Gánh hát Đồng Nữ Ban

Trần văn Khê

Những nét đặc thù trong hình thức và nội dung

Trong Lịch sử Cải lương, năm 1927, với sự thành lập gánh hát Đồng Nữ Ban, là một năm đáng ghi nhớ, vì sự chuyển mình về hình thức và nội dung rất quan trọng. Rất nhiều chuyên gia viết về Lịch sử Cải lương thường lướt qua năm 1927 và ghi tên của gánh Cải lương Đồng Nữ Ban, mà không ngờ rằng gánh này không phải là một gánh Cải lương thường như Văn Hý Ban hay Tập Ích Ban.

Gánh này rất đặc biệt về hình thức lẫn nội dung. Chúng tôi chỉ ghi lại những nét đặc thù khó tìm trong một gánh Cải lương khác.

I. Diễn viên:

  1. Toàn thể diễn viên là những người thôn nữ chưa bao giờ biết nghề hay có lên sân khấu. Do đó, gánh hát mang tên Đồng Nữ Ban.

  2. Các diễn viên được đào tạo về nghề nghiệp, nhưng bắt buộc phải học văn hóa như những học sinh Trường Trung học. Và học võ thật sự với một người Thầy võ Bình Định.

  3. Thời khóa biểu rất chặt chẽ trong cả tuần, nên các diễn viên phải tuân theo kỷ luật được đặt ra:

  4. Trong nhà thì các diễn viên mặc áo bà ba, nhưng khi ra đường (đến rạp hát, đi chợ…) thì phải mặc áo dài tím (như Nữ sinh Trường áo tím).

  5. Tóc bỏ xõa và kẹp sau lưng, phải sắp hàng hai.

  6. Các diễn viên sống chung với nhau và theo thời khóa biểu của những học sinh nội trú: ăn, ngủ, học (văn hóa, ca, múa, võ thuật…), làm việc theo thời gian đã định.

II.Sân Khấu:

  1. Một họa sĩ được mời vẽ bức phông và cánh gà đặc biệt cho mỗi màn. Họa sĩ phải biết rõ nội dung vở Tuồng để tạo ra những tấm phông có tính chất nghệ thuật như một bức tranh lớn.

  2. Giữa các lớp (hồi) một tấm màn nhung đỏ được kéo ngang để che cả sân khấu, trong lúc dọn màn, dàn nhạc đánh các bản truyền thống Việt Nam, chớ không được đánh các bản Tây như trong những gánh hát khác.

  3. Ánh sáng được thiết kế như các rạp hát lớn để làm nổi bật các diễn viên.

III. Trang phục và đạo cụ:

  1. Xiêm y của các vai do cô Ba Viện thiết kế và sáng tạo. Cô may, thêu thùa rất khéo, nên cô đã tạo ra những bộ đồ võ cho vai Võ Đông Sơ, không phải như áo giáp của Hát Bội, cũng không như đồ lụa của Hát Quảng, Hát Tiều, mà những trang phục mang tính chất Việt Nam. Màu sắc cũng được chọn lựa rất kỹ, phù hợp với tranh cảnh.

  2. Khi có dịp đấu võ thì dùng gươm, dáo, kích, đoản đao, song kiếm, côn, gậy và lăn khiên… được dùng trong giới võ thuật. Chớ không dùng đồ giả như trong các gánh hát khác.

IV. Âm nhạc phụ họa:

  1. Dàn nhạc phụ họa gồm có: đàn Kìm, đàn Cò, đàn Sến, ống Sáo, ống Tiêu.

    Vì diễn viên toàn là nữ nên dây đàn không lên theo hai bực phù hợp cho giọng nam hay giọng nữ, mà phù hợp cho mỗi diễn viên. Hầu hết các bài bản trong Đờn ca Tài tử đều được dùng.

  2. Bản “Dạ cổ hoài lang” có mặt nhưng không được dùng nhiều. Cậu Năm Nguyễn Tri Khương có đặt thêm những bài khác, tuy là nhạc mới mà âm hưởng không khác gì các bài bản cổ: “Yến tước tranh ngôn”. “Phong xuy trịch liễu”, Thất trỉ bi hùng”, “Bắc cung Ai”…

Tiếc rằng, Tuồng “Giọt lệ chung tình” chỉ diễn được không tới một năm và gánh Đồng Nữ bị mật thám của Pháp tình nghi là gánh hát của cách mạng, nên lấy lại giấy phép cho lập gánh. Sau thời gian đi lưu diễn từ làng Vĩnh Kim qua các làng lân cận, khi lên diễn tại Sài Gòn được mấy đêm gánh hát phải giải tán,.

V. Tập tuồng và lên sân khấu:

Kỷ luật rất nghiêm, những giờ tập Tuồng đã ghi trên thời khóa biểu, tất cả diễn viên đều phải có mặt, trừ những trường hợp bất khả kháng. Thời gian luyện tập khá nhiều, cô Ba Viện tuy thông cảm với trình độ văn hóa, nghề nghiệp của các diễn viên, nhưng cũng còn giữ tính cầu toàn nên đòi hỏi các diễn viên phải luyện tập nhiều hơn thường.

Mỗi đêm khi lên sân khấu, diễn viên phải tụ họp lại trước, tất cả đều mặc áo dài tím như đồng phục của sinh viên Trường Áo tím, tóc kẹp suôn, sắp hàng hai, đi bộ từ nhà tới rạp, có bốn người võ sĩ bảo vệ. Khi vào hậu trường, mỗi diễn viên phải biết tự lo trang điểm và dậm mặt, 5 phút trước khi ra Tuồng phải đứng sẵn sàng tại cánh gà. Hết lớp Tuồng phải trở về phòng trang điểm, để nếu cần biết chỗ đi gọi. Sau khi hạ màn chót, trang phục phải xếp kỹ rồi lại mặc áo dài, kẹp tóc, sắp hàng hai đi về nhà hay xuống chiếc ghe chài lớn dùng cho việc ăn ở và di chuyển khi lưu diễn.

