Tên cúng cơm: Vài nét về tên và họ của người Việt Nam

Ngày xưa, dưới chế độphong kiến quân chủ ở Tàu và Âu châu, Tên và Họchỉ dành riêng cho giới quí tộc và tăng lữ.Thứ dân không được quyền có Tên và Họ.

Thời kỳ này đã trải dài khá lâu..

Ngày nay, Tên và Họ không còn là một thứđặc quyền xã hội mà đã trở thànhđiều bắt buộc do luật pháp quy định chomọi người dân của một quốc gia. Tên vàHọ do cha mẹ của đứa trẻ mới sanhchọn lựa một cách tự do để đặtcho con mình, không phải bị lệ thuộc bởinhững điều cấm kỵ « nhập gia vấn húy »của thời xa xưa. Riêng Họ thì phải giữđể biết tông tộc gia đình. Ngày nay, ởmột số quốc gia Âu châu như Pháp, Đức,luật pháp đã cho phép đứa trẻ có quyền mangHọ mẹ, Họ cha, Họ ghép giữa Họ Cha -Họ Mẹ hoặc Họ Mẹ – Họ Cha. Luật nàyđã được áp dụng ở Đức từnăm 1976, nhưng phấn lớn người dânĐức tỏ ra không mấy hoan nghênh, và ngày nay, bắtđầu từ tháng giêng 2005 luật này được ápdụng ở Pháp. Cũng như ở Đức, phầnlớn người Pháp không tỏ ra nhiệt tình hưởngứng luật mới này . Nhân viên làm việc về hộtịch bắt đầu gặp khó khăn khi phảisưu tầm giấy tờ để làm sao lục cho dânchúng .

I - TÊN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM:

Thời xưa, vì chịu ảnhhưởng văn hóa Tàu quá lâu mà Việt nam trong việcđặt tên cho con cái cũng có phần giống theo Tàu.

Thường thì đứa bé mới sanhchưa được cha mẹ đặt tên ngay nhưngày nay, mà phải đợi đến ba tháng sau mớiđặt tên. Có lẽ thời gian ba tháng là một giaiđoạn phát triển của đứa bé có nhiều khókhăn về sức khoẻ. Sau ba tháng, phải chăngngười ta thấy đứa bé nuôi được nênmới đặt tên cho đứa bé ?

Tên của người Tàu và ngườiViệt nam trước đây rất phức tạp : tênchánh, tiểu danh hay nhủ danh, tên tự, tên hiệu (hayxước hiệu), tên thụy (hay tên cúng cơm)

Những người thuộc các ngànhnghề chuyên môn trong xã hội lại có tên riêng cho từngngành nghề. Các tu sĩ của các tôn giáo lại có tên dànhriêng cho họ thường được gọi là tênthánh hay pháp danh. Vua chúa khi lên ngôi chọn cho mình một tênmới để dùng chánh thức trong việc cai trị vàquan hệ ngoại giao.

1 - Tênchánh là tên của đứa bémới sanh sau ba tháng được ông, bà, cha mẹđặt cho. Ngày nay tên chánh là tên đặt cho đứabé mới sanh và được ghi vào hộ tịch vớicả ngày giờ và nơi sanh. Tên chánh đượcgiữ suốt đời.

Nhưng việc đặt tên chođứa bé mới sanh không phải là điềuđơn giản và phổ quát như ta hiểu ở ngàynay. Thời xưa ở Tàu, vào thế kỷ 13 và 14, Tênchỉ dành cho giới quí tộc. Thứ dân không có quyềncó Tên mà mỗi người mang một con số thay thếcho tên. Con số này là kết quả cộng lại sốtuổi của cha mẹ. Thí dụ, người cha có 32tuổi, người mẹ 30, thì đứa con  sẽmang tên Lục Nhị.

Tên chánh là tên thiệt thọ. Nhưng từ thờixưa, người có tên chánh vẫn có quyền đỗicho mình một tên khác, hoặc do chính mình quyếtđịnh theo sở thích hoặc vì lý do an ninh bản thân,hoặc do quan chức cấp trên quyết địnhnhư một ân huệ hay một cách bêu xấu, sỉ vã.

2 - Nhủ danh, thường bị hiễu sai lạc là tên chánhcủa một người đàn bà lúc còn con gái trong giađình. Thí dụ, khi nói đến Bà Nguyễn vănNhứt, người ta ghi thêm « nhủ danh Bùi Thị Cư» Thật ra, nhủ danh hay tiểu danh hoàn toàn không cónghĩa là tên riêng của người con gái, mà đó là têncủa người lúc còn nhỏ, chung cho cả hai phái namvà nữ. Nhủ có nghĩa là cái vú, chỉ tên của ngườilúc còn bú vú mẹ. Vì thời xưa, khi đứa bé lớnlên, khi đi học, hoặc khi thành danh, thườngđổi tên bằng một tên mới khác.

