Tây Du Ký Hồi 1 - Phiên âm

Tuồng hát bội Nôm đa hồi thế kỷ 19

 

Tây Du Ký (Hồi Một, phiên âm nguyên hồi)

 

西  遊  演  傳

 

Tác giả:  Bùi Hữu Nghĩa

Phiên âm: Nguyễn Văn Sâm & NguyệnHiền Tâm

Giới thiệu và chú giải: Nguyễn Văn Sâm

:

 

 

 

 

Tổngquan: Năm 1952, ở tận cực Nam nướcViệt là tỉnh Châu Đốc, ông Nam Cư Nguyễn Đình Triêm, một người cháu nội củaNguyễn Đình Chiểu, khi giới thiệu tiểu sử Bùi Hữu Nghĩa trong quyển Bùi Hữu Nghĩa, Thơ Văn và Vở Tuồng Kim ThạchKỳ Duyên có nhắc đến hai tuồng hát bội TâyDuMậu Tòng của Bùi HữuNghĩa. Tuy ông Nam Cư không nói gì đến nguồn tài liệu dẫn đến sự tuyên bố nầy,nhưng với cung cách làm việc của ông, chúng tôi tin tưởng  rằng lời xác quyết trên mang nhiều giá trị khả tín cho đến khi có ai đó trìnhlàng bằng chứng nói khác đi. Trước tới giờ, một vài tác giả khi nói tổng quátvề hát bội cũng có nhắc đến tuồng Tây Du,nhưng không nhắc gì về tác giả, cũng không dẫn chứng một câu nào của tuồng đồsộ 100 hồi (độ 4000 trang) nầy. Lý do là tuồng còn ở dạng chữ Nôm và hiện tạichỉ Thư Viện Trường Viễn Đông Bác Cổở Paris lưu tồn được một bản viết tay thôi, không ai thấy ở đâu nữa một bản nàokhác. Tuồng quá dài, sao chụp được toàn bộ cũng khá vất vã, phiên âm cũng mệtmà đọc hết chắc cũng ngất ngư, cho nên giới thiệu toàn bộ chưa chắc đã hữu íchvề mặt giải trí… Chúng tôi tùy theo hoàn cảnh và khả năng phổ biến của mình mà giới thiệu từng hồi một, không nhứtthiết đi theo thứ tự nào, độc giả cũng không nhứt thiết phải đọc nguyên văntừng hồi sẽ được chúng tôi phiên âm sau nầy. Không nhứt thiết vì hát bội là thểvăn xa xưa lời lẽ đã cao kỳ mà văn chương lại nhiều chữ cổ xưa khó hiểu tường tận.Giải quyết phần nào tình trạng đó bước đầu chúng tôi xin giới  thiệu tóm lược và nêu ra ý nghĩa mỗi hồi khicó  thể được.

Cũng xin nhắc lại là tác phẩm được nhiều người thưởngthức của Trung quốc vào Việt Nam dưới thểvăn xuôi viết bằng Hán Văn. Người Việt ở những thế kỷ 18-20 mô phỏng theo đólần lượt theo thời gian tạo nên nhữnghình thức văn nghệ khác nhau:

a.       Thế kỷ 18 đầu19 viết lại thành tuồng hát bội vìthời nầy loại văn nghệ trình diễn phổ biến đó chẳng những ăn khách lại còn gầnnhư là thể loại giải trí độc nhứt. Từ đây ta có những tuồng như Tây Du Ký, TamQuốc Chí, Kim Thạch Kỳ Duyên, đi tiên phong và sau nầy xuất hiện cơ man nào lànhững tuồng pho như Chinh Đông, ChinhTây, Bình Liêu hay nhưng tuồng đồ HàmHoà, Đinh Lưu Tú, Trần Trá Hôn, tuồngthầy Sơn Hậu.. Hầu hết những tuồng trong sưu tập hơn ba mươi tuồng mà ThưViện Hoàng gia Anh Quốc tặng cho chánh phủ VNCH trước năm 75 đều là tuồng xuấthiện ở giai đoạn đầu thế kỷ 19….

b.     Sau giai đoạn tuồng thì đến thời đại của truyện-thơ tức là trích đoạn hay diễnnguyên một câu chuyện trong tác phẩm Trung quốc ra thơ. Ban đầu là thơ thất ngônĐường luật, trước 18, sau đó là lục bát ở cuối 18 sang đầu 19. Giai đoạn nầy làthời nở rộ của nhưng truyện thơ phóng tác rất có giá trị như Đoạn Trường TânThanh, Phan Trần, Nhị Độ Mai, Lưu Nữ Tướng, Trung Quân Đối… có thể kể thêm LụcVân Tiên… Đó là thế kỷ 19, khi người dân thích nằm nhà ngâm nga, trong thâm tâmẩn tàng khuynh hướng đề cao sự biền ngẫu, tính ước lệ và sự nói ít hiểu nhiều củađiển cố, thành ngữ. Họ lúc nầy đã bớt đi nỗi say mê trống kèn và rạp hát của hátbội như người của thế kỷ trước.

c.     Đầu thế kỷ 20, khi tiếp xúc với Tây phương thì hình thứctruyện thơ lui bước, nhường chỗ cho truyệnvăn xuôi viết bằng Quốc Ngữ. Truyện Tàu lúc nầy lan tràn vì dễ đọc, dễ hiểu.Những nhà xuất bản như Đức Lưu Phương, Tín Đức Thư Xã… phổ biến loại nầy đến cảnhững vùng hẽo lánh của cả nước. Những nhà Nho như Phan Kế Bính, Đông Châu ngoàiBắc, những nhà văn tiên phong như Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắt, Tô Chẩntrong Nam, đua nhau dịch, in truyện Tàu.

d.     Dĩ nhiên sau đó thì là giai đoạn của truyện Tàu dưới dạngtuồng cải lương (1923-1985), video

Tuồng Tây Du Ký mà chúng tôi dự định phