Đá hoa cương

Cứ mỗi lần tiếng chuông reo vang báo hiệugiờ học bắt đầu, giáo sư lục tụckéo nhau xuống lớp thì tôi đều bước ngang quacái bảng phân phối giờ dạy thật to gắn trêntường của phòng hội, liếc qua coi buổi sángnay phụ trách lớp mấy. Nếu không vậy thìthế nào tôi cũng đi lộn vào lớp của giáosư khác. Cái tật xấu hay nhớ trước quên sauđó, thường bị học trò cười hoài.Nhiều khi lớp của người ta đã ổnđịnh, thầy đang điểm danh, tôi từtừ đi vô như là lớp của mình, quên mất là còncó anh bạn giáo sư đang ngồi lù lù ở trên bànviết. Những lúc đó, đám học trò có dịp làmồn:

-Lộn tiệm rồi, thầy ơi !

Cứ năm ba tuần là tôi đi lộn lớpmột lần. Một phần vì tánh đãng trí hay quên,một phần vì cái trường Hoàng Diệu nầy quálớn. Trường có trên năm chục lớp vớigần một trăm giáo sư. Hành lang cái nào cái nấy dàihun hút. Phòng học, cửa cái, cửa sổ, sơn cùng màu,bàn ghế sắp xếp giống hịch nhau. Không lộnsao được! Có lần thằng Sơn, trưởnglớp Đệ Nhị A7 nhắc khéo:

-Lớp của tụi em có anh Quì ngồi ởđầu bàn. Hễ thấy cái lưng của ảnh,thầy đi vô là trúng phóc.

Thằng Sơn thiệt là xéo xắc. Quì thì làm sao tôiquên được. Ở đầu bàn, nghe Sơn nói, Quìcười gượng gạo. Tôi chợt hiểu ra cái ýxỏ xiên. Ở lớp nầy, Quì nổi tiếngnhiều mặt nhưng cái vụ mập mạp thì nóđoạt giải nhứt. Nó mới có mườibảy tuổi mà sao lớn con quá! Cái lưng dài sọc, cáivai to sầm, còn cái bụng chang bang như đàn bà có thai babốn tháng. Nếu đem cân kí lô thì tôi thua nó rõ ràng. Lúcđó tôi mới ra trường, ốm nhách, nhỏ xíu,đen thui. Tụi học trò ở tỉnh nầy,đứa nào đứa nấy tuổi còn nhỏ mà thânthể bự con, dềnh dàng. Có anh bạn bàn rằng vìchiến tranh loạn lạc, ở thôn quê khai sanh bịthất lạc, phải làm lại, người ta sửatuổi cho nhỏ hơn để tiện việc họchành, quân dịch. Câu nói đó chắc đúng ởtrường hợp thằng Quì. So với vóc dáng to lớnđó, tôi không tin nó mười bảy tuổi.

Có lần ngồi coi văn nghệ học sinh trìnhdiễn, Quì đang hát trên bục cao, tôi quay qua ông hiệutrưởng nói nhỏ:

-Thằng Quì nó mới mười bảy tuổi màsao bự quá!

-Anh nhắm coi nó cỡ bao nhiêu?

-Ít ra cũng hai chục!

Rồi tôi tiếp:

-Thằng Quì nó học hát hồi nào mà hay như casĩ chuyên nghiệp. Nó mà về Sài gòn thì thế nào cũngnổi tiếng như Anh Ngọc, Nhật Trường...

-Thì cũng nhờ hát hay nên trường mình mớinhận vô. Chớ nó thì học dở lắm.

