Tân Thinh ra đời vào giữa năm 1920 tạiSài Gòn. Mục đích, tôn chỉ của gánh đượcghi trong hai câu đối sau đây để trướccửa rạp:

“Cải cách hát ca theotiến bộ,

Lươngtruyền tuồng tích sách văn minh.”

Bài ca vọng cổ, bài cađược ưa thích nhất trong tuồng hát cảilương, cũng được soạn vào khoảngthời gian này (1920) với cái tên hồi ban đầu là“dạ cổ hoài lang” mà tác giả là Cao Văn Lầu (SáuLầu) ở Bạc Liêu. Bài hát được nhiềungười mê thích và sau này được gọi là bàivọng cổ hoài lang hay bài vọng cổ. Hát cảilương và ca vọng cổ phát triển nhanh nhóng, thaythế dần cho hát bội, trước hết là ởthành thị. Ở thôn quê những gánh hát bội vẫn còntồn tại và còn lưu diễn ở các đình miễuvà các chợ làng, nhưng cũng suy tàn nhanh chóngtrước phong trào đờn ca tài tử lớn mạnhlên ở thôn quê với bài ca vọng cổ. Nhiềusoạn giả cải lương nổi tiếng xuấthiện như Tư Trang, Năm Châu cho đến HàTriều Hoa Phượng. . . sau này. Người ta mêtiếng hát và sự diễn xuất của nhiềunghệ sĩ cải lương nổi tiếng nhưNăm Phỉ, Phùng Há, cô Tư Sạn, cô Tư Bé, Ba Vân,Năm Châu, rồi Út Trà Oân, Thành Được, Thanh Nga,Phượng Liên, v v…. . . Bộ dĩa xưa San Hậu,Quan Âm Thị Kính , Lan và Điệp rất đượcngười dân quê ưa chuộng. Đa sốngười miền Nam đều mê thích cảilương và nhất là bài ca vọng cổ. Giọngkể lể, giọng nói thơ, với những lờilẽ phổ thông nhưng nhiều gợi cảm, vớiđiệu nhạc thê lương, ai oán, bổng trầmnão nuột làm tê tái lòng người. Những đoạnnói lối lâm ly, lời lẽ bình thường, khôngcần nhiều trau chuốt rất dễ đi sâu vào tâmtư người dân miền Nam. Với bài ca vọngcổ, người dân ở đây có thể thưởngthức ngay, có thể mê say theo lời và giọng ca củangười ca sĩ mà không phải đợi chờ suynghĩ, không phải moi tìm trong ký ức xem điển tíchđó nói gì, không bị vướng vấp bởi nhữngkhúc mắc, khó hiểu.

 

e)Văn học

Ở địa hạtvăn chương thì văn chương chữ Hán vàchữ Nôm chỉ xuất hiện ở miền Nam mộtthời gian rất ngắn, và có thể xem như nghèo nàn sovới văn chương chữ Hán và chữ Nôm ởmiền Bắc, là miền ngàn năm văn vật.Nhưng ở địa hạt văn học mới, thìvăn chương chữ Quốc Ngữ đã bắtđầu ở trong Nam từ cuối thế kỷ 19 rồi,với những người mở đầu là PetrusTrương Vĩnh Ký và Paulus Huỳnh Tịnh Của. Báochí theo kiểu báo chí Tây phương cũng xuấthiện ở đây trước trong khoảng thời giannày. Truyện Tàu dịch ra tiếng Việt và in bằngchữ Quốc Ngữ được phổ biếnrộng rãi hồi đầu thế kỷ 20. Tiểuthuyết viết bằng chữ Quốc Ngữ theokiểu Tây phương cũng bắt đầu xuấthiện sớm ở đây. Số người biếtchữ Quốc Ngữ càng lúc càng đông, và báo chí vàtiểu thuyết càng ngày càng có nhiều độc giả.Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh rấtđược độc giả Nam Kỳ yêu chuộng.Cũng như cải lương bên sân khấu, tiểuthuyết bên văn chương cũng mang tính đặcbiệt “đặc sệt” giọng miền Nam, và nhờvậy đã đáp ứng đúng nhu cầu giải trícủa người dân bản xứ.