VI. Vài nét đặc biệt trong kịch bản các vở Tuồng:

  1. Hầu hết các câu nói lối, Ông Năm Khương (Nguyễn tri Khương) viết theo lối văn biền ngẫu, có vần, đối đáp, nội dung gợi lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

  2. Có những đoạn đối với hoàn cảnh Nước Việt Nam, thuộc địa của Pháp, bị cho là có tính chất “cách mạng” chống Pháp. Như khi Võ Đông Sơ đánh bại tướng cướp đạp chân trên mình tướng cướp hỏi:

        “Sao nhà ngươi
        Đem cường quyền đạp công lý
        Mượn võ lực dốc tung hoành
        Nhà người có biết
        Phạm tự do thì xã hội dám hy sinh
        Đạp công lý quốc dân đành xả mạng”

    Tên cướp ngụy biện trả lời: (trong lớp Ú của bài “Tây Thi”)

        “Nước non vẫn cũng nước non
        Kẻ lầu son kẻ sao phận bạc
        Thân trâu ngựa nên tâm hồn cũng trâu ngựa”


    thì Võ Đông Sơ ngắt lời và nói:

        “Nhà ngươi nên nhớ
        Lấy bạc tiền làm nô lệ cho thân hình
        Chớ nhà ngươi đừng để
        Vì tiền bạc mà thân hình làm nô lệ
        Ôi tệ ôi rất tệ !!!…”
  1. Tất cả bài bản trong truyền thống đờn ca tài tử đều được dùng. Và có những bản mới do Ông Năm Khương đặt như đã viết bên trên.

    Cốt truyện là một mối tình cao thượng giữa Bạch Thu Hà và Võ Đông Sơ.

    Trong những lớp sau có nhiều đoạn rất hay, chúng tôi chỉ đơn cử lại một vài thí dụ nhỏ như tên bán quán nhất định không bán hàng hóa du nhập từ nước ngoài, chỉ dùng toàn thổ sản, lời lẽ đối đáp theo văn biền ngẫu:

    Đốt than Tòng nấu thịt đa đa
    Nhen lửa Bá hâm lòng quốc quốc
    Dùng chảo sắt xáo tan bầy hổ đất
    Lấy nồi đồng nấu rụi đám cải trời.
    Giống khum lưng là đồ tôm luộc để ăn chơi
    Thứ co gối là ếch xào xơi nhậu lủi

    (ám chỉ những người sợ chánh quyền phải khom lưng co gối)

    Tuy mở đầu trước khi vào Tuồng theo phong cách của Cải lương thuở ấy, phải có một lớp đầu tất cả đào kép đứng lên sân khấu ca bài “La Madelon” và khi vãn tuồng phải ca phần điệp khúc của bản “La Marseillaise”, nhưng lời của bài ca cậu Năm Khương đặt ra mang đậm tư tưởng dân tộc, như những câu dân ta phải giúp cho ta (bài “La Madelon”); máu nóng quyết rưới vì nước (bài “Madelon de La Victoire”). Cuối cùng thay vì điệp khúc của “La Marseissllaise” là quốc ca Pháp, cô Ba Viện và cậu Năm Khương đồng ý thay vào bài “Long Hổ hội”, vì thế chánh quyền thuộc địa đã để ý và theo dõi gánh hát từ lúc mới lập đến ngày bị thu hồi giấy phép.

VII. Mục đích của gánh Đồng Nữ:

Gánh hát Đồng Nữ được lập ra không phải để kinh doanh, vì tất cả những tiền lời sau khi trang trải mọi chi tiêu được cô Ba Viện chuyển giúp đỡ cho những nhà cách mạng.

Gánh hát được lập ra không phải để cho khán giả “mua vui cũng được một vài trống canh” mà để giáo dục quần chúng, khơi dậy lòng yêu Nước và kỷ luật của diễn viên, văn chương của kịch bản cốt để xóa tan ý kiến “xướng ca vô loại”.

Trong khi các gánh hát khác chuyển hướng theo Tây, theo Tàu, thì gánh Đồng Nữ đề cao tính dân tộc trong tranh cảnh, trang phục và kịch bản.

Vì những lẽ trên đây mà tôi thấy rằng, năm 1927, và sự kiện ra đời của gánh hát Đồng Nữ Ban, là những điểm đáng nhớ và là một dấu son đáng ghi lại trong lịch sử của kịch nghệ Cải lương. Tiếc rằng trong những bài viết hoặc các quyển sách về Cải lương chưa có ai nhắc đến sự kiện này một cách đầy đủ !

Sau khi nhìn qua nội dung và hình thức của gánh Cải lương Đồng Nữ Ban, tôi thấy rằng nghệ thuật Cải lương là một nét đặc thù của văn nghệ Miền Nam Việt Nam. Cải lương có khả năng diễn tả những đề tài mà bộ môn nghệ thuật khác khó làm được. Cải lương tiếp thu kinh nghiệm của những bộ môn sân khấu khác nhưng có tính chất động nên dễ phát triển. Tôi muốn mượn lời của Nghệ sĩ nhân dân Năm Châu đã nói về bộ môn Cải lương mà suốt đời anh gắn bó:

“Cải lương là sản phẩm của nhân dân, phản ánh trung thực nhất sự tiến thoái của dân tộc. Trải qua những biến cố thăng trầm nó vẫn còn mãi với nhân dân và nhất định không bao giờ bị tiêu diệt”.