Đồng bằng sông Cửu Long

Thái Công Tụng

1. Dẫn nhập

Đồng bằng sôngCửu Long có diện tích là 40 547 km2 và dân số toàn vùng trên 17 triệu ngườị. Riêngcây lúa đã chiếm 47% diện tích và 56% sản lượng lúa cả nước. Xuất cảng gạo củaViet Nam thì đồng bằng này đà chiếm tới 90% sản lượng, chưa kể thủy sản xuất cảngchiếm đến 60%. Tuy nhiên đứng về phương diện thu nhập vẫn còn nghèo hơncả nước: thu nhập bình quân đầu người với mức 40,2 triệu đồng (cả nước là 47,9triệu đồng/người/năm).

Sau đây làdanh sách 12 tỉnh, diện tích (km2) và dân số (2012) tại đồng bằng sông Cửu Long.

Long An 4492 (km2) 1. 458 (000 người)
Tiền Giang 2508 1. 692
Bến Tre 2357 1. 258
Trà Vinh 2341 1. 015
Vĩnh Long 1504 1. 033
Đồng Tháp 3377 1. 676
An Giang 3536 2. 153
Kiên Giang 6348 1. 726
Cần Thơ 1409 1. 214
Hậu Giang 1602 769
Soc Trăng 3311 1. 302
Bac Liêu 2468 673
Cà Mau 5295 1. 217

2. Sông ngòi

2.1. Sông Vàm Cỏ có 2nhánh: Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây

- Vàm Cỏ Đông, còn gọi là sông Bến Lức, dài 300 km, phát nguyên từ bênCampuchia, chảy xuống tỉnh Tây Ninh (Trảng Bàng, Gò Dàu), Long An ( khu vực nhàmáy đường Hiệp Hoà), rồi đổ ra cửa Soài Rạp

- Vàm Cỏ Tây cũng phát nguyên từ bên Campuchia chảy qua Mộc Hoá đến ThủThừa rồi chảy qua cầu Tân An, gần châu thành Tân An. Cả hai sông này gặp nhau ởgần thị trấn Vàm Cỏ thuộc tỉnh Long An, rồi nhập vào sông Nhà Bè, đổ ra cửaSoài Rạp (cửa Vàm láng)

2.2. Sông Tiền và sông Hậu

Cũng cần biết là tại Phnom Penh (Campuchia), sông Mê Kông bị tách làm hainhánh, sang Việt Nam là sông Tiền và sông Hậu, cả hai đều chảy ra biển vớichiều dài mỗi sông chừng 250km.

221. Sông Tiền khi tớitỉnh Vĩnh Long thì tách làm nhiều nhánh sông khác:

- sông Mỹ Tho chảy ngang qua MỹTho và đổ ra biển ở Cửa Tiểu và Cửa Đại.Trên đoạn sông này, có một địadanh tên là Rạch Gầm-Xoài Mút, ở đó xưa kia, năm 1785, quân Tây Sơn đã đánh bạiquân Xiêm La qua giúp chúa Nguyễn Ánh (tức vua Gia Long sau này)

- sông Ba Lai, chảy quaphía bắc tỉnh Bến Tre và ra biển bởi cửaBa Lai. Hiện nay, cửa sông Ba Lai được thay thế bằng hệ thống cống đập ngănmặn chặn vĩnh viễn dòng chảy, chỉ xả lũ ra cửa biển khi cần.

- sông Hàm Luông, chảy qua phíaNam tỉnh Bến Tre và ra biển bằng cửa HàmLuông

- sông Cổ Chiên chảy qua địaphận của tỉnh Bến Tre và đổ ra biển bằng cửaCổ Chiên, cửa Cung Hầu.

222. Sông Hậu: chảyqua các thị trấn như Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Ôn (Trà Vinh) và đổ rabiển qua 3 cửa sông là cửa Định An(về phía tỉnh Trà Vinh), Bassac (Ba thắc)và cửa Trần Đề (phía tỉnh Soc Trăng).Thực ra thì nay không còn cửa Bassac nữa vì bị bồi lấp. Sông Hậu rộng nhất làgiữa huyện Cầu Kè (Trà Vinh) và huyện Long Phú (Sóc Trăng) khoảng gần 4 km