Rồi ông cho tôi biết, năm trước Quìđược nhận vào trường công không phảinhờ thi đậu, cũng không phải do họcgiỏi mà nhờ cái giọng ca đặc biệt. Nóhọc trường Trần Văn, một trườngtư trong tỉnh. Nghe đâu nhà ở Cái Tắc,Chương Thiện gì đó. Nghèo lắm phải lên SócTrăng ăn đậu ở nhờ nhà mộtngười quen để học. Năm ngoái cáctrường trong tỉnh có tổ chức mộtđại hội thi đua văn nghệ, Quì vớigiọng ca ấm áp, truyền cảm, ngọt ngào, đãchinh phục tất cả quan khách, thầy cô giáo, khiếncho mọi người có mặt hôm đó ngẩn ngơ.Tiếng vỗ tay không dứt. Nó đoạt giảidễ dàng. Trường Hoàng Diệu là trường cônglớn nhứt tỉnh, không lẽ chịu thuatrường tư. Anh em giáo sư bàn bạc với nhau vìnhu cầu sinh hoạt văn nghệ của trường,cần có một vài học sinh hát hay để làm nồngcốt cho các buổi trình diễn, nên cuối cùng HộiĐồng Giáo sư quyết định thâu nhậnđặc biệt Quì vào trường. Thế là nóđược học trường công nhờ cái tàinăng thiên phú đó.

°°°

Riêng tôi, tôi biết Quì hơi trễ. Vài tuần sau khitôi dạy lớp nó, tôi lật sổ điểm danh,cầm viết dò tên học trò từ trên xuốngdưới. Đến tên Quì tôi thấy là lạ, bèn kêu lênđể hỏi bài. Tôi nhìn xuống dưới các dãy bànđể coi đứa nào. Quí đứng lên phụcphịch, để tập và sách giáo khoa lên bàn rồi khoanhtay chờ hỏi, dáng lo lắng. Tôi cười nhìn nó:

-Đứng vậy được rồi,đừng có khoanh tay. Lên trả bài, chớ bộ đihầu quan lớn sao!

Tập vở nó sạch sẽ, chữ viếtđẹp, nét đều đặn ngay thẳng. Tôilật tìm bài đang kiểm soát trong sách giáo khoa. Khi lậttrang đầu, tôi đọc thấy hai câu thơ viếtnắn nót ở phía dưới cái tên Trần Văn Quì;

Nếu làm hoa làm hoa hướng dương

Nếu làm đá làm đá hoa cương

Hai câu ý rất lạ, làm tôi ngạc nhiên. Tôi nghĩthoáng trong đầu. Nó tên Quì mà dùng hai câu nầy đểtỏ bày chí hướng cao xa thì khéo quá _ hoa quì mộtdạ hướng dương. Nhưng trình độmột học sinh đệ tam thì làm sao viết hayđược như vậy. Tôi nhìn kỹ lại khuônmặt Quì cho rõ hơn. Mặt nó hơi thô vì bề ngang tohơn bề dọc, thành ra cái trán, cái mũi, cái càmngắn ngủn. Hai gò má bầu bĩnh, đầythịt, khiến khi cười cặp mắt híp lại.Bình thường cặp mắt nhỏ dài, ánh mắt lanh.Tóc mọc lấn hai bên thái dương nên cái trán hẹplép. Nó chỉ được có cái miệng đẹp.Đôi môi mỏng, đều đặn hồng hồng,hàm răng trắng bóng đều đặn. Nhìn chung conngười nó thô, vóc dáng cục mịch, không phải làtướng học trò. Tôi đoán rằng hai câu thơ trênkhông phải do nó nghĩ ra. Tuy thắc mắc nhưng tôikhông tiện hỏi, trong bụng nghĩ rằng nó tìnhcờ đọc được ở đâu đó rồichép lại.

Từ đó, tôi càng chú ý tới nó hơn. Quì rấtngoan ngoản, lễ phép, dễ thương, nói năngnhỏ nhẹ, tuy có điều học quá dở. Làm sao tôiquên được một buổi học về ca dao, tôibiểu nó đọc bài Trấn Thủ Lưu Đồn:

Ba năm trấn thủ lưu đồn

Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.

-Em giải nghiã câu nầy ra văn xuôi cho tôi nghe!

Tôi thấy nó suy nghĩ hồi lâu, rồi mặtđỏ rần, miệng ấp úng:

-Dạ thưa thầy, khó nói quá!