Việc đổi tên rất phổbiến đối với người cộng sản.Hồ Chí Minh, Đỗ Mười, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ …đều không phải là tên chánh hay nhủ danh, mà đó lànhững tên do họ tự chọn cho họ. Riêng HồChí Minh có tên chánh hay nhủ danh là Nguyễn Sinh Cung.Đến năm 12 tuổi, có tên Nguyễn Tất Thành.Đến thập niên 20 của thế kỷ qua, ông cuổmtên Nguyễn Ái Quốc là tên chung của các Cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường,Nguyễn Thế Truyền cùng ký dưới các bài quanđiểm của các cụ viết chống chếđộ thực dân Pháp. Nhóm các các cụ tan rã, NguyễnSinh Cung bèn giữ cho mình tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng khivề Việt nam, ông cũng không dám giữ tên này nữa vìmặc cảm thật sự không phải là tên của ông ta. Lúcở Tàu, Hồ Chí minh lấy tên Lý Thụy, đểkỷ niệm người tình là em vợ của "w:st="on">Lâm ĐứcThụ, ngườihợp tác với ông điềm chỉ cho Pháp bắtcụ Phan BộiChâu và chia nhau 150 ngàn đồng, số tiền thưởng công làm việt gian.

Nói về Tên và Họ của ngườiViệt nam thì phải thừa nhận Hồ Chí Minh là conngười có nhiều tên hơn hết. điều nàybộc lộ rõ Hồ Chí Minh là một con người cóbản chất gian xảo. Sau cùng ông chọn họ Hồ,theo người biết chuyện ở Hà nội, vì ôngmuốn trở lại với Họ  của ông nội – không chánhthức -  của ông là cụHồ Sĩ Tảo.

            3 - Têntự là tên do chính mình tựchọn riêng cho mình. Tên tự thường có nghĩagần gủi với nghĩa của  tên chánh, hoặc phản nghĩalại với tên chánh, để như thế khi nóiđến tên tự, người khác có thể đoánđược tên chánh của người đó là gì.

Thí dụ người có tên là Quang muốnlấy tên Tự, sẽ lấy tên Minh vì Quang và Minhđều có nghĩa là « sáng » .

4 - Tên hiệu  là tên gọi hoàn toàn do chính mình chọn cho mình.Thường những người có sự nghiệplớn hoặc các giới văn nghệ sĩ đềucó tên hiệu.

Tên hiệu biểu lộ ý muốn, niềm mơước, mục đích muốn đạt. Nên tênhiệu thường tốt đẹp về ý nghĩa vàâm thanh khi được đọc lên.

Vì tên hìệu biểu lộ ý muốn,mục đích muốn đạt nên thườngngười mang tên hiệu lại ít khi đạtđược điều mình mong ước gởi gắm ở tên hiệu. Nhưmột bà có nhan sắc xấu như ma lem, thì lạichọn tên hiệu cho mình là Mỹ Duyên. Một cơsở Thông tin Văn hóa muốn nói cho mọi ngườibiết chủ trương của mình là viết sách, viết báo chỉ để nói toànnhững điều đúng sự thật nên lấy tênhiệu là Nhà Xuất bản Sự Thật. Nhưng trênthực tế, Nhà xuất bản Sự Thật lại invà phổ biến toàn những sản phẩm nói dối ,phản sự thật.

Đảng Cộng sản Pháp có tờ báo củaĐảng mang tên là Nhơn Đạo (l’Humanité) nhưngcộng sản ở khắp nơi đều có thốngnhứt một chủ trương là theo đườnglối chánh trị gian ác, vô nhơn đạo.

5 - Tên cúng cơm hay tên thụy là tên đặt cho người vừachết để gia đình dùng cúng kỵ ngườiấy. Tên cúng cơm không phải là tên chánh, tức tênthật của một người. Nhưng ở thời xa xưa, khôngphải ai cũng có quyền có tên cúng cơm, bởi tên cúngcơm chỉ dành cho giới quí tộc. Dần dầnvề sau, dưới thời quân chủ, ở Tàu vàViệt nam, tên cúng cơm mới được áp dụngrộng rãi hơn, nhưng chỉ ở trong giới giàu có,có học. chớ người bình dân không mấyngười có tên cúng cơm.

Như vậy, tên cúng cơm  dưới thời phongkiến và quân chủ ở Tàu cho ta thấy việc cúngkỵ, hay thờ cúng ông bà, cha mẹ hãy còn là mộthạn chế dành riêng cho một tầng lớp trong xã hội.Việc thờ cúng ông bà xác định thành phần xãhội, và cho thành phần này có quyền thừahưởng di sản hoặc làm chủ đất đai.