Như đã thấy trênđây, văn hóa hay nếp sống của người dânvùng Đồng Nai Cửu Long có nhiều khác biệt sovới nếp sống của người Việt ởmiền Bắc, từ kinh tế, kỷ thuật, tínngưỡng/tôn giáo, ngôn ngữ đến nghệ thuật.Điều đó cho thấy có sự biến đổikhá quan trọng trong văn hóa Việt Nam qua thời gian vànhất là qua không gian hay hoàn cảnh/môi trường sinhsống. “Bận chăn” hay vận xà rông, ngủ nóp,lội sình, ăn cơm nguội với mấm sống vàbần chua, bơi xuồng, chèo ghe tam bản hoặc ghe lườn,thờ ông bà và đi cúng vái miếu bà Chúa Xứ, phát cỏbằng phảng, quạt lúa bằng xa gió, đá gà, đácá lia thia, hốt me, hát lý, nói thơ Vân Tiên, đờn ca tàitử. . . . là một số những điều không tìmthấy ở thôn quê miền Bắc nhưng lại rấtthông dụng ở miền Nam. Nguyễn Hiến Lê có kểchuyện đưa một ông bạn từ Hà Nộimới vào Nam lần thứ nhất đi thămĐồng Tháp Mười với ông trong quyển hồiký “Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười”. Sau đây làmột vài nhận xét đặc biệt của ông bạntrích trong tác phẩm nói trên. “Tôi không thể nào đọcbáo trong này được. . . In sai nhiều quá. Hỏi, ngãnhầm be bét, rồi ác, át, an, ang. . . không phân biệt,thật chướng mắt. Cây cau mà in là cây cao, thì cóchết tôi không chứ? . . . Còn về nội dung thì bàivở tầm thường lắm. Ít bài xã thuyết có giátrị. . . Nói chung thì văn học Sài Gòn còn kém Hà Nộixa! Sài Gòn không có gì đẹp. Không có nhiều di tích củnhư Hà Nội; không có thắng cảnh như Hồ Tây,hồ Hoàn Kiếm, cách ăn mặc của phụ nữở đây cũng không được nhã: Aùo dài thìngắn quá, màu thì lòe loẹt quá, và ra đường thìnhiều cô chỉ mặc áo bà ba, không quen mắt như tôi,thấy trơ trẽn lắm; hoa không có thứ quý: hảiđường, trà, đào . . . đều thiếu,cuộc sinh hoạt thì ồn ào: người ta sốngở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà;quán ăn, tiệm nước đầy phố và lúc nàocũng chật những khách. . . .Sài Gòn không phải làmột thành phố Việt Nam. . .Ở ngoàiđường ta chạm trán với khách mọiphương: những ông Lục Cao Miên, áo vàng nghệ, chedù đen; những anh gác-dang Băng Ga Li, hút điếubằng đồng, cần dài và cong, một bọnthủy thủ Anh, da đỏ như tôm luộc, mắtxanh như nước biển, những lính Ma Rốc tócxoăn, mắt và răng trắng dã! Rồi ngườiChàm, người Mã Lai, người Nhật, ngườiPháp, người Huê Kiều ở Hải Nam, QuảngĐông, Triều Châu. . ., bao nhiêu giống người,bấy nhiêu tiếng nói, y phục, phong tục mà cũngsống chung trên mảnh đất này, làm cho Sài Gòn cónhững vẻ đặc biệt, khác hẳn với HàNội, Huế. Ban đêm, vào Chợ Lớn, thì ai mà không cócảm tưởng là đương đi ở HồngKông hoặc Thượng Hải. . .

Không khí tại đây làkhông khí giang hồ, tứ chiếng. . . . Sài Gòn không phảilà một đô thị Việt Nam, nó là một thươngcảng của thế giới. . . .”