Tôi ngạc nhiên:

-Em hiểu sao cứ nói vậy. Có trật tôi sửacho.

Nó ngần ngừ lựa lời:

-Dạ, hai câu nầy theo em hiểu, thì ban ngày mấyngười lính phải canh gác, coi chừng mấy cô gái làmcái nghề... bậy bạ, ban đêm thì tụ tậplại để làm quan! chắc họ hát bội cho vui !.

Tụi bạn nó ngồi ở dưới, banđầu chưa hiểu tại sao nó lại giải nghiãnhư vậy, cả lớp lặng im. Bỗng có tiếngcười của một đứa, rồi haiđứa, rồi cả lớp xúm nhau cười rầnrần. Đứa nầy lấy cùi chỏ thúc đứakia, đứa kia lại ghé miệng vào tai giải nghiã chođứa nọ hiểu. Tôi ngồi ở trên, rán níncười mà không kìm lại được, đành làmbộ đứng dậy, quay mặt vào bảng đen,cười đến chảy nước mắt. Tộinghiệp, thằng Quì đứng đó, mặt bơbơ. Nó không hiểu tại sao cả lớp lạicười lăn nghiêng lăn ngửa. Nó đưamắt nhìn tôi dò hỏi.

Tôi từ từ giải nghiã cho nó:

-Em hiểu như vậy là sai rồi ! Chữ"điếm" trong bài nầy là cái trạm canh, bâygiờ người ta gọi là cái đồn hay cái bót gác,chớ không phải là mấy cái cô gì... bậy bạ đóđâu! Còn "dồn việc quan" là người línhthú phải gánh vác tất cả các việc vất vảtrong doanh trại, cũng như bị các quan trên saikhiến làm việc cực nhọc, không đượcnghỉ ngơi.

Nó vừa ngồi xuống, vừa cười vừamắc cỡ, mặt mày đỏ lơ đỏlưởng. Đại khái sự hiểu biết củaQuì rất giới hạn. Quì cũng biết mình kém cỏinên rất chịu khó học hỏi, nhún nhường.Được một điều, các sinh hoạt xãhội, văn nghệ là nó xung phong đi đầu. Nóhoạt động hăng say không biết mệt. bảygiờ sáng, năm giờ chiều, một hai giờ khuya,chỗ nào có đám đông là có mặt Quì. Bạn bèđứa nào cũng mến nó. Mấy cô bạn gái lúc nàocũng nhắc nhở tới tên nó luôn: -Anh Quì giúp em làm cáinầy_ Anh Quì giúp em làm cái kia. _Anh Quì hát cho em nghe cái bài gì hômtrước anh hát ở trong lớp đó !

Hình như chưa bao giờ Quì từ chối giúp aiđiều gì. Nhiều khi nghĩ tới Quì, tôi ướcao phải chi nó học hành được khá thêm mộtchút thì hoàn hảo. Tôi có nói ý nghĩ nầy với ôngHiệu Trưởng. Ông ta cũng đồng ý với tôi.Anh Hiếu già, giáo sư Lý Hoá cũng góp ý:

-Chắc tại nó nghèo quá nên học không vô. Hay là mìnhxuất quỹ nhà trường để giúp thêm chút ít chonó đủ tiền ăn học. Tiền bạc cóthoải mái thì trí óc mới sáng suốt được.Thằng Quì cũng dễ thương, biết chịukhó...