Việt nam chịu ảnh hưởng Tàu suốtthời gian dài. Nhưng Việt nam không hoàn toàn giống Tàubởi còn biết giữ cho mình một bản sắc dântộc. Nhờ đặc tính này mà Việt nam suốtchìều dài lịch sử lập quốc vẫn giữđược bờ cõi nguyên vẹn mãi cho đếnnăm 2000 mới bị Đảng Cộng sản ởHà nội vì lệ thuộc Tàu cùng theo phe xã hội chủnghĩa mà đem đất và biển hiến dâng cho Tàu ,không quan tâm đến chủ quyền và lãnh thổ .

Các loại Tên, người Việt nam cũng bắtchước Tàu về cách đặt tên và cách chọn tên.Nhưng điểm khác nhau là ở Việt nam, mọi người không phânbiệt thành phần xã hội, đều có riêng cho mìnhmột cái Tên.

Người Việt nam dù không có tên cúngcơm  vẫn đượcngười trong gia đình thờ cúng chu đáo. Và việcthờ cúng ông bà, cha mẹ, người trong gia đìnhở Việt nam hoàn toàn không bị giới hạn chomột thành phần nào, mà phổ quát cho tất cảmọi người. Việc thờ cúng gia tiên ởViệt nam hiển nhiên trở thành một thứ« đạo dân tộc » hay « Việtđạo». Có thể nói ở người Việt nam,việc thờ cúng gia tiên mang đậm nét ý nghĩa« dân tộc trường tồn, tổ tiên chánh giáo » !

Người Việt từ xưa, ở hàng thứ dân,chẵng những có quyền có tên họ cho mình, mà còn cóquyền đặt tên cho những người khác trong xómlàng thường gặp gỡ. Đây là một thứquyền tự nhiên.

6 - Thấy mặt đặt tên:Chị Nguyễn Thị Hên, thứ Tư. Người trongxóm gọi chị là chị Tư Hên. Bổng một hômchị bị tai nạn và mang tật ở một chân màtừ hôm đó chị đi khập khểnh. Ngườilối xóm bắt đầu đổi tên chị thànhChị Tư què hay Chị Tư thọt. Anh Lê Thành Châuchơi gà nòi nỗi tiếng nhờ những trận đálớn, gà của anh đều thắng cuộc. Trong nhàcủa anh lúc nào cũng có những chú gà lẫm liệt.Người lối xóm, hoặc những người quenbiết anh bèn gọi anh là Châu gà nòi. Anh Nguyễn VănNăm có tên Năm lùn vì bề cao của anh không quá mộtthước rưởi theo thước ta.

Tên có khi được người lốixóm hoặc quen biết đặt cho theo nghề nghiệp,nơi cư ngụ hoặc theo thói quen đặc biệtcủa người đó.

Chị Bảy bán chè đậuđược mọi người gọi chị làChị Bảy chè đậu để phân biệt vớichị Bảy khác,  vì ở Namkỳ, người ta gọi bằng Thứ, tránh gọibằng tên chánh. Anh Lê Văn Hùng vì có một đặc tánh nàođó nên được mọi người biếtđến , người ta bèn gọi anh là anh Hùng Xóm Cốngvì anh cư ngụ ở Xóm Cống.

Ngoài ra, còn có những tên hàm chứa tìnhthương, sự trìu mến của gia đình dành cho concháu trong nhà như « chó con », « tí »,« cu », « nhít » …. Những tên này có khiđược dùng để gọi những đứatrẻ mãi đến lúc chúng đã trưởng thành.

Ca sĩ Bảo Hân nỗi tiếng khắpthế giới. Tên Bảo Hân thật đẹp nhưngười mang tên. Giới hâm mộ Bảo Hân đềugọi cô Bảo Hân, chị Bảo Hân … nhưng vềvới gia đình, Bảo Hân được cả giađình, từ ông bà, cô dì, cậu mợ .. đềugọi «Tít ơi, Tít » !

Lấy làm « bất mãn » vì khôngđược gọi Hân, cô nàng bèn đem tên Hân của mìnhbiếu cho thằng cháu trai, con của chị. Và cu này mangtên Hân là tên chánh, tức là tên ghi trong khai sanh của cucậu.

Có khi người ta chọn một tênthật xấu để đặt cho một đứatrẻ để đứa trẻ đượcmạnh giỏi, mau lớn, tránh không bị ngườikhuất mặt « quở ». Gia đình sanh con trai khónuôi, bèn dùng tên con gái đặt cho cu cậu đểlừa người khuất mặt rằng đó là con gáiđấy.

Tên và cách đặt tên này vẵn còn lưu hànhđến ngày nay. Chỉ có việc kiêng cử trùng tênvới quan chức hoặc người trong xóm, làng thì ngàynay đã giảm bớt hay không còn giữ nữa. Việc« phạm huý » thì hoàn toàn bị xóa bỏ.

II - HỌ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

Như ta thấy dưới thời phongkiến, quân chủ ở Tàu, Tên gọi riêng từngngười đã là một thứ đặc quyền xãhội, thì Họ lại là một giới hạn cựckỳ nghiêm ngặt. Bỡi chỉ có giới quí tộc,vua chúa mới có Họ để biết ông bà, tiên tổcủa họ là ai để họ thờ phượng.Sự thờ phượng đem lại cho họnhững đặc quyền tạo thành những sựnghiệp lớn cho họ và còn lưu truyền quanhiều đời sau. Thứ dân chỉ cần biếtsống hết đời mình là đủ rồi. Trênkhơng cần biết có ai, mà dưới có ai cũng khôngphải là điều quan trọng.

Như ở thời nay, một thựctế đã xảy ra và trải dài hơn nữa thếkỷ mà cơ hồ không được ai biếtđến.

1 -Nước Mông cổ bị Cộng sản chiếm và caitrị. Nhà cầm quyền Cộng sản Nga, năm 1925,đã tước đoạt quyền mang Họ củangười dân Ngoại Mơng để như thếvĩnh viễn xóa sạch chế độ phong kiến.Người Mông cổ từ đây chỉ có Tên mà không cóHọ. Vi chỉ có Tên mà thôi nên sự trùng Tên rấtphổ biến. Ở Thủ đô Mông cổ có đếnmười ngàn phụ nữ mang chung một cái tên :Altantsetseg (Kim Hoa) hoặc Narantsetseg (Nhựt Hoa).

Mãi đến năm 1990, Liên Xô sụpđổ, người dân Mông Cổ mới có quyềntự do phục hồi lại Họ của mình. Nhưngviệc tìm lại Họ, tức nguồn gốc củamình, không phải là chuyện đơn giản, vì bịxoá bỏ Họ quá lâu, mất hẵn đi mối dây liênhệ về tông tộc. Hơn nữa, người dânthường xuyên bị phân tán, di chuyển khỏi quê quántheo chế độ công an trị của cộng sản,nên tìm lại nguồn gốc càng khó hơn.

Để giúp cho hơn 60% dân chúng MôngCổ hoàn toàn không biết dòng họ của mình là gì cóthể tìm lại Họ, ông SERJEE thiết lập bảnkiểm kê các Họ đã có từ trước cách mạngvô sản 1921 và cho phân phối theo từng vùng.

Theo những thông tin này, có nhiềungười nghĩ là mình phải thuộc dòng họđó, nhưng cái Họ lại quá xấu, đọc lênkhông thể nghe được, nên người dân bènphủ nhận mối liên hệ với tông tộc đó.Nhiều người tự chọn cho mình cái Họthật đẹp, thật kêu. Trong việc tái lậpHọ, người Mông Cổ từ đây thật sựbắt đầu sống đời sống dân chủ.

2 -Ở Âu Châu, mãi đến thế kỷ 13, ngườiPháp nếu không phải thuộc giới quí tộc hoặctăng lữ, chỉ gọi nhau bằng "tên rửatội", chớ không có quyền mang Họ. Giới quý tộchoặc tăng lữ mang Họ gắn liền với tênđất đai thuộc quyền sở hữu củamình. Ngày nay, ta thấy ở Pháp có một số Họ làđịa danh. Như họ Auteuil, họ Soisson, họChirac. (Hãy còn làng Chirac ở miền Tây Nam Pháp). Bởinước Pháp thời xưa theo chế độ phongkiến.

Để phân biệt nhau vì trùng tên quáđông, người dân phải gọi nhau bằng biệtdanh hay hỗn danh. Cách đặt tên này do một sựngẫu nhiên, hoặc để nhắc lại mộtsự việc xa xưa, hay để nói lên mộtđặc tánh, … Biệt danh hay hỗn danh hoàn toàn không cógiá trị như Họ, nhưng được lưu hànhrất tự nhiên và có khi được truyền lạicho con cháu.

Như một người có tầm vóc caovượt hơn nhiều người khác thìđược lối xóm gọi Anh Cao, thay vì chỉgọi tên riêng của anh là Nhựt. Con trai củaCao tên là Thời được mọi ngườigọi Thời con của Cao. Cách gọi tên này trởthành tiện lợi trong giao tiếp hằng ngày nênđược giữ lâu dài. Có một số tên theo cách" thấy mặt đặt tên" như vậy,về sau, đã trở thành Họ của một giađình.

Đến năm 1539, nhà vua định chế hóa tênhọ cho dân Pháp và biệt danh, hỗn danh đượcgiữ và truyền lại cho thế hệ sau nhưHọ chánh thức. Và cũng từ đây, hộ tịchđược thiết lập để chấm dứtvĩnh viễn tình trạng dân chúng chỉ có tên mà không cóHọ.

