Trần văn Thạch: Tấm gương ái quốc thất bại của những người Nam kỳ – “Mạng ấy yểu nhưng danh ấy thọ”

Cách nay vài hôm, tôi nhận được thư mời tham dự buổi giới thiệu quyển sách về nhà ái quốc nam kỳ Trần văn Thạch do Bà Phan thị Trọng Tuyến, nhà văn có tiếng và nhà hoạt động rất quen thuộc của Việt nam Hải ngoại gởi cho. Phải nói đó là một niềm vui lớn của tôi. Trước nhứt, vui vì từ lâu lắm, ở Paris mới có một sanh hoạt chữ nghĩa, sách vở, tuy người Việt Nam “tao nhơn mặc khách” ở Paris cũng khá đông. Nhưng điều bất ngờ kế tiếp không khỏi làm cho tôi ái ngại là Bà Phan thị Trọng Tuyến lại yêu cầu tôi có vài lời về nhà ái quốc tiền bối Trần văn Thạch. Tôi đã không dám từ chối thẳng mà chỉ thưa qua là mình đi vắng trong lúc đó. Khi bị yêu cầu viết vài lời để “phạt sự vắng mặt” thì tôi không dám từ chối, không phải, thật lòng mà nói, vì uy tín của Bà Trọng Tuyến – có mà chỉ ít thôi – mà vì lòng ngưỡng mộ sâu xa của của kẻ hậu sanh đối với bậc tiền bối. Một bậc tiền bối vĩ đại!

Thật vậy, lúc trẻ, tôi có cái may mắn được gần gũi lớp người lớn, thầy học như Cụ Võ Thành Cứ, cha chú như các Cụ Nguyễn văn Đính, Trần văn Ân, Đào Hưng Long… Những vị này là những người tranh đấu ái quốc giành độc lập cho Việt nam. Các cụ là bạn thân, bạn học, bạn tranh đấu với Cụ Trần văn Thạch nên có dịp là nhắc lại Cụ Trần văn Thạch như một tấm gương sáng tranh đấu ái quốc. Từ đó, tôi ngưỡng mộ cụ như thần tượng của tôi, một cách trực tiếp vào tiềm thức, không qua sách vở.

Sự xuất hiện quyển sách nói về một nhơn vật của lịch sử Việt nam gần đây mà hậu quả là thực tế của đất nước ngày nay dưới ách thống trị bạo ngược của cộng sản Hà Nội là điều vô cùng quan trọng, đầy ý nghĩa tốt đẹp. Việc làm này là một bổ khuyết chẳng những cần thiết làm sáng tỏ một giai đoạn hệ trọng của lịch sử Việt Nam đầy mâu thuẫn và phức tạp, trong đó những ngưòi ái quốc không có chỗ đứng, mà còn cần cho tủ sách của người Việt Nam vốn đông đảo mà thiếu sách vở. Rất tiếc việc làm có tầm vóc lịch sử mà chỉ do cá nhơn đảm trách bởi sự thôi thúc của tình cha con, tình gia đình.

Về giai đoạn lịch sử hiện đại, người ta chỉ nhắc nhở, đề cao, tâng bốc một cách quá đáng như huyền thoại những nhơn vật cướp được chánh quyền ở Hà Nội. Những người ái quốc thật sự, lương thiện, quên hạnh phúc gia đình, hy sanh cho đất nườc, bị bỏ quên. Có khi còn bị lên án là kẻ thù của cách mạng, của nhơn dân chỉ vì dám chống lại những kẻ chủ tâm cướp chánh quyền mà không nhằm phục vụ quyền lợi của dân tộc và đất nước.

Dưới cái tựa nhẹ nhàng “Trần văn Thạch (1905 – 1945) Cây bút chống bạo quyền áp bức”, sách thành hình và được giới thiệu hôm nay là do Bà Trần Mỹ Châu, ái nữ của Cụ Trần văn Thạch, dày công sưu tầm tài liệu và biên soạn với sự đóng góp của nhà văn Phan thị Trọng Tuyến phiên dịch những bài báo bằng Pháp văn của Cụ Trần văn Thạch.

Sách dày 447 trang, theo bản thảo Bà Phan thị Trọng Tuyến gởi cho, với nhiều hình ảnh của Cụ Trần văn Thạch và bạn tranh đấu cùng thời, những bài báo của cụ viết nguyên văn, cả bút tích của cụ. Riêng về phần tài liệu liên quan tới nhơn vật lịch sử, phải nói là cả một công trình sưu tầm dài hơi. Để phát họa lại con người Trần Văn Thạch, tác giả Mỹ Châu đã phải đi nhiều nơi lục tìm trong văn khố để có được chừng đó tài liệu gốc. Trong gia đình và quan hệ gia đình, không có một vết tích gì về cụ. Một phần vì gia đình ly tán, kẻ ở nơi này, người ở nơi khác. Bản thân Cụ Trần Văn Thạch cũng không có được một chỗ ở yên ổn lâu dài vì phải nay đây, mai đó, vừa cho nhu cầu tranh đấu, vừa lo trốn tránh thực dân pháp ruồng bố.