Ông Hiệu Trưởng cũng đồng một ýnhưng theo nguyên tắc, không thể lấy tiềnquỹ của Hiệu Đoàn để cho riêng mộthọc sinh được. Chúng tôi bàn bàn nhau, mỗi thángđóng góp người một ít để giúp cho Quìmột số tiền nhỏ, phụ giúp nó các khoảnăn mặc, chi tiêu. Còn nhà ở thì dễ quá. Ông TổngGiám Thị dọn dẹp cho nó một cái phòng trốngcạnh kho chứa vật liệu cũ củatrường. Có điện, có nước đầyđủ. Nó vừa ở học, vừa phụ vớiông gác dan, coi sóc trường sở! Anh em giáo sư cũnghết lòng hướng dẫn nó học tập. Nhiềungày chủ nhựt có dịp đi ngang trường, tôithường thấy xe của Hiếu già đậutrước cửa phòng nó. Hiếu già rảnh rổi,ế vợ nên chưa có con, nhà cửa khá giả, lấyviệc dạy học thêm cho Quì làm niềm vui. Anhthường khoe với tôi:

-Lúc nầy Quì học tiến bộ lắm đó. Làmbài không còn lụp chụp như trước nữõađâu !

Tôi tin anh Hiếu già. Tôi tin Quì nó tiến bộ môn LýHoá. Nhưng môn Việt Văn của tôi thì Quì càng họccàng dở, không khá được hơn chút nào! Tôi kiênnhẫn, tìm đủ mọi cách giải nghiã thậtđơn giản cho Quì hiểu, nhưng rốt cuộcrồi hoài công vô ích. Chưa một bài luận nào của nómà tôi cho trên năm điểm. Câu văn dài dòng, lê thê, khôngtìm thấy dấu chấm phết. Phần nhiều thì lạcđề ! Nó viết lan man trên trời dướiđất, không ăn nhập gì với đầu bài. Ýtưởng lộn xộn, lạ lùng. Xen vào đó lànhững danh từ rất đặc biệt, tôi ít khi nghe.Nhưng cái điều làm tôi bực mình nhứt là nóthường viết chữ " f " thay cho chữ"ph". Mỗi lần bắt gặp chữ nầy,tôi lấy viết đỏ khoanh tròn nhiều vòng, ghilớn bên cạnh câu nhận xét "chữ quốcngữ không bao giờ có mẫu tự nầy ". Nó nghelời sửa chữa được vài lần nhưngsau đó thì chữ "f" ngứa mắt nầy lại thấy nhannhản trong các bài luận. Nhiều đêm chấm xong bàicủa nó, tôi tức phát mệt. Tuy vậy tôi cũng ránsửa từng chữ, từng câu hy vọng một ngàyđẹp trời nào đó nó sẽ khá hơn. Nhưng ngàyđó còn xa vời quá.

Cho đến một ngày gần cuối niên học,buổi trưa trời nắng gắt, tôi dạy xong rakhỏi lớp nhưng chưa về liền, đếnngồi ở băng đá, cạnh hồ nước cótrồng sen thì Quì đến ngồi kế bên, tâm sự:

-Thầy ơi ! Sao nghĩ tới tương lai, embuồn quá!

Tôi ân cần hỏi lại:

-Em có gặp chuyện gì rắc rối không ? Có khókhăn gì cho tôi biết với !

Nó trả lời, giọng buồn buồn:

-Năm nay em tới tuổi quân dịch. Chuyện thicử thì quá khó khăn đối với em. Làm sao mà thoátđược kỳ nầy. Đi lính thì phải bỏhọc. Lỡ dở hết...

Tôi an ủi nó bằng một câu thật tầmthường, không nói thì thiếu, mà nói ra thì hơi...dư:

-Em rán hết sức từ giờ đến khi thi,thì sẽ đậu được. Không có gì khó khănlắm đâu. Đừng nản lòng. Tôi hồi nhỏhọc còn dở hơn em nhiều lắm, lần hồirồi cũng xong!

Khuôn mặt của Quì chiều hôm đó, ảmđạm quá. Tôi thương nó mà đành bất lực.Quì ngồi hồi lâu, khe khẻ nói:

-Chẳng thà em vô bưng, còn hơn đi lính quốcgia đánh mướn cho Mỹ !