Nhưng đừng vội hiểu những Họ màchúng ta biết ngày nay đều xuất hiện từtriều đại François 1er . Họ Thợ May (Couturier,như ông Jean Couturier, nhà văn, nhà báo lớn củaPháp) không nhứt thiết là con cháu người thợ mayđã may áo cho nhà vua và triều đình hồi thếkỷ thứ 16. Có một số Họ bắt nguồntừ thời Trung cổ do cách đặt biệt danh,được lưu truyền cho các thế hệ sau.Như vậy, có thể nói ở Pháp, một số Họdành cho thứ dân đã có nguồn gốc từ thờiTrung cổ. Việc sưu tầm lại lịch sửcủa những Họ này không phải là một việc làmdễ dàng, vì hoàn cảnh, nguyên nhơn xuất hiệncủa những Họ đó ngày nay không còn nữa.

Đại để, chúng ta có thể phânloại Họ của người Pháp và tây phươngtheo các thể loại sau đây:

- Họ có nguồn gốc là tên:

Để tránh sự trùng tên, ngườita gọi tên một người kèm theo tên củangười cha, hoặc do lấy biệt danh như trênđây.

Thí dụ: Pierre fils au Paul (Pierre con traicủa Paul) trở thành Pierre Aupaul (Pierre là tên và Aupaultrở thành Họ của Pierre từ đây, do mượntên Paul của cha). Martin fils de Jean trở thành Martin Dejean.

Người Á Rập và Hồi giáo cũngcó cách lập Họ giống như người Pháp trênđây, nhưng Họ ghép với tên các thần thánh. Thídụ: Abd (= nô tỳ) ghép với một thuộc tínhcủa Thượng đế (Allah) trở thành Abdal – Aziz,có nghĩa là Nô tỳ đấng toàn năng. Abd al-  Karim, là nô tỳ đấng Độlượng. Abdullah là nô tỳ của Chúa.

Người Á rập và Hồi giáo cũngcó Họ ghép với tên cha hoặc mẹ như Abu (= chacủa) hay Umm (= mẹ của). Theo đây, Abu Musa Ali, cónghĩa là Ali, cha của Musa.

Một số Họ Á rập và Hồi giáocũng bắt nguồn từ quan hệ ngành nghề,nhơn dạng, tánh tình, tài ba, nơi cư trú, sanh quán …

Thí dụ:

           - Al –Tawil, có nghĩa là người Cao.

           - Al –Rashid, là người thẳng thắn

           - Al –Hallaj, là người kéo sợi.

- Al – Isfahani, là người tỉnh Isfahan.

- Họ do ngành nghề:

Ở Pháp ngày nay, người ta thấy córất nhiều Họ, mà người mang Họ này hãy cònsanh sống bằng cái nghề có liên quan xa gần vớiHọ của mình.

Như De Laporte là Họ của mộtKiến trúc sư (La porte = cái cửa) hiện đang sanhsống và làm việc tại Paris 16.

Tuy nhiên, có những Họ chỉ ngànhnghề nhưng lại không có nguồn gốc theo từnguyên. Như Họ Boulanger, người làm bánh mì, mà ngày xưangười thợ làm bánh mì lại là Fournier (cũng làhọ ngày nay). Họ Cuisinier mà ngày xưa người làmbếp là le queux.

- Họ do nguồn gốc di dân:

Người mới đến địnhcư và lập nghiệp tại một vùng đấtmới, bị dân sở tại phân biệt đốixử bằng cách gọi tên nơi sanh quán. Như ÔngLallemand (Đức), Ông Hollande (Hoà lan). Ở Huê kỳ cótướng Westmoreland = miền tây còn đất nữa.

- Họ do nơi cư ngụ:

Người ở gần rừng có Họlà Bois, Dubois, ở gần cầu, có Họ là Dupont, ởgần sông, có Họ là Rivière, ...

- Họ do nhân dạng và tánh tình:                                                                     

Người có nước da trắng,lấy Họ là Blanc, Le Blanc; có nước da ngâm là Brun, LeBrun; có nước da đen, Họ là Noir, Le Noir; mập mangHọ là Gros, Legros; cao lêu nghêu thì Lelong (Dân biểu BriceLelong). Người trông có vẻ trẻ được chocái Họ là Lejeune (= trẻ); người trông già bị mangHọ là Vieillard (= ông già). Người đượcnhiều người nhìn nhận là người tốt, nênđược gọi là Bon, Lebon, ông Toubon ( thuộcđảng RPR và cựu Thị trưởng Paris 13), cònbị xem là người xấu thì bị gán cho Họ làMauvais (= xấu). Hiện nay, ở nhà thươngLariboisière (Paris X) có một vị Bác sĩ giải phẩubộ phận tiêu hoá có Họ là Mauvais. Nhiều bịnh nhơn gặp phải Bácsĩ Mauvais giải phẩu đều muốn tránh,chỉ vì cái tên Mauvais (=xấu) sợ bị xui xẻo.Nhưng Bác sĩ Mauvais lại là một vị lươngy, bởi ông rất tận tâm đối với bịnhnhơn do ông chửa trị.                                                         

3 - Nhìnqua lịch sử các Họ của Tây phương vàcủa Tàu, chúng ta sẽ nhận thấy Họ củaViệt Nam cũng có phần giống về mặtnguồn gốc. Chỉ có điểm khác biệt nổibật do đặc tính văn hóa Việt Nam là mộtnền văn hóa nhơn bản. Việt Nam là mộtnước quân chủ cho đến năm 1945 khi Hoàngđế Bảo Đại tuyên bố thoái vịđể làm dân một nước độc lập,nhưng VN lại hoàn toàn không phải là một nuớcphong kiến.

Hoàng thân quốc thích hoặc quan chức cócông lớn với triều đình được phongtước và cấp đất để sanh sống,nhưng phần đất này chỉ đượccấp cho sử dụng có thời hạn và không cóquyền lưu truyền cho người thừa kế.Họ của người Việt Nam không gắn liềnvới đất đai của mình làm chủ. Vàđiều thấy rõ ràng là mọi người VNđều có Họ và thứ dân có thể có cùng Họvới nhà vua hoặc quan chức chánh quyền.

Dĩ nhiên, ở Việt Nam việcđổi Họ cũng thường xảy ratrước đây một cách đơn giản . Ngày nay,muốn đổi Tên và Họ phải do án lịnh củaToà án.

Theo thống kê của Hànội năm 1987,dân Việt Nam gồm 54 sắc tộc mà người Kinh làđông hơn hết. 54 sắc tộc này chia nhau lối200 Họ từ vần A đến Ư. Như Họ Âu(Âu Trường Thanh) hoặc Âu Dương (có nghĩa làmột vùng, một địa phương nhỏ, Âu Dương Lân,Âu Dương Thệ),họ Ung, như Ung Bảo Toàn. Những Họ lớnnhư họ Nguyễn, họ Trần, họ Lê...

Họ của người Việt Nam do xuhướng vật tổ như họ Hùng hay họHồng (Hùng Vương, Hồng Bàng) do hoàn cảnhlịch sử lập quốc mà thiên di từ Bắcxuống Nam và pha trộn với các Họ ở địaphương, hoặc do nơi cư ngụ, sanh quán.

- Ảnh hưởng vật tổ:

Ở Việt Nam ngày nay, chúng ta còn thấy họHùng hoặc Hồng, tuy Họ này rất ít. Ở Cao nguyênDaklak và Gia-Rai có họ Hmok Pai của người Êđê, cónghĩa là con thỏ, nên người dân ở đây khôngăn thịt thỏ.

- Do hoàn cảnh thiên cư lập quốchoặc sanh quán:

Những họ Nguyễn, Trần, Lê,Hồ, ... là những Họ đã có từ phươngBắc gắn liền bước Nam tiến dựng nênnước Việt Nam ngày nay. Có những Họ trùngvới Họ ở bên Tàu nhưng lại là Họ củaViệt Nam. Họ Tống nghe qua tưởng đó làHọ của người Tàu, vì ở Đài Loan có TốngMỹ Linh là phu nhơn của Tưởng GiớiThạch. Nhưng họ Tống (Tống Văn, TốngHữu, Tống Phước) là Họ của tướngvà một số dân quân của Nguyễn Hoàng, theo NguyễnHoàng lập nghiệp. Họ là những người dân sanhsống ở vùng núi Tống thuộc huyện TốngSơn, Thanh Hoá, nơi sanh quán của Nguyễn Hoàng. HọChử phải có lịch sử dài cả 4.000 năm. Ta cótruyền thuyết về Chử Đồng Tử và Côngchúa Tiên Dung. Thời Hùng vương thứ ba, có mộtngười nghèo khổ không biết mình thuộc dònghọ nào, bèn lấy nơi ở là bãi sông (=chử) làm Họ. Người đó làChử Vi Vân, ông tổ của dòng họ Chử ngày nay. CònChử Đồng Tử (có nghĩa là đứa trẻở bãi sông), là con của Chử Vi Vân.