Nối liền sông Tiền với sông Hậu là sôngMang Thít là một con sông nhỏ, dài khoảng 47km, chảy trên địa phận tỉnhVĩnh Long và sông Vàm Nao tức ranhgiới giữa hai huyện Chợ Mới và Phú Tân của An Giang

2.3. Trong đồng bằngcũng còn có nhiều kinh đào khác quantrọng đóng góp vào sự lưu thông hàng hoá cũng như trị thủy. Vài ví dụ:

*kinh Vĩnh Tế (nối Hà Tiên với Châu Đốc)

*kinh Rạch Giá-Long Xuyên

*kinh Phụng Hiệp (Cà Mâu-Cần Thơ)

*kinh Cà Mâu-Bạc Liêu

*kinh Xà No (Vị Thanh-Cần Thơ)

*kinh Lấp Vò(V ĩnh Long)

3. Đất đai trên các vùng sinh thái.

Các vùng sinhthái là những vùng tương đối đồng nhất về nhiều yếu tố như đất (ví dụ đất mặn,đất phèn.. ), như nước (nước mặn, nước lũ).

Dưới đây là môtả 6 vùng sinh thái tại đồng bằng sông Cửu Long


Hình 1.1. Phân vùng vùng sinh thái ở ĐBSCL (Vo Tong Xuan and Matsui, 1998).

3.1. Vùng ven biển đất mặn

Bao gồm nhiều vùng đất duyên hải thấp ở Bac Lieu, Soc Trăng, Trà Vinh, BếnTre, Gò Công. Đất mặn vì gần biển, chịu tác động của thuỷ triều lên xuống mỗingàỵ... Trong vùng này, cũng găp nhiều giồng cát duyên hải rộng hẹp, dài ngắntùy vùng và dưới các đất giồng này có nước nhạt (nước ngọt) uống được. Cácgiồng cát có hình vòng cung song song với bờ biển, nhô cao hơn so với các vùngđất phù sa chung quanh, xuất hiện ở các huyện vùng Gò Công, Trà Vinh... Đó lànhững chứng tích còn lại của thời kỳ biển lùi. Đất cát giồng (Fluventic Tropopsamments) có mức độ phì nhiêu thấp, ít chuatrên mặt và trung tính ở tầng sâu; nhưng có địa hình cao nên được di dân đến ởtrong buổi đầu khai khẩn đất hoang. Hơn nữa đất cát giồng giữ được nước ngọtcho mùa khô, nên thường là tụ điểm dân cư đông đúc.

Vào mùa mưa, nhờ lưu lượng nước khá lớn nên có thể đẩy lùi nước mặn từ dòngsông chính và kênh lớn ra biển còn vào mùa khô nước triều biển Đông xâm nhậpsâu vào nội địa nên nhiều khu vực bị nhiễm mặn, không trồng lúa được. Phải chờvài trận mưa đầu mùa để rửa mặn truóc khi cấy lúa. Thực vật trong rừng ngập mặnthường gặp là cây đước, mắm , sú vẹt , chà là …bao phủ và ngập nước triều quanhnăm.. Đất phù sa địa hình thấp nhiều nơi còn chịu ảnh hưởng nước thủy triều vàlũ từ nguồn đổ về nhờ đó ruộng có nước tự chảy quanh năm, lợi ích lớn cho nôngnghiệp.

3.2. Vùng Đồng Tháp Mười.

Nằm trong cáctỉnh Kiến Tường, Kiến Phong (trước 1975), ngày nay trong các tỉnh Tiền Giang,Long An và Đồng Tháp, với địa hình bằng phẳng, độ cao quãng 2 mét so với mặtbiển.

Thực vật ngoàicác đồng cỏ năng, cỏ lác, sen v. v. còn có rừng tràm với nhiều chim cò.


Đẹp ngỡ ngàng đồng sen Tháp Mười.

Động vật rấtđa dạng; riêng về cá thì nông dân địa phương thường gọi cá đen sinh sống trong song rạch hoặc vùng ven sông như cá lóc, cátrê, cá rô và cá trắng có thể di cư rấtxa như cá chép, cá tra, cá b ông lau, cá ba sa; ngoài cá còn có chuột đồng bánđầy ngoài chợ , còn rắn thì nào rắn nước, rắn hổ, rắn bông súng, rắn mối. Ngoàiđất phù sa ven sông, trong vùng ĐồngTháp còn có đất phèn:

- đất phèn tiềm tàng ( Sulfaquents) hình thành trong vùng chịuảnh hưởng của nước có chứa nhiều sulfat. Trong các điều kiện yếm khí, cùng vớihoạt động của vi sinh vật, sulfat nhôm và sulfat sắt bị khử để tạo thành lưuhuỳnh và chất này sẽ kết hợp với sắt có trong trầm tích để tạo thành FeS2. pH thường dưới 4. Vì đấtcó nhiều H2S nên có mùi hôi.