Hoàn cảnh chung của những người tranh đấu ái quốc lúc đó, không ai có thể sống yên ấm dưới mái gia đình. Có người còn không nuôi được con cái, phải gởi bạn nuôi dưỡng. Tạ Thu Thâu gởi con cho một gia đình bạn tranh đấu người Pháp thợ thuyền nuôi dùm người con trai duy nhứt. Vì cha mẹ nuôi là thợ thuyền nên người con của Ông Bà cũng trở thành thợ may. Đến lúc thuận tiện, Bà Tạ Thu Thâu tới gia đình bạn xin lại con nhưng vợ chồng người bạn nói “Chúng tôi nuôi nó từ đó tới nay, chúng tôi thương nó như con ruột. Nay, chị bắt nó đi, chúng tôi mất con”. Người mẹ đành ôm hun con, gạt nước mắt ra về và sống xa con. […] Cụ Trần Văn Ân, vợ chết, không lo ma chay cho vợ được vì phải trốn Tây. […] Cụ Phan văn Hùm, trước viễn ảnh, không biết sẽ còn gặp lại vợ con nữa hay không, đã phải âm thầm đau đớn và bày tỏ sự can đảm, để cho nước mắt chảy ngược vào tim:

“…. Gia đình cũng muốn chìu đầm ấm,
Non nước trông ra luống não nề.
Đại nghĩa xưa nay trên tiểu tiết,
Gắng nuôi đôi trẻ trọn lời thề” (Phan văn Hùm)

Tôi nhắc lại những chuyện này để bày tỏ lòng tưởng nhớ và kính trọng lớp tìền bối đã vì đại nghĩa mà xa gia đình, hy sanh cả mạng sống và đồng thời cũng bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với tác giả Trần Mỹ Châu, đến tuổi thất thập, hoàn thành được một công trình giới thiệu khá đầy đủ, trung thực, đượm đầy tình thương người cha đã mất không để lại một dấu vết từ hơn nửa thế kỷ qua. Một nhà tâm lý học người Nhựt nói “Con có nhu cầu tình cảm từ trong tâm thức đi tìm cha khi thiếu vắng cha”. Không biết điều này có liên hệ xa gần với tác giả khi biên soạn quyển sách về Trần văn Thạch trong đó có Chương “Tìm cha, gặp mẹ”?

Tác giả thuật lại lời má kể cảnh đi thăm ba ở khám lớn Sài gòn, trước khi bị đày ra Côn Đảo: «Má mua một chai dầu Nhị Thiên đường và vài cái bánh đem cho ba vì má không có tiền …” Đọc tới đây, ai mà không rơi nước mắt? Cảnh vợ thăm chồng ở tù vì tội chánh trị của hơn bày mươi năm trước không khác hoàn cảnh của hằng vạn người vợ cũng đi thăm nuôi chồng sau ngày 30/04/1975 của Miền nam. Lý do Cụ Trần văn Thạch ở tù thực dân Pháp cũng không khác những thanh niên Việt Nam yêu nước tranh đấu cho nhơn quyền và chống giặc tàu xâm lăng ngày nay “Tập họp lực lượng bất hợp pháp, vận động lật đổ chánh quyền”. Có khác là tù chánh trị ngày trước, dưới chế độ thực dân Pháp, có bản án và có thời hạn rõ ràng. Nên Phạm Văn Đồng, cố Thủ tướng ở Hà nội, một hôm nói chuyện về cán bộ cộng sản bị tù thực dân “Ngày xưa, nếu thực dân pháp có chế độ tù tội như ta thì ngày nay cấp lãnh đạo đảng đã không còn người nào.”!