Nhận xét trên đâychắc cũng là nhận xét của nhiều ngườiquen sống ở Hà Nội khi mới đặt chân vào SàiGòn. “Culture shock” chắc sẽ làm cho người ta cóliền nhận định đó. Nó là một nhậnđịnh đúng, rất chính xác, đúng và chính xác ởchỗ có sự khác biệt rất nhiều và rất rõrệt giữa văn hóa/xã hội miền Nam và vănhóa/xã hội miền Bắc. Nhưng khác biệt không cónghĩa là hay hơn hay dở hơn vì nhận địnhvề giá trị hơn kém của mỗi miền không cócơ sở vững vàng. Khoa học cho phép ta chấpnhận sự khác biệt của người khác haycủa xã hội/văn hóa khác, nhưng khoa học khôngkhuyên ta đánh giá người khác hay nền văn hóa khácbằng những tiêu chuẩn hay bậc thang (standard hayscale) không cùng một loại. Ở đây chúng ta chấpnhận sự khác biệt để thấy có sựbiến đổi quan trọng trong văn hóa Việttừ Bắc vào Nam nhưng chúng ta không làm công việc phêbình hay lượng giá một nền văn hóa khu vựcnào cả. Từ sự biến đổi đó, mộtsố câu hỏi được đặt ra. Tại saongười Việt không giữ được văn hóatruyền thống của họ khi họ vào Nam, trong khingười Bắc vẫn giữ đượctruyền thống đó? Tại sao có sự biếnđổi về văn hóa như vậy?

 

SỰBIẾN ĐỔI TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ BẮCVÀO NAM

Trước hết sựbiến đổi của văn hóa Việt Nam từBắc vào Nam cho thấy có khuynh hướng xa dầnvăn hóa Trung Hoa để đến gần văn hóa AánĐộ hơn. Từ xưa, từ lúc bị Trung Hoađô hộ cho đến đầu thế kỷ XVII,Việt Nam là một trong những nước ở ĐôngNam Á ít nhận ảnh hưởng văn hóa Aán Độnhất. Văn hóa Việt Nam xưa gần như làbản sao của văn hóa Trung Hoa. Khi văn hóa Đàng Trong,nhất là khu vực Đồng Nai Cửu Long thành hình thìkhu vực văn hóa này một mặt giảm bớtảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và mặt khác thunhận phần nào ảnh hưởng văn hóa ẤnĐộ. Điều này không có nghĩa là văn hóa ẤnĐộ mạnh hơn hay tốt hơn văn hóa TrungHoa, thật ra đây chỉ có nghĩa là văn hóa ẤnĐộ có những nét (traits) khác hơn văn hóa Trung Hoamà thôi. Nó cũng không có nghĩa là văn hóa Đồng NaiCửu Long trực tiếp nhận ảnh hưởngvăn hóa Ấn Độ, đúng ra nó chỉ tiếpnhận một số nét đặc biệt của vănhóa Ấn Độ qua các nước chịu ảnhhưởng văn hóa Ấn như Champa và Kampuchia hay TháiLan. Văn hóa Đồng Nai Cửu Long đến gầnvăn hóa vùng Đông Nam Á hơn văn hóa truyềnthống Việt Nam ở Thăng Long. Cái gì làm cho có sựthay đổi theo chiều hướng như vậy?

Chính trị đóng vai tròkhá quan trọng ở đây. Từ danh xưng “ĐàngTrong” để đối lại với “Đàng Ngoài”đến sự xác định nguồn gốc “Ô Châu”của chúa Nguyễn Phúc Khoát, người ta có thể suy rađược quyết tâm của chính quyền ở phíaNam sông Gianh trong nỗ lực xây dựng mộtnước khác, độc lập đối với nhà Lêvà miền Bắc, đi một hướng đi kháchơn hướng đi của Đàng Ngoài, có một cáchlàm người Việt Nam khác hơn là ngườimiền Bắc. Tana Li trong bài “An Alternative Vietnam? The Nguyenkingdom in the seventeenth and eighteen centuries” (Journal of Southeast AsiaStudies; 3/1/1998) viết:

 “From the seventeenth century,the Red River delta ceased to be the only centre of Vietnamese civilization: anew centre – Phu Xuan (Hue) – challenged Thang Long (Hanoi), and a secondimportant socio-economic zone – Thuan Quang – took shape far from the Red Riverdelta. This was more than a simple southern extension of the former Vietnameseeconomy and society. Rather, a new society developed, with a different culturalbackground and quite different political and economic circumstances. As aresidents of a region over which the hostile Le/Trinh northern government neverformally renounced control, southern Vietnamese described their territory asthe “inner region” (Dang Trong), and characterized the northern Red Riverplains as the “outer region” (Dang Ngoai). The terminology indicates clearlythat they perceived the south as a distinct entity, and the emergence of markeddissimilarities between the two areas amounted to two different ways of beingVietnamese.”