Nghe xong tôi muốn á khẩu, lỗ tai lùng bùng.Trời đất ơi ! Thằng Quì ngoan ngoản,hiền lành, nó có được ý nghĩ kỳ lạvậy sao? Trong đầu tôi, một tia sáng lóe ra. À, cáichữ " f " thường bắt gặp trong các bàiluận văn với hai câu thơ lạ viết trên bìasách giáo khoa của nó, bây giờ trở nên dễ hiểuquá. Rõ ràng có người hướng dẫn, dạy dỗnó ngoài anh em giáo sư tụi tôi.

Nếu làm hoa làm hoa hướng dương

Nếu làm đá làm đá hoa cương

Thằng Quì muốn làm đá hoa cương.Được lắm! Thứ đá xanh cứng rắnnầy, người ta sẽ dùng búa thầu đểđập nhỏ nó ra để lót đường đi.Rồi nó sẽ bị thứ xe hủ lô chủ nghiãnghiền nát, cán dẹp. Không kịp suy nghĩ, tôi buộtmiệng:

-Đừng, đừng, em sẽ đậu trongkỳ thi nầy. Còn nếu không may, thì em cũngđừng theo họ. Tôi không thích cái chủ nghiã coi conngười như con vật nô lệ, tự độngnhắm mắt tuân theo những định luật vậtchất, kinh tế như cái răng trong một bánh xe, conốc trong bộ máy. Con người phảiđược tự do trong tư tưởng, trong hànhđộng...

Quì ngát lời tôi:

-Em thì không thích cái xã hội bất công, giàu nghèo xa cáchquá. Thầy nghĩ thế nào khi thấy người thì lênxe xuống ngựa, kẻ thì cơm không có ăn, áo không cómặc !

-Tôi cũng đồng ý với em, chúng ta không thểchấp nhận sự bất công. Nhưng hiện tạiđâu có nơi nào có sự công bằng tuyệtđối. Có thiên đường là nơi lý tưởngnhứt nhưng chỉ dành riêng cho người đãchết rồi ! Còn trên trái đất nầy thì chỉ cócái hạnh phúc tương đối thôi. Để so sánhhai chế độ, tôi nhắc cho em nhớ câu nói nầycủa ông Churchill -"Chế độ tư bảnbất công ở chỗ phân chia sự giàu có khôngđồng đều, còn chế độ cộngsản rất công bình vì nó chia rất đều sựnghèo đói "

Nó ngồi trầm ngâm hồi lâu:

-Thầy không biết mới nói vậy chớ trongđó có tới mười hai cái tự do, tám thứquyền lợi. Mấy ảnh nói với em khi cách mạngthành công, mình sẽ được sung sướng lắm!

Tôi nghe xong, biết ý nó đã quyết, nhưng cốvớt vát:

-Em phải biết ở dưới miếng mồithơm, luôn luôn có cái lưỡi câu thiệt bén!Đừng để bị dối gạt bằngnhững lời hứa hẹn mơ hồ...

Nó cắn chặt môi, mắt chớp chớp không nói.Tôi nắm lấy tay nó, thiết tha:

-Nếu ở trong lớp, tôi biết có đứa nàonghĩ như em vừa rồi thì không cản đâu! RiêngQuì, tôi coi như mấy đứa em ruột trong nhà, tôithấy có bổn phận phải nhắc nhở. Nghe tôinói, Quì ơi, đừng có dại dột phiêu lưu.Tuổi trẻ máu nóng lắm, phải suy nghĩ kỹtrước khi dấn thân. Kẹt vô rồi là ra khôngđược. Cái gì mình sắp làm phải nghĩ tớihậu quả. Đừng để lỡ lầm rồimới nói câu -" phải chi hồi đó ..."

Nó ngồi bất động, ánh mắt xa xôi,diệu vợi. Rồi nó cúi xuống, lượm mộtcục sỏi, chọi mạnh xuống mặt hồ,phủi tay đứng dậy:

-Cám ơn thầy thương mà chỉ dẫn, emsẽ nghe lời...