- khi đất phènở trong môi trường thoáng khí (thoát nước), ta có đất phèn hoạt động (Sulfaquepts) dưới dạngmàu vàng, mà dân gian thường gọi là đấtcứt chuột (jarosite). Đất phèn hoạt động và đất phèn tiềm tàng không phải chỉ ở vùng Đồng Tháp mới có màhiện diện tại nhiều vùng sinh thái khác. Ví dụ: đất phèn hoạt động gặpnhiều ở Bán đảo Cà Mau, Tứ Giác Long Xuyên, còn đất phèn tiềm tàng gặp nhiều ởvùng sinh thái Bán đảo Cà Mau và Phù sa ven sông.

3.3. Vùng phù sa nước ngọt. Bao gồm nhiều tỉnh hai bênsông Tiền và sông Hậu như Long An, Mỹ Tho, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long; taliên tưởng ngay đến bài hát:

Giòng An Giang sông sâu sóng biếc,
Giòng An Giang cây xanh lá thắm,
lả lướt về qua Thất Sơn,
Châu Đốc giòng sông uốn quanh,
soi bóng Tiền Giang Cửu Long.

Vùng này nhiềuđất phù sa địa hình cao ở dọc hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu và hình thànhtrên trầm tích sông, độ phì nhiêu cao, rất tốt cho sản xuất nông nghiệp từ lúaruộng đến vườn cây ăn trái dọc theo ven sông cũng như trên đất các cù lao giữasông.

Có thể chiađất phù sa ra vài nhóm:

- đất phù sa bồi hàng năm (Aeric Fluvaquents) ở ven sông và phần lớn trên các cù lao, các cồn giữa sông. Trắcdiện đất chưa phân hoá hoặc phân hoá yếu

- đất phù sa không được bồi (Typic Ustifluvents), nằm chỗ địa hình cao ven sông, màu nâu nhạt hơn đất phù sa đượcbồi

- đất phù sa không được bồi gley (Aquic Tropaquepts), phân bố xa dòng sông, địa hình thấp đọng nước nhiều tháng trongnăm với các đốm gley nghĩa là có những đốm sét màu xám nâu hay xám xanh trongtrắc diện đất

- đất phù sa không được bồi có tầngsesquyoxyt loang lổ đỏ vàng (TypicUstropepts), ở địa hình cao, xasông, thường trồng lúa lâu đời

Đất phù sa cóđộ phì nhiêu cao và được dùng trong sản xuất lúa, cây ăn trái, rau đậu..

3.4. Vùng Tứ giác Long Xuyên

Vùng Tứ giácLong Xuyên được giới hạn bởi kênh Vĩnh Tế, Sông Hậu, Quốc lộ 80 và kênh RạchGiá - Hà Tiên liên quan đến ba tỉnh thành phố là: An Giang, Kiên Giang và thànhphố Cần Thơ. Vùng Tứ giác Long Xuyên có tổng diện tích khoảng gần 500. 000ha;trong đó, tỉnh An Giang có hơn 230. 000ha, chiếm hơn 48%; tỉnh Kiên Giang có hơn234. 000ha, chiếm hơn 47% và thành phố Cần Thơ trên 15. 000ha, chiếm hơn 3%. Tuynhiên, phần phía Bắc của Tứ Giác này, - từkhu dinh điền Cai Sắn trở lên sông Hậu, không úng ngập như phần phía Namtrong hình. Ngoài ra, trong vùng Tứ Giác Long Xuyên, cũng có vùng cao Thất Sơn (Bảy Núi) gồm huyệnTri Tôn và Tịnh Biên, vì địa hình cao trải dốc theo triền núi nên không bị úngngập. Tại đây, thường gặp những loại đất xám trên sản phẩm phong hoá đá mácmaaxit (Plinthic Ustorthents) và đấtxói mòn trơ sỏi đá (Lithic Ustorthents).Còn những nơi khác giáp biển của Kiên Giang thì bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn (Tropaquepts-salic). Xung quanh vùng núiThất Sơn , hiện nay rừng đà bị tàn phá hết, cần phải tái tạo hoàn toàn lại.