Và:
“When proclaiming himself king in 1744, Nguyen Phuc Khoat declared proudly,“our country rose and developed from O Chau”, using a name with strong localcolour for the place of origin of the royal family and many high officers. OChau emphasized a perception of Dang Trong as a separate country that haddeveloped since the early seventeenth century. This identification actuallyimplied two meanings: a country equal to the north and a local rather than aforeign regime for the local people. The latter sense was related tolegitimacy, and to the self-confidence of the Nguyen.”

 (Từ thế kỷ 17,châu thổ sông Hồng không còn là trung tâm duy nhất củavăn minh Việt Nam: một trung tâm mới – Phú Xuân(Huế) – thách thức Thăng Long (Hà Nội), và mộtvùng xã hội kinh tế quan trọng thứ hai - vùngThuận Quảng - thành hình, ở xa châu thổ Hồng Hà.Đây là cái gì nhiều hơn là chỉ một mởrộng của xã hội, kinh tế Việt Nam cũ.Đây là một xã hội mới được pháttriển với một bối cảnh văn hóa khác vànhững điều kiện chính trị, kinh tế khác. Làcư dân của một vùng mà chính quyền thù nghịchLê/Trịnh không bao giờ muốn từ bỏ kiểmsoát, người Việt miền Nam mô tả lãnh thổcủa họ là Đàng Trong, và cho vùng châu thổ Hồng Hàlà Đàng Ngoài. Cách sử dụng danh từ cho thấy rõhọ nhận thức rằng miền Nam là mộtthực thể riêng biệt, và những khác biệtkhởi lên giữa hai vùng đưa đến hai cáchthức làm người Việt Nam khác nhau.

Và:
Khi tuyên xưng mình là vua năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát đãhãnh diện tuyên bố “nước chúng ta dựng lên và pháttriển từ Ô Châu”, ông đã dùng một danh xưngrất có màu sắc địa phương đểgọi quê hương, gốc gác của gia đình nhà vua vànhiều quan lại cao cấp của triều đình. Danhxưng Ô Châu nhấn mạnh sự nhân thức rằngĐàng Trong là một quốc gia riêng biệt đãđược dựng lên từ đầu thế kỷ17. Sự nhận diện này thật sự có hai ý nghĩa:một quốc gia ngang hàng với miền Bắc và làmột chế độ ở địa phươngcủa người địa phương chớ khôngphải ngoại lai. Ý nghĩa sau này liên hệ tới tínhchính thống và sự tự tin của nhà Nguyễn).