°°°

Cũng may mà thằng Quì không nghe theo tôi nên khi tôigặp lại thì nó đang bắt đầu bướcthẳng trên con đường tương lai sáng trưng.Mới có mấy năm xa cách, Quì thay đổi hẵn ra.Đầu đội nón tai bèo, chân mang dép râu, bên hông đeokhẩu súng ngắn, vai mang chiếc bóp da. Nó ngồitại cái bàn của ông Hiệu Trưởng, thân thể cóhơi ốm hơn lúc trước, cộng thêm nét dàydạn, đen đúa, phong sương. Duy cặp môi và ánhmắt thì khác nhiều. Cặp môi thâm hơn. Vẻtrưởng thành, già giặn hiện rõ trên khuôn mặt.Những ngày đầu tháng năm, biểu ngữ cờsao đầy phố. Trường tôi cũng đỏrực một màu cờ máu. Ông Hiệu Trưởng,vốn đã nhỏ con, bây giờ gầy tóp lại. Cáicà-vạt thường ngày không còn. Ông lại bỏ áo rangoài, chưn mang dép, coi cũng có vẻ giác ngộ cáchmạng. Duy có Hiếu già, vẫn áo bỏ trong quần,chưn mang giày da, tay cầm cặp sách như lúc còn đidạy. Mặt anh bình thản, không buồn không vui. Anh emchúng tôi, buổi sáng đó, đến ghi danh trình diệnvới Quì. Nó đại diện Ty đến tiếp thutrường sở. Ông Hiệu Trưởng kề tai tôinói nhỏ như tự trấn tỉnh:

-Cũng may Quì nó đến tiếp thâu trườngmình, người lạ thì mệt hơn. Dầu sao thìcũng là học trò cũ, anh em mình cũng không có làm gìbậy...

Quì thấy chúng tôi lục tục kéo đến,chạy ra chào hỏi niềm nỡ. Nó gật đầuchào tôi, thái độ cũng y như xưa:

-Em cũng có ý trông thầy nãy giờ. Lâu quá gặplại mấy thầy, em mừng lắm. Không ngờ ngàynay đất nước lại độc lập, thanhbình. Thầy Điền hơi khá hơn lúc trước,còn thầy Hiếu thì y như xưa, không có gì thayđổi...

Tôi cảm thấy hơi yên tâm. Ông HiệuTrưởng dè dặt:

-Anh Quì chỉ cho tôi biết cách thức làm sổ sáchgiấy tờ cho đúng cách...

-Thầy đừng lo. Sổ sách trường thìcũng đơn giản, không có gì khó khăn đâu.Để em làm cho mỗi thầy giấy trình diệnđể tiện việc đi lại

Anh bạn giáo sư nhạc, người đỡđầu cho Quì ngày xưa, sung sướng hớn hởra mặt. Anh coi cái vinh dự của Quì như của chínhanh.. Anh khoa tay giửa đám đông giáo sư, nói bô bô:

-Hồi Mậu Thân, tôi xúi nó theo cách mạng đó.Phải nghe lời người ta theo "nguỵ " thìbây giờ chết ngắc rồi !

Anh nói trơn tru, gọn lỏn. Tay chống nạnh,mặt nghinh nghinh qua tôi. Tôi cảm thấy nhột quá. Anhngó ngang ngó dọc, thấy Hiếu già quần áo chỉnhtề, đi dọc theo hành lang, vẫn từ tốn,chững chạc, anh lẩm bẩm cốt để Quìnghe:

-Mẹ, giờ nầy mà còn khệnh khạng, cáibịnh tiểu tư sản vẫn không chừa !

Quì nghe rõ nhưng không nói. Tôi không biết nó nghĩ gìtrong đầu. Bảy năm không tiếp xúc làm sao tôiđoán được những đổi thay. Tôi nhìnlại cái bàn viết, cái tủ đựng hồ sơ,mấy cái ghế dành cho khách vẫn y chỗ cũ. Cáibản đồ Việt Nam vẫn treo trên tường.Cái cờ hiệu đoàn Hoàng Diệu ngày xưa tôiđặt thêu ở Sài Gòn vẫn còn đó. Duy có mộtsự thay đổi nhỏ. Ông Hiệu Trườngđứng ở dưới, còn thằng Quì thì ngồiở trên. Tôi đứng sau lưng ông HiệuTrưởng nghĩ quẩn nghĩ quanh, sực nhớtới câu nói của một chánh trị gia -"sau bấtcứ một cuộc cách mạng nào chỉ có thành phầnlãnh đạo thay đổi, còn nhân dân cũng hoàn là nhândân". Như vậy ở trường Hoàng Diệunầy, ai thuộc thành phần lãnh đạo ? Ai là nhândân?

Tôi, Hiếu già, các bạn giáo sư nam nữđược sắp hạng ở cái chỗ nào ?

Còn chỗ nào nữa, tụi tôi đâu phải là nhândân. Quì lại gần tôi:

-Thầy đừng có lo. Chánh sách bảy điểmcủa chánh phủ lâm thời đã ghi rõ ràng, ngườita phải thi hành cho đúng. Hơn nữa, nếu gì thì còncó em. Hỗng lẽ em lại không giúp được chomấy thầy chút ít gì sao !

Sau đó gần một tháng, quả nhiên Quì đã giúpcho anh em giáo sư chúng tôi. Nó khiêng dùm cho ông HiệuTrưởng cái ba lô bự, tay xách thêm cái xắc tay dùm choHiếu già, đưa tụi tôi thẳng lên xe nhà binhđể đến trại học tập. Nó nắm taytôi từ giả:

-Thầy đi bình yên ! Học tạp một thờigian ngắn rồi về ! Ở trại đầyđủ tiện nghi, thầy đừng sợ thiếuthốn. Nếu có dịp, em sẽ đến thăm...

Nó móc túi trên túi dưới, cuối cùng lôi ra gói VàmCỏ còn phân nữa, nhét vào túi áo tôi, nói ngập ngừng:

-Thầy hút cho ấm khi đi đường...Tiếc quá, em chỉ có bấy nhiêu !

Tôi không biết hút thuốc nhưng vẫn lấy chonó vui. Cái bao thuốc dẹp lép nằm trong tuí áo sát bênngực, lòng tôi chừng ấm lại. Lúc xe gầnchạy, chợt nhớ lại khung trường thân yêu tôiđã gần mười năm dạy ở đó, dặnvói với Quì:

-Ở trước thư viện, tôi mới trồngbốn cây bông điệp, mùa nắng nầy nếu khôngtưới, sợ nó khó sống, em nhớ dặn chú Cânnhớ chăm sóc, coi chừng dùm thầy...

Khi xe đã chạy, một anh sĩ quan ngồi bêncạnh nói với tôi:

-Thầy giáo lo xa quá, đất trống bây giờdùng để trồng khoai lang, khoai mì, rau muống, ...cònchỗ nào mà trồng bông...

°°°

Thằng cha nói bậy vậy mà trúng quá. Sáu tháng sau, tôiđược trở về với miếng giấy phóngthích nhỏ bằng bàn tay có ghi câu: " Không thời hạnquản chế " Phước đức ông bàmười đời còn sót lại. Số tôi còn hơiđo đỏ sau cuộc bể dâu. Tôi đi trên conđường từ nhà đến trường, thấyngười ta đông như ngày hội. Thiên hạ túa rađường để bán quần áo cũ, chén dĩa,giày dép. Tôi không tìm thấy nụ cười trên cácgương mặt xanh xao, héo úa đó. Mặt tôi thì cũngkhông hơn gì, tàn tạ, thê lương. Trong đầu tôinhớ đến Hoàng Diệu rõ nét. Cái cổngtrường có giàn bông giấy, cái hồ nướctrồng sen trước phòng ông Hiệu Trưởng, cácdãy hành lang dài hun hút... và nhứt là Quì, cái phao hy vọng màtôi sẽ phải bám vào.