Trần văn Thạch, Ái quốc và Đệ Tứ

Cái đặc điểm của những người tranh đấu ái quốc Nam kỳ là những người thuộc thành phần tư sản hoặc tiểu tư sản và trí thức Tây học. Họ đúng là những người nối tiếp thế hệ nho sĩ trước kia. Họ học Tây, giỏi chữ nghĩa không thua Tây nhưng không chịu làm việc cho Tây để có đời sống sung sướng. Dùng cái học ở Tây để chống lại Tây, khôi phục nền độc lập cho Việt nam. Phần lớn những người cộng sản như Hồ Chí Minh, nếu được địa vị như Tạ Thu Thâu, Trần văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, …chắc chắn đã không phải vất vả “xuống tàu tìm đường cứu nước […]

Trần văn Thạch và các bạn của cụ đều là những người học giỏi, đổ đạt cao. Vào thời đó, họ đi làm việc cho Tây không những rất dễ dàng, mà còn được nhiều ưu đãi nữa. Không thiếu những người chỉ có bằng Diplôme (DEPSI) hoặc cao hơn, là bằng Brevet Supérieur, thi vào ngạch hành chánh, lên tới Đốc phủ sứ, giàu sang một bực. Trần văn Thạch có văn bằng Cử nhơn Văn khoa ở Pháp về, đi dạy học trường tư, kiếm sống qua ngày, để có hoàn cảnh thuận tiện mà chống Tây. Cụ dạy học ở các trường tư như Lê Bá Cang, Huỳnh Khương Ninh, là những nơi cũng của những “bạn đồng chí hướng”, mở trường với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí” đào tạo một lớp thanh niên biết ý thức hoàn cảnh nước nhà bị thực dân cai trị mà sớm un đúc lòng yêu nước và tinh thần quật khởi.

Tôi nói những người “bạn đồng chí hướng” là có ý muốn nhắc lại lời của tác giả khi đề cập tới những người bạn tranh đấu, cùng Đệ Tứ với Cụ Trần văn Thạch, không dùng từ ngữ phù hợp là “đồng chí” Cụ Trần văn Ân thường nói với bạn tiếng “đồng chí” đẹp quá, nhưng bị cộng sản dùng rồi và tiếng “đồng chí” vì đó đã bị mất đi ý nghĩa đẹp của nó. Nay mình dùng tiếng “đấu sĩ” hay bạn “đồng đức” để thay thế. Và cụ tự giới thiệu cụ là “Đấu sĩ” Trần văn Ân.

Cụ Trần văn Thạch và các bạn của cụ đều là những người yêu nước trước tiên. Tư tưởng ái quốc của cụ được phơi bày rõ qua lời viết của cụ “Chương trình hành động tốt nhứt mà chúng ta có thể chấp nhận được là chương trình bao gồm giải pháp cho vấn đề xã hội, vừa là giải pháp cho quốc gia dân tộc …”. Cụ gắn liền xã hội với quốc gia vì “giải pháp cho vấn đề xã hội” là xây dựng một xã hội hài hòa, bình đẳng để cho quốc gia phát triển và vững mạnh. Chánh sách sociale mà không phải socialiste.

Các cụ chống thực dân chỉ vì lòng yêu nước thôi thúc phải giành độc lập cho đất nước. Đó là lý tưởng trước sau như một. Các cụ trở thành Đệ Tứ khi nhận thấy phải cần dựa vào một thế lực mới đủ sức chống thực dân. Với các cụ độc lập, thoát khỏi ách thực dân là trên hết. Trong lúc đó, phe Đệ Tam của Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Nguyễn văn Tạo, … cũng chống thực dân nhưng chống cho cộng sản nga-tàu nắm quyền ở Việt nam và tóm thâu Đông Nam Á.

Nhưng đặc điểm có một không hai trong lịch sử là chỉ có ở xứ Nam kỳ: Đệ Tam và Đệ Tứ nhiều lần hợp tác nhau. Đệ Tứ hợp tác thật lòng vì muốn có sức mạnh chống thực dân. Trái lại, Đệ Tam hợp tác chỉ để giải quyết khó khăn giai đọan. […]

Riêng với Đệ Tứ, Trần văn Giàu thẳng tay tìm sát hại (vì ganh tỵ?). Những người Đệ Tứ tài giỏi hơn, đạo hạnh sáng ngời, uy tín mạnh trong quần chúng. Còn Hồ Chí Minh căm thù Đệ Tứ, ra lịnh tìm tiêu diệt Đệ Tứ ở Việt nam là làm theo lịnh Staline “với bọn trostkistes, không thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát-xít. Phải tiêu diệt chúng về chánh trị”. Phải chăng Hồ Chí Minh đã học thuộc lòng lời dạy của Lê-nin “Phải biết làm cách mạng xâm lược và bạo lực để làm cho xã hội xáo trộn tận gốc rễ. Tức chánh sách khủng bố, thanh trừng và thanh lọc trên qui mô lớn nhằm nhiều thành phần dân chúng…” (Nicolas Werth, Lénine, những văn kiện không xuất hiện trong Lê-nin Toàn tập).