Lý do quan trọng kếđó là môi trường sinh sống. Môi trường sinhsống mới và sự tiếp xúc với những nềnvăn hóa khác là những điều kiện cần yếuđưa đến những biến đổi.Trước hết là môi trường thiên nhiên vật lý:đất đai, khí hậu, ruộng nương,vườn tượt ở đây cùng một loạivới đất đai, khí hậu, ruộng nươngvườn tượt ở Kampuchia, Thái Lan, Mả Lai,thành ra các loại cây trái giống nhau, kỷ thuật làmruộng, làm vườn, trồng cây trái cũng giốngnhau. Cuộc sống vật chất ở nhà quê do đócũng rất giống nhau. Người lưu dân Việtvào môi trường sinh sống này không thể không linhđộng thay đổi để thích ứng với môitrường sinh sống mới. Mặt khác ở trong hoàncảnh sinh sống mới này họ lại gần gũivới những dân tộc khác với nền văn hóa khácmà lâu dần, quen dần, họ không thể không vaymượn một số nét đặc thù nào đó màhọ thấy cần yếu hay thích hợp với họtrong hoàn cảnh sinh sống mới. Thành ra từ khiNguyễn Hoàng vào Thuận Hóa và các chúa Nguyễn nốitiếp, xây dựng nên Đàng Trong thì bắt đầu cómột nhánh văn hóa Việt biến dạng dầndần trở thành một chi nhánh văn hóa (subculture) cóphần khác biệt với văn hóa cổ truyền ởmiền Bắc. Sự cắt đứt liên hệ chínhtrị giữa Đàng Trong (Chúa Nguyễn) và Đàng Ngoài(Chúa Trịnh), sự phân tranh Nam Bắc và chia đôi lãnhthổ đã là cơ hội để tạo nên mộtchi nhánh văn hóa mới xa dần văn hóa cổtruyền. Đến thế kỷ XVII khi Họ Nguyễnchiếm hết cả miền Trung và rồi một sốngười miền Trung vào khai phá miền Nam khẩn hoanglập ấp xây dựng nên miền Nam thì một chi nhánhvăn hóa khác nữa lại thành hình. Chi nhánh văn hóamới này lại càng cách biệt với văn hóa gốcở miền Bắc để đến gần vănhóa Đông Nam Á hơn (tức cũng có nghĩa xa dầnvăn hóa Trung Hoa và đến gần văn hóa Aán Đôhơn).

Miền Nam là cả mộtvùng đất hoang mênh mông chằng chịt sông rạchvới không biết là bao nhiêu cá tôm rau cỏ cây trái.Đất đai lại rất phì nhiêu do phù sa mang lại.Khẩn hoang lập nghiệp tuy có cực nhọc nặngnề nhưng kết quả thu lượm dễ dàng vàkhả quan, đời sống tự nhiên ung dung thoảimái. Điều kiện vật lý đó cũng dễ unđúc nên tính tình rộng rãi, phóng khoáng, hiếu khách,đối đãi tử tế với người từxa mới đến của người miền Nam mànhiều người công nhận. Vùng mới lập này tuycó ít nhiều liên hệ với Chúa Nguyễn nhưngtriều đình ở xa, tổ chức cai trị khôngchặt chẽ tùy thuộc ở triều đình Huế(chế độ tổng trấn), thêm vào đó còn cónhững biến cố chính trị làm thay ngôi đổichủ nhiều lần cho nên tương đối cónhiều tự do địa phương và tự do cho cánhân nữa. Chỗ này ở không được, hoặcbị áp bức thì nhổ sào, chèo ghe đi chỗ khác làmăn, không có gì ràng buộc họ được. Hoàncảnh đặc biệt ở đây giúp người tanuôi dưỡng tinh khí tự do phóng khoáng, không cầnphải ép mình, chế ngự cái tôi để phụngsự cho một lý tưởng sách vở gì cả. Vảlại nỗ lực chính của những thế hệđầu tiên vào đây là khai khẩn đất đai,thiết lập đời sống mới nhiều hơnlà trau dồi kinh sử để lãnh lấy mão áo chứctước của triều đình. Đời sốngdễ dãi, tương đối thừa thãi về vậtchất và tự do về tinh thần, đã không bắtbuộc người dân Việt ở đây phải duy trìhay theo đúng những phong tục tập quán đã đượcmang vào Đàng Trong từ mấy thế kỷtrước. Sự lỏng lẻo của khuông phép từthế hệ này sang thế hệ khác đã tạo nênmột nếp sống mới, một tính tình và nhân cáchmới, rộng rãi và phóng khoáng, với tâm hồn chânthật, chất phác, mở rộng để đónnhận những cái mới lạ hơn là khép kínđể duy trì những cái đã có. Ngoài hoàn cảnhđịa lý nói trên, trong quá trình mở rộng đấtđai về phương Nam chi nhánh văn hóa Đàng Trongđã phải tiếp xúc va chạm với những nềnvăn hóa khác tạo nên điều kiện rất cầncho sự biến đổi về văn hóa. Có tiếp xúcvới văn hóa khác là có cơ hội để nhìnthấy lối sống, cách hoạt động, sự tínngưỡng, lề lối suy tư của một giốngngười khác. Từ đó có thể có những thích nghivới nhau hay vay mượn lẫn nhau ít nhiều từtập quán, kỹ thuật, đến tín ngưỡng vànghệ thuật. Từ thế kỷ XVII ngườiĐàng Trong đã có cơ hội gần gũi vớivăn hóa Chiêm Thành, đã nhìn thấy và hiểu biếtlối sống của người dân Chăm. Sau đó sangthế kỷ XVIII người Việt khi bành trướnglãnh thổ về miền Nam lại có dịp sống bêncạnh người Miên và người Trung Hoa (MinhHương, Triều Châu). Và gần đây hơn từthế kỷ XIX người Việt ở đây lạicó nhiều dịp để biết đến đạoThiên Chúa cùng văn minh Tây Phương do người Phápmang đến. Thí dụ như ở Cà Mau (tỉnh lỵAn Xuyên), vào khoảng thập niên 1960, thống kê cho biếtdân số là 270,643 người trong đó có 3,048người Việt gốc Hoa, và 2,959 người Việtgốc Miên, với 22,000 Tịnh độ cư sĩ,15,000 Công giáo, 3,700 Thiền Lâm, 3,200 Cao Đài, và 400 Tin Lành.Người Việt gốc Miên ở Trà Vinh, Sóc Trăngrất nhiều và người Triều Châu rất đôngở Bạc Liêu đến đổi người dân Namphải nói “Dưới sông cá chốt, trên bờ TriềuChâu”. Có thể nói miền Nam cũng na ná như xứMỹ, nó là một xã hội mới thành hình vớinhiều chủng tộc sống lẫn lộn trong đóvà với một nền văn hóa ít nhiều pha trộnđủ thứ. Nó như cái “melting pot” hay cái “salad bowl”của Việt Nam. Nó mang rất ít tính chất cổtruyền của nền văn hóa gốc.