Họ Bàng là một Họ xuất hiệntại tỉnh Hà Nam dưới triều đại nhàTrần khi Trần Thủ Độ triệt hạ nhà Lý.Ông viện dẫn lý do ông cố tổ tên Lý, nên bắtbuộc mọi người, ai mang họ Lý phảiđổi ra họ Nguyễn. Có một người khôngthi hành lịnh nhà vua, bèn chỉ cây bàng cổ thụ ở trước nhà mà tuyênbố: "kể từ nay, gia đình ta thuộc họ Bàng", (thi sĩ Bàng Bá Lân,Bàng sĩ Nguyên).                                                                                                                  

Họ có công lớn khai mở miền Nam,mở rộng bờ cõi đất nước là họNguyễn. Về nguồn gốc, họ Nguyễntrước kia xuất hiện ở phương Bắc,về miền Nam nước Tàu, vào khoảng 1766 – 1123trước Tây lịch. Lúc bấy giờ tại vùng KinhChâu (tỉnh Cam Túc ngày nay) có một nước nhỏ tênlà Nguyễn quốc. Đến đời nhà Châu (1136trước Tây lịch), Nguyễn quốc bị ChâuVăn Vương tiêu diệt. Hoàng tộc phải bôntẩu về phương Nam và truyền lịnh chomọi người hãy lấy tên nước làm Họcủa mình, và định cư ở vùng Khai Phong làm nguyênquán.

Theo sử chép lại, thì ở thờiBắc thuộc, năm 353, thứ sử đất GiaoChâu là Nguyễn Phu. Sau đó, năm 357, có mộtngười nữa làm quan, cũng tại Giao Châu, làNguyễn Lãng.

Theo An Nam chí lược của Lê Tắc, tại GiaoChâu có thứ sử Nguyễn Di Chí cùng võ tướngNguyễn Vũ Chi phá được đội chiếnthuyền của vua Lâm Ấp tên Phạm Dương,thường tới khuấy phá vùng này. PhạmDương có thể là khởi tổ của họPhạm ngày nay, thuộc gốc Chiêm Thành.

Con cháu của Nguyễn Phu ở lạiđất Giao Châu và truyền đến đờiNguyễn Bặc là Thái tể dưới triều NhàĐinh (thế kỷ thứ 10). Thái tể NguyễnBặc quê quán ở Ninh Bình và được họNguyễn ngày nay nhận làm khởi tổ.

Họ Nguyễn có nhiều dòng và nhữngdòng này nhìn nhận quê hương khác nhau. Dòng NguyễnHữu cho mình thuộc gốc Quảng Bình, dòng NguyễnPhước lấy Thanh Hóa làm nguyên quán.

Vì họ Nguyễn phát xuất từ bên Tàu,nên ở Tàu cũng có người họ Nguyễn. Vậyhọ Nguyễn Việt Nam và họ Nguyễn Tàu có phảicùng một gốc là dân của tiểu quốc Nguyễnthời Xuân Thu hay không ?

Ngày nay, người Việt Nam họ Nguyễn đãtìm nguồn gốc của mình đến Nguyễn Bặclà thủy tổ sống ở thế kỷ thứ 10.

Chữ Nguyễn có nghĩa là gì? Chúng tôiđã đặt câu hỏi này với nhiều vịhọc giả về chữ nho, nhưng chỉ làm ngạcnhiên các vị ấy mà thôi, chớ chưa nhậnđược câu trả lời làm thỏa mãn. Gầnđây, chúng tôi hỏi một cụ Đồ Nho ởParis, một người thâm nho, thì được cụgiải thích, căn cứ theo chiết tự thì trongchữ Nguyễn có bộ phụ, chỉ cái mô đấthay một vùng đất cao. Như vậy phải chăngchữ Nguyễn có nguồn gốc xa xưa liên hệđến Nguyễn quốc?

4 - Saucùng, chúng ta cũng nên kể ra thêm một cách đặt TênHọ vô cùng lạ lùng, gần như một thứhuyền bí. Đó là cách đặt Tên Họ của dânINUITS sống ở miền Bắc cực, phía cựcBắc của Canada. Sắc dân này vừa thành lậpcộng đồng quốc gia NUNAVUT vào đầu tháng4/1999, với dân số 24.000 người, trên mộtdiện tích đất đai rộng 2.000.000 km 2.

Cách đặt Tên Họ của dân INUITSkhông chỉ mang ý nghĩa như cách đặt Tên Họcủa chúng ta, tức cho người một danh xưngđể giao tiếp trong quan hệ xã hội, mà đó cònlà một nét đặc thù văn hóa của sắc tộcnày, bởi nó đã tồn tại từ ngàn năm qua. Nóiđó là một nét văn hóa của dân tộc INUITS vì nógợi ta suy nghĩ về một vũ trụ quan mới,một chìu kích khác về vũ trụ và con người.Một vị lãnh tụ của quốc gia NUNAVUT chobiết ông có những đứa cháu mà phần đông trongsố này lớn tuổi hơn ông rất nhiều.