Trần văn Thạch, Chí sĩ Nam kỳ

Ngay từ lúc học Trung học ở Trường bổn quốc Chasseloup-Laubat Sài gòn, Cụ Trần văn Thạch đã lập chí phải học cho thật giỏi để làm chánh trị tranh đấu trực tiếp với người pháp, đem lại độc lập cho đất nước. Cụ luyện thêm tiếng pháp hằng ngày với ông thầy dạy pháp văn Paul Baudet. Có giỏi, khi đấu lý lẽ với người Pháp mới được họ nễ trọng.

Về mặt nhận xét, đánh giá tầm vóc Trần văn Thạch trong lịch sử Việt nam, có thể nêu lên 3 điểm để có kết luận: lập Đức, lập Công và lập Ngôn. Trần văn Thạch là người ở tuổi 40 đã hội đủ 3 điều kiện này.

Lập Đức, bản tánh can trường, ngay thẳng, dám nói, dám làm, cụ hy sanh hạnh phúc gia đình, tánh mạng, coi thường vinh quang lúc đất nước bị thực dân độ hộ, quyết chí tranh đấu giành độc lập cho đất nước.

Lập Công, luôn luôn sát cánh với lớp dân nghèo như giới thợ thuyền, phu kéo xe, phu xe ngựa để bênh vực quyền lợi chánh đáng cho họ. Cụ còn ứng cử Hội đồng Thành phố và Hội đồng Quản hạt để có tiếng nói chánh thức chống những bất công xã hội như cụ cùng với Cụ Phan văn Hùm chống lại mức lương quá chênh lệch giữa người Pháp và người dân bản xứ. Lương của người Pháp quá lớn và chiếm mất một phần lớn ngân sách quốc gia. Ngoài ra, việc các ông tham gia cơ quan Đại diện dân còn nhằm huấn luyện người dân hìểu biết về quyền lợi chánh đáng của mình, chớ hoàn toàn không vì danh lợi.

Lập Ngôn, cụ gởi gắm lại qua nhiều buổi diển thuyết, nhiều bài báo, những tư tưởng về ý chí tranh đấu của người dân mất nước, quyền lợi của người dân, quyền lao động, cả sách giáo khoa.

Sự nghiệp của cụ, chi có chừng đó ở tuổi đời 40, tưởng cũng đã đủ để đưa cụ bước vào lịch sử dân tộc bằng cửa chánh như một Chí sĩ Nam kỳ.

Khác hẳn với một người chưa có mấy ngày thật sự tranh đấu cho đất nước, gần gủi dân chúng, bỗng một hôm tự suy tôn nguyên thủ quốc gia, thi hành chánh sách độc tài, bàn tay bết máu đồng bào, mà lại được gọi là chí sĩ ?

Cụ Vương Hồng Sển, bạn học cùng trường với Cụ Trần văn Thạch, trong Hồi ký “Hơn nửa đời hư”, nhắc lại bạn xưa với lòng đầy cảm mến “Mạng ấy yểu, danh ấy thọ”.

Trong cuộc chiến Việt nam từ 1945, phe những người Việt nam yêu nước, không riêng gì Chí sĩ Trần văn Thạch, đã thất bại vì năm 1954, cộng sản làm chủ được phân nửa nước, năm 1975, làm chủ trọn cả nước. Người cộng sản thắng, ngoài yếu tố quốc tế, còn yêu tố đặt sệt cộng sản mà phía quốc gia yêu nước không có, đó là họ dám thẳng tay sát hại mọi người bị xem là kẻ thù của cách mạng để đạt mục tiêu. Nên nhớ với cộng sản, chỉ có mục tiêu là trên hết. Đạt cho được mục tiêu, bằng mọi phương tiện, đó chính là đạo đức cách mạng cộng sản. Sức mạnh của cộng sản xưa nay vẫn là bạo lực và dối trá. Dối trá để che dấu bạo lực và bạo lực để làm cho dối trá được tin là sự thật.

Lời sau cùng, tôi thật lòng cảm ơn tác giả, Bà Trần Mỹ Châu, đã gởi cho một tác phẩm, khi đọc, tôi có cảm tưởng như mình bỗng trở thành người của thời cuộc Việt Nam những năm trước và sau Đệ nhị Thế chiến bởi bị cuốn theo, không kịp ý thức, những biến cố lịch lịch sử do tác giả dẫn lại quá rõ ràng bằng những tài liệu đầu tay giá trị.

Và tôi cũng mong được tác giả và quí vị có mặt hôm nay vui lòng lượng thứ cho sự vắng mặt không đúng lúc của tôi.

Trân trọng,