Thật ra thì sự gặpgỡ, tiếp xúc giữa các nền văn hóa mớichỉ là điều kiện cần mà thôi chớ chưaphải là điều kiện đủ để cho sựvay mượn, học hỏi xảy ra. Điềukiện đủ để đưa đến vaymượn và thích nghi văn hóa là sự có mặt củanhững yếu tố sau đây: (1) tinh thần khai phóngcủa người vay mượn, (2) sự tự dochấp nhận cái mới lạ của người vaymượn, và (3) sự lợi ích của những gìđược vay mượn học hỏi. Văn hóakhông thay đổi nếu các thành phần trong nềnvăn hóa đó không có tinh thần cởi mở, khôngchấp nhận những cái mới lạ của nềnvăn hóa khác. Mặt khác dù các thành phần chấp nhậnnhững cái mới lạ của văn hóa khác đinữa nhưng không có tự do để học hỏi,thực hiện thì văn hóa cũng không có cơ hộithay đổi. Chẳng hạn như nếu luậtlệ của quốc gia quá cứng rắn không cho phépngười dân chấp nhận hay du nhập những cáimới lạ, hoặc giả nếu như phong tụctập quán trong xã hội quá khắt khe khiếnngười ta không thể đi ra ngoài những thói quenđã có thì sự thay đổi về văn hóa tấtnhiên sẽ khó xảy ra. Phải có đủ tự dođể học hỏi và thực hiện điều gìmới lạ trong cuộc sống thì sự biếnđổi về văn hóa mới diển tiếnđược. Sau hết người ta chỉ họchỏi vay mượn khi nào điều người tamuốn học hỏi vay mượn đó đáp ứngđược nhu cầu sinh sống của conngười.