Nghe nói như vậy chắc chắn không aimà không ngạc nhiên!

Còn ngạc nhiên hơn, nếu cóngười chứng kiến một bà mẹ khi nóichuyện với đứa con gái lên mười mà"thưa ông nội".

Mỗi người INUITS đều cómột cái tên hoặc một loạt tên. Nhưng nhữngtên gọi này lại không phù hợp theo ý nghĩa về Tênvới Họ như của chúng ta. Tên của ngườiINUITS thể hiện một thứ bản thể củahọ. Thật thế, tên để xác địnhnhững cá nhơn đó là ai, như để làm sốngtiếp một người đã chết. Bởi têncủa người INUITS mang một linh hồn. Mộtđứa trẻ vừa sanh được vài ngày, chamẹ nó lấy tên của một người vừachết trước đó mấy hôm đặt tên cho nó. Cókhi lấy tên của người sắp chếtđặt tên cho đứa trẻ mới sanh, đểnhư vậy người sắp chết biết mìnhsẽ sống tiếp ở đứa bé mới sanh.Đây không phải là một sự tái sanh, mà là mộtsự nối tiếp đời sống để nhưđời sống được kéo dài miên tục.

Do đó mà một đứa bé mới sanhhoặc một đứa trẻ lại có tuổi lớnhơn một người lớn, và có khi đứa bé hayđứa trẻ ấy là ông, bà của cha mẹ hiệntại của đứa trẻ.

Ill - TÌM VỀ TÔNG TỘC LÀ Ý THỨC LỊCH SỬDÂN TỘC, THỂ HIỆN LÒNG HIẾU ĐỂ

Ngày nay việc tìm hiểu dòng họ củamình đang bắt đầu phát triển. Không riêng gìngười Việt, mà cả người Pháp cũngđã bắt đầu quan tâm tìm về cội nguồn.

Ở Pháp xuất hiện nhiều sách nghiêncứu về Họ và Tên. Có những văn phòng tưnhơn chuyên về việc thiết lập Tông chi. Cónhững Hội, Câu lạc bộ trao đổi giúp nhaunhững thông tin liên quan đến những Họ mà ngày naycon cháu bị mất nguồn gốc.

Riêng việc tìm về cội nguồncủa người Việt Nam ngày nay đã trở thànhcần thiết, bởi hoàn cảnh đất nướcchiến tranh kéo dài quá lâu. Nhiều người phải dichuyển đến nơi khác sanh sống, lánh nạn.Dưới chế độ côïng sản ở miềnBắc, nhiều gia đình bị bắt buộc rờibỏ quê quán. Và hiện tại, ở hải ngoại có batriệu người Việt Nam sanh sống như mộtnước Việt Nam thứ hai. Trong ít lâu nữa, nhữngngười Việt Nam của thế hệ thứ 3,thứ 4, sẽ ngỡ ngàng khi phải trả lờivề nguồn gốc, tông tộc của mình.

Tìm về nguồn gốc của mình,về mặt đạo lý đó là một cách tỏ lònghiếu để.

Nguyễn  Văn Trần

-----------

Ghichú:       

- Nguyễn Ngọc Huy: Tên Họ người Việtnam, MéKongtỵ nạn, Hoakỳ, 1996.

- Phạm Côn Sơn: Tộc phả tân biên, Saigon, 1999.

- Pierre Blanche: Dictionnaire et armorial des noms de famille de France, Paris1974 

- Paul Chapuy: Origine des noms patronymiques français, Paris, 1934.

- Albert Dauzart: Les noms de famille de France, Paris, 1977.

- Frédéric Bobin: Le Monde (quên ghi ngày, Paris).

- Annick Cojean: Le Monde, 27/08/98, Paris.

- La Croissance:Tạp chí tháng 8/99, Paris.

- Lê TrungHoa: Họ và Tên người ViệtNam, Nxb Khoa học Xã hôi, 2006

Ghi chú thêm:

Nguyễn là Họ rất phổ thông ở Việt nam. Theoước tính có đến 40% dân chúng mang Họ NGUYỄN.

Sau biến cố mất nước 30/04/75,nhiều gia đình mang Họ NGUYỄN tỵ nạn ởhải ngoại. Ở Úc, Họ NGUYỄN chiếm 7% trongsố những Họ phổ thông nhứt, chỉđứng hàng thứ 2 sau Họ SMITH ở Melbourne (theoniên giám điện thoại), hàng thứ 54 ở Pháp. ỞHuê kỳ, Họ NGUYỄN được xếp thứ229 trong số những Họ phổ biến (theoước tính năm 1990) nên Họ NGUYỄN trở thànhphổ thông bên cạnh Họ DOUGLAS (257) và GILBERT (237).Nhưng theo Social Security Index, Họ NGUYỄN đứngthứ 124.