3.5. Vùng trũng sông Hậu (Phụng Hiệp, Chương Thiện)

Chương Thiện làtỉnh thành lập thời Việt Nam Cọng Hoà. Phụng Hiệp được biết vì tại đó có NgãBảy Phụng Hiệp có 7 con kinh gặp nhau. Tại Phụng Hiệp, có con kênh đào nối từsông Hậu qua thị trấn Phụng Hiệp theo hướng ĐB-TN thẳng đến thành phố Cà Mau. Vùngtrũng sông Hậu nằm trong tỉnh Hậu Giang ngày nay, cách cửa biển Trần Đề (SócTrăng) 65 km và cách cửa biển Rạch Giá (Kiên Giang) 45km, nên Hậu Giang nằmtrọn trong vùng bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn, nhất là lúc triều cường thìnhiều nơi mặn xâm nhập vào sâu làm độ mặn tăng cao, ảnh hưởng đến năng xuất lúa.

Trong vùng trũngsông Hậu, có đất phèn tiềm tàng nông-mặn(Sulfaquepts-salic); nhiều nơi đất than bùn-phèn (Sulfihemists), đất úng thuỷnên hiện nay, nhiều nơi vẫn còn lúa cấy hai lần để thích nghi: lúa gieo vào cáctháng 6-8, cấy lần đầu vào tháng 8 và sau đó vài tháng, khi cây lúa khá caochừng 60-70cm thì phải nhổ và đem đi cấy lần thứ hai, mục đích chính là đểthích nghi với điều kiện thuỷ lợi. Lúa cấy hai lần năng xuất thường không cao,chu kỳ sinh trưởng dài. Hướng cải tạo là phải đào kinh mương tiêu bớt nước đểcấy một lần.

3.6. Vùng bán đảo Cà Mau

Vùng bán đảo Cà Mau có đất mặn, đất phèn, đất phèn-mặn và đất hữu cơ.

- đất mặn. Riêng vềđất mặn, cũng phải phân biệt đất mặn dưới rừng ngập mặn (Salic Hydraquents, Salic Haplaquents), đấtmặn nhiều (Salic Fluvaquents, SalicUstifluvents), đất mặn trung bình (Tropaquepts-salic), đất mặn ít (Ustropepts-salic). Nếu tính theo nồng độ muối thì nếu đất chứa dưới 3gram muối mỗi lít, thì đất đó không mặn; đất chứa trên 12g/lit thì đất mặnnhiều. Từ 3 đến 6 g/lit, thì đất hơi mặn. Có thể đo độ mặn trong đất bằng suấtdẫn điện. Suất dẫn điện (Electricalconductivity) tỷ lệ thuận với nồng độ muối trong đất. Người ta thường tính radecisiemens mỗi mét (dS/m) hoặc millimhos mỗi centimét (mS/cm). Nếu tính theomillimhos/cm thì dưới 4. 5 thì đất đó không mặn và trên 4. 5 thì đất mặn.

Đất mặn thì sựhút nước của thực vật bị giảm đi. Thực vật có thể hấp thụ dễ dàng nước và phânhoá học đến mức nồng độ muối tối đa từ 3 đến 4mS/cm hoặc một nồng độ muối từ 3đến 4 gram mỗi lít dung dịch đất (phần nước của đất)

- đất phèn có những tính chất đã mô tả tại vùngĐồng Tháp


Rừng tràm U Minh.

Ngoài ra cũng phải kể đất phèn hoạt động nông-mặn (Sulfaquepts-salic), đất phèn hoạt động sâu-mặn (Sulfic Tropaquepts-salic), đất phèn hoạtđộng nông (Sulfaquepts), đất phèntiềm tàng nông dưới rừng ngập mặn (SalicSulfaquents). Rừng thiên nhiên chủ yếu là rừng ngập mặn với cây mắm (Avicennia) là cây tiên phong mọc trên đất bùn lỏng, sau khi đất dầndần được cố định thì mới đến lượt các câyđước (Rhizophora), cây vẹt (Bruguiera cylindrica) vớibộ rể xoè ra như chiếc càng giúp chận làn sóng biển và giữ đất phù sa.

- đất hữu cơ. Sau khi đất dần dà ổnđịnh, với thân cây chôn vùi dưới đất lâu năm tạo ra đất hữu cơ nhiều than bùn (Sulfihemists,Sulfohemists), tậptrung ở hai khu vực U Minh Thượng và U Minh Hạ với nhiều rừng tràm (Melaleuca) mọc. Đất hữu cơ khoảng 26 ngàn ha, có địahình khá thấp, trũng. Đất được hình thành bởi xác bả thực vật dạng bán phân rãvà hình thành lớp than bùn như vùng U Minh. Rừng tràm U Minh Hạ tỉnh Cà Maurộng 70. 000 ha. Những loại đất hữu cơ rất dễ cháy vì toàn bã thực vật, do đóphải có thuỷ cấp gần mặt đất, nếu để khô nước, nguy cơ cháy là rất cao. Rừngtràm cung cấp gỗ dùng trong xây dựng và là nơi trú ẩn của nhiều đàn ong đến hútnhụy làm mật.

Trong vùng này, có vài con sông sau đây:

- sông ÔngĐốc dài 58km, đổ ra Vịnh Thái Lan. Hai bên sông có nhiềurạch như rạch Cái Tàu, rạch Giếng. Tại sao có tên Sông Ông Đốc ? Tương truyềnngày trước, chúaNguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đánh đến đây. Đô đốc thủy binhNguyễn Văn Vàng đã xin Nguyễn Ánh được mặc hoàng bào để nghi binh cho NguyễnÁnh trốn. Vị đô đốc này hy sinh; sau này được lập miếu thờ tại vùng này vào năm1802. Từ đó, sông này được dân gian gọi là sông Ông Đốc.

- sông Trẹm (còn gọi là sông Tràm Trẹm) làmột chi lưu dài 36 km của sông Ông Đốc. Sông ch ảy qua huyện An Minh tỉnhKiên Giang và huyện Thới Bình tỉnh Cà Mau. Sông Trẹm chia rừng U Minh thành haivùng U Minh Thượng (thuộc tỉnh Kiên Giang) và U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau.

- sông Gành Hào là tên gọi một con sông chảy ởvùng ranh giới giữa hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu và đổ ra Biển Đông ở cửa cùngtên. Sông bắt đầu từ thành phố Cà Mau với các dòng nước từ kênh Phụng Hiệp,kênh xáng Cà Mau-Bạc Liêu hợp lưu. Với những đặc điểm này, sông Gành Hào là mộttrong những đầu mối giao thông của Cà Mau và một phần Bạc Liêu, là nơi tậptrung đi lại của các phương tiện đường thủy cùng với các chợ nổi trên sông

- sông Bảy Háp đổ ra biển Tâydài hơn 50 km. Sông Bảy Háp xuất phát từ đầu kinh xáng Đội Cường chảy ra cửaBảy Háp (còn gọi Rạch Chèo) ở Biển Tây. Sông có độ sâu trung bình từ 3-5 m, tạicửa sông rộng gần 1,000 m, dài 48 km. Sông Bảy Háp là con đường giao thônghuyết mạch nối liền hai vùng Nam và Bắc của tỉnh Cà Mau, là ranh giới của 2huyện Năm Căn và huyện Cái Nước.

- sông Cửa Lớn hay Đại MônGiang vốn là một con kênh dài 58 km, rộng 600 m và sâu 12 m ở tỉnh Cà Mau, nốibiển Đông (cửa Bồ Đề) với biển Tây (cửa Ông Trang). Cửa Ông Trang rộng hơn 1km, sâu từ 4-5 m; cửa Bồ Đề rộng 500 m, sâu 20 m. Dòng chảy có khi đứng, có khirất mạnh gây bởi khác biệt thủy triều giữa Biển Đông và Biển Tây. Đại Môn Gianglà ranh giới tự nhiên giữa huyện Năm Căn và huyện Ngọc Hiển, tách khu vực cuốicực nam của bán đảo Cà Mau thành một đảo, hiện chưa có cầu bắc qua đây.

- sông Cái Tàu dài 43 km, xuấtphát từ ngã ba Cái Tàu (U Minh), đi qua rừng tràm U Minh, đổ vào Sông Ông Đốcra biển Tây. Công trình Khí - Điện - Đạm tọa lạc tại Vàm Cái Tàu (xã Khánh An,huyện U Minh). Dọc sông là vườn cây ăn trái trù phú.

- sông ÔngĐốc dài 58km, đổ ra Vịnh Thái Lan. Hai bên sông có nhiềurạch như rạch Cái Tàu, rạch Giếng. Tại sao có tên Sông Ông Đốc ? Tươngtruyền ngày trước, chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đánh đến đây. Đô đốc thủybinh Nguyễn Văn Vàng đã xin Nguyễn Ánh được mặc hoàng bào để nghi binh choNguyễn Ánh trốn. Vị đô đốc này hy sinh; sau này được lập miếu thờ tại vùng nàyvào năm 1802. Từ đó, sông này được dân gian gọi là sông Ông Đốc

- sông Trẹm (còn gọi là sông Tràm Trẹm) làmột chi lưu dài 36 km của sông Ông Đốc. Sông chảy qua huyện An Minh tỉnhKiên Giang và huyện Thới Bình tỉnh Cà Mau. Sông Trẹm chia rừng U Minh thành haivùng U Minh Thượng (thuộc tỉnh Kiên Giang) và U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau.

- sông Bảy Háp đổ ra biển Tâydài hơn 50 km. Sông Bảy Háp xuất phát từ đầu kinh xáng Đội Cường chảy ra cửaBảy Háp (còn gọi Rạch Chèo) ở Biển Tây. Sông có độ sâu trung bình từ 3-5 m, tạicửa sông rộng gần 1,000 m, dài 48 km. Sông Bảy Háp là con đường giao thônghuyết mạch nối liền hai vùng Nam và Bắc của tỉnh Cà Mau, là ranh giới của 2huyện Năm Căn và huyện Cái Nước.

- sông Cửa Lớn hay Đại Môn Giangvốn là một con kênh dài 58 km, rộng 600 m và sâu 12 m ở tỉnh Cà Mau, nối biểnĐông (cửa Bồ Đề) với biển Tây (cửa Ông Trang). Cửa Ông Trang rộng hơn 1 km, sâutừ 4-5 m; cửa Bồ Đề rộng 500 m, sâu 20 m. Dòng chảy có khi đứng, có khi rấtmạnh gây bởi khác biệt thủy triều giữa Biển Đông và Biển Tây. Đại Môn Giang làranh giới tự nhiên giữa huyện Năm Căn và huyện Ngọc Hiển, tách khu vực cuối cựcnam của bán đảo Cà Mau thành một đảo, hiện chưa có cầu bắc qua đây.

- sông Cái Tàu dài 43 km, xuấtphát từ ngã ba Cái Tàu (U Minh), đi qua rừng tràm U Minh, đổ vào Sông Ông Đốcra biển Tây. Công trình Khí - Điện - Đạm tọa lạc tại Vàm Cái Tàu (xã Khánh An,huyện U Minh). Dọc sông là vườn cây ăn trái trù phú.

4. Nôngnghiệp: lúa, cây ăn trái, tôm, cá v. v.

- lúa: lúa trồng hiện nay phần lớnlà lúa năng xuất cao, dàn thấp và chu kỳ ngắn. Đó là những giống lúa có nguồn gốctừ Viện Nghiên cứu quốc tế về lúa(International Rice Research Institute, viết tắt là IRRI), sau này có lai tạothêm để hợp với điều kiện thiên nhiên của vùng

Tại đồng bằngsông Cửu Long, có nhiều hệ thống trồng lúa:

- có nơi Lúa-Lúa,

- có nơi Lúa-Raucải, nhất là các nơi gần thành thị

- và cũng có nơiLúa-Lúa/Cá/Tôm.

- và nếu có vùngvới nhiều điều kiện thích hợp về mưa, về thủy lợi, về dẫn thủy thì cũng có 3vụ lúa trong đó 2 vụ (lúa hè-thu và lúa mùa) trùng hợp với mùa mưa khởi đầutừ tháng 5 và kết thúc tháng 11 và một vụ trồng vào mùa khô.

Và làm đất thìcó nơi dùng trâu bò và cũng có chỗ dùng máy cày

- cây ăn trái:Đồng bằng sông Cửu Long nóng ấm quanh năm, thêm vào mùa mưa và đất đai phì nhiêunên trồng được nhiều loại cây ăn trái nhiệt đới. Có cù lao trồng toàn chuối, cónơi trồng xoài, nhãn, chôm chôm, măng cụt v. v.. Gò Công có sơ ri Gò Công.

- tôm. Có vùng nông dân đào aovà lót bạt plastic để nuôi tôm, nuôi cá (Cà Mau, Bac Liêu)

5. Vài vấnnạn tại DBSCL: hạn và mặn

Hạn và mặn đi đôi với nhau. Thực vậy, vào mùa nắng, lưu lượngcác dòng sông không đủ mạnh để đẩy chất mặn và chất mặn trong thuỷ cấp lại dângcao nên ảnh hưởng đến cây lúa.


Nhiều diện tích lúa ở ĐBSCL bị chết do khô hạn. (Ảnh: K. V).

Cụthể, trong năm 2018, hạn mặn đã làm ảnh hưởng trên 30% năng suất, khoảng 39. 000ha, bao gồm vụ mùa 16. 000 ha và đông xuân 23. 000 ha, chiếmkhoảng 1,2% tổng diện tích gieo trồng, bằng 9,6% diện tích bị ảnh hưởng năm2015-2016.

Ngoài ra, với biến đổi khí hậu, chất mặn càng năm lại càng đisâu hơn, theo dự báo của cơ quan chức năng, trong tháng 3, xâmnhập mặn sẽ tiếp tục tăng cao, đặc biệt đợt từ ngày 07 đến 15/3 ở cửa các sông.Cụ thể:

-tại cửa sông Vàm Cỏ (Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây) phạm vi ảnh hưởng sâu nhất100-110 km, thấp hơn 15-16 km so với mức sâu nhất năm 2016;

- sông cửa Tiểu, cửa Đạicó phạm vi ảnh hưởng sâu nhất khoảng 60 km, sâu hơn 8-10 km so với mức sâu nhấtcủa năm 2016;

-sông Hàm Luông có phạm vi ảnh hưởng sâu nhất khoảng 78 km, sâu hơn khoảng5 km so với mức sâu nhất của năm 2016;

-sông Cổ Chiên phạm vi ảnh hưởng sâu nhất khoảng 70 km, sâu hơn khoảng 5km so với mức sâu nhất của năm 2016;

-sông Hậu (Cửa Định An, Trần Đề) phạm vi ảnh hưởng sâu nhất khoảng 70 km,sâu hơn 6 km so với mức sâu nhất năm 2016;

-sông Cái Lớn phạm vi ảnh hưởng sâu nhất khoảng 62-65 km, thấp hơn khoảng3 km so với mức sâu nhất năm 2016.

Trongthời gian tiếp theo của mùa khô, xâm nhập mặn dự báo còn lên cao theo các kỳtriều cường.

Thôngthường thì diện tích cây ăn trái miền châu thổ Cửu Long có hệ thống đê bao, bờbao tuy nhiên với hạn hán gay gắt và kéo dài thì xâm nhập mặn sẽ ảnh hưởng đếncác vườn cây ăn trái : nhiều địa phương phải vận chuyển nước ngọt từ nơi khác vềđể tưới cho cây ăn trái.

Vàibiện pháp ứng phó:

-tăng lượng xả từ các hồ chứa ở thượng nguồn

-đầu tư lắp đặt thiết bị giám sát độ mặn tự động để kịp thời thông tin,chủ động triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp với từng giai đoạn, nhất làứng phó với tác động của thời tiết cực đoan.

-đầu tư xây dựng hoàn thiện khép kín các hệ thống thủy lợi đã có, nạo vét cáckênh trục chuyển nước, xây dựng các trạm bơm cột nước thấp trên kênh, …để chủđộng kiểm soát triều, xâm nhập mặn;

-cải tạo các cửa cống lấy nước hiện có ở vùng ảnh hưởng triều, bảo đảm chủ độngvận hành lấy nước ngọt, nước mặn và tiêu thoát nước.

-đối với các vùng thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn thì khuyếnkhích chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, đặc biệt vùng không chủ động nguồnnước, sang phát triển nông nghiệp đa dạng (thủy sản - cây ăn quả - lúa), đáp ứngnhu cầu của thị trường, chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng.

-xây mới, nâng cấp, sửa chữa các công trình cấp nước tập trung, mở rộng, kéo dàiđường ống cấp nước cho các hộ dân

-xây dựng các hồ trữ nước ngọt từ hệ thống sông, kênh tại các tỉnh Trà Vinh,Long An, Bến Tre, Hậu Giang.