Những điềukiện trên đây cần phải có đủ thì văn hóamới có thể thay đổi được.Người Việt Nam trong quá trình bành trướng lãnh thổvà định cư vào Phương Nam đã có đủnhững điều kiện ghi trên. Họ có tinh thầnrộng rãi khai phóng, không mù quáng tôn sùng cổ nhân, không khépkín chật hẹp hay bế quan tỏa cảng. Họ có ítnhiều tự do chớ không bị chặt chẽ ràngbuộc bởi luật lệ cứng rắn củatriều đình hay tập quán khắt khe của xã hội.Khi đã có đủ những điều kiện cầnvà đủ thì tất nhiên văn hóa phải thayđổi theo lối sống thay đổi của conngười ở vùng đất mới mẻ này.Những khác biệt này là những biến đổitự nhiên của văn hóa Việt Nam qua bao nhiêu thếhệ và qua quá trình bành trướng lãnh thổ, tiếp xúcvới nhiều nền văn hóa khác. Biến đổiđể thích ứng với môi trường và hoàncảnh mới, đó là điều kiện cần yếuđể một nền văn hóa sinh tồn và tiếnbộ. Khi văn hóa biến đổi nó cũng làm cho conngười ít nhiều biến đổi theo. Có sựtương quan khá mật thiết giữa văn hóa và nhâncách của con người. Người ta hay nói đếntính bộc trực, ăn ngay nói thật, tính rộng rãichiều khách, tính anh hùng ngang tàng của người dânmiền Nam, kể cả tính bất cần và không thèm kiênnhẫn của người dân vùng này.

Văn hóa làm nên conngười bởi khi sinh ra trong xã hội văn hóa nào thìcon người sẽ được xã hội hóa(socialized) vào trong xã hội, văn hóa đó. Nhưng mặtkhác cũng chính con người làm nên văn hóa, vì khisống cùng những người khác con người có nhữngsinh hoạt trong đời sống xã hội, và nhữngsinh hoạt đó là văn hóa. Con người không thayđổi về phương diện sinh vật, cái genecủa con người từ lúc có con người homosapiens tới ngày nay vẫn vậy, không có gì thayđổi. Nhưng văn hóa lại biến đổitheo thời gian và không gian vì văn hóa là những sinhhoạt nhằm thỏa mãn những nhu cầu sinh sốngcủa con người. Ở đâu con người cũngcó những nhu cầu ăn uống, che thân, muốnđược sung sướng hạnh phúc, ở đâucũng có tín ngưỡng, giáo dục, học hỏi,truyền thông, ở đâu cũng có nghệ thuật hátca, nhảy múa, làm tình sinh con đẻ cái. Nhưng nhữngsinh hoạt thể hiện những nhu cầu đórất biến đổi tùy theo thời đại, tùytheo môi trường sinh sống. Những người làmchính trị cũng như những nhà làm văn hóa, hay nóirộng ra hơn, tất cả những ai thiết thavới văn hóa nhân loại hay văn hóa nước nhà,cần phải nhìn thấy sự khác biệt giữanhững nền văn hóa hay khu vực văn hóa, cũngnhư những lý do đưa đến sự khácbiệt đó. Nhận biết như vậy không phảiđể cổ võ cho sự chia rẽ hay gây tinh thầnkỳ thị địa phương mà là để cóthể đi đến tinh thần đa nguyên đavăn hóa (cultural pluralism). Tinh thần này đòi hỏingười ta phải nhìn thấy và chấp nhậnsự khác biệt giữa các nền văn hóa hay giữacác khu vực văn hóa với nhau. Từ sự chấpnhận khác biệt đó người ta mới có thểhiểu nhau và cộng tác với nhau trong tinh thần kínhtrọng lẫn nhau để sự cộng tác với nhauđược lâu dài và hữu hiệu. Chấp nhậnkhác biệt của văn hóa khác hay người khác cũngcó nghĩa là phải tôn trọng giá trị của vănhóa hay của người khác, vì cái nào cũng có giá tricủa nó cả chớ không phải chỉ có cái gì củamình mới tốt. Nếu phủ nhận giá trịcủa những gì khác hơn mình thì không khỏi có cái nhìnthiên lệch mà hậu quả tai hại là sẽ bịrơi vào một hình thức nào đó của chủnghĩa “chủng tộc độc tôn” (ethnocentrism) và tinhthần kỳ thị chủng tộc hoặc một hìnhthức kỳ thị nào khác.