Tôi gặp ngay chú Cân ngồi ở băng đáthảnh thơi. Sân trường được chia ranhiều khoảng nhỏ trồng rau lang, trồng cải.Cái giàn bông giấy bây giờ là giàn mướp lá xác xơ.Ngôi trường vẫn như xưa nhưng có gì xa lạquá.

-Thay đổi nhiều quá hả chú Cân ?

-Thầy có biết tin ông Hiệu Trưởng mình bâygiờ ở đâu ?

-Khi đi tôi với thầy Hiếu ở chungtrại. Ông Hiệu Trưởng được đưađi nơi khác xa hơn, từ đó tới giờ khônggặp nữa.

Tôi đi vào câu hỏi chánh;

-Quì làm việc có dễ chịu không chú Cân ? Sáng nay tôimuốn gặp nó có chút việc. Mới đượcvề bỡ ngỡ quá, cái gì cũng xa lạ..

Chú Cân trố mắt nhìn tôi, ngạc nhiên:

-Thầy không biết gì sao ? Quì đã nghỉ việc,về Cái Tắc làm ruộng. Tội nghiệp anh Quì,tuổi trẻ nhưng đàng hoàng, có tình có nghiã. Ngheđâu không đủ bằng cấp để làm HiệuTrưởng, Ty kêu về cho làm việc văn phòng, bịchèn ép hoài, nên buồn xin thôi. À, thầy có cần vô vănphòng gặp anh Chuyên, Hiệu Trưởng mới không ? Ôngnầy ở ngoài Bắc vô, tốt nghiệp ĐạiHọc Sư Phạm Thanh Hoá, mười mấy tuổiđảng rồi đó !

Sau màn giới thiệu lý lịch xếp mới, chúchép miệng:

-Gốc mạnh lắm, em ruột anh Hồng,Trưởng Ty mà...

Tôi lắc đầu, từ giả chú Cân, đưamắt nhìn lướt qua sân trường lần cuối.Mấy cây bông điệp trước thư viện cóđược vài lá non nhưng èo uột quá. tôi tựhỏi chừng nào nó mới trổ bông. Tôi thèm thấynhững cánh hoa đỏ rực trên cành vào những mùa bãitrường. Cái ước ao có chú xíu đó mà cũng khôngđạt được. Chắc là vĩnh viễn tôikhông thể đi dạy lại. Quì nó cách mạng như vậycòn bị bỏ rơi, huống chi tôi. Cũng may là cònđầy đủ đầu, mình, tay chưn mà vềcày ruộng ở Chương Thiện. Trong khi đóhằng triệu, triệu thằng Quì khác đã phơixương trắng hếu ở dọc TrườngSơn, ở rải rác khắp nơi trên đấtnước...

Tôi miên man nhớ đến những đêm vănnghệ học sinh, Quì mập mạp với giọng canồng nàn. Tôi nhớ đến hai câu thơ nó đãviết trong cuốn sách giáo khoa. Tôi muốn gặp lạinó không phải để nói chuyện văn chươngchữ nghiã như kiểu "Ba năm trấn thủlưu đồn" mà là nói với nó một chân lý tầmthường nhứt:

-Quì ơi "Em đừng có buồn ! Đừngmong làm hoa hướng dương, suốt ngày ngướcnhìn mặt trời hoài, mỏi cổ lắm. Cũngđừng thèm làm đá xanh cứ phải lótđường cho người ta đi. Em phải nhớmột điều, vì lý tưởng cao cả, chúng ta cóthể chấp nhận hy sinh thân xác để bón lúa,chớ đừng bao giờ dùng nó để làm phân bón chothứ cỏ dại sinh sôi nẩy nở. Em làngười có lòng đối với đất nước,hãy giữ vững niềm tin, đừng đểlầm lạc lần nữa trong đời. Ngày nào toàn dânđứng lên phát cỏ dại, hy vọng lúc đóthầy trò mình sẽ có mặt ở tuyến đầu,nhớ nghe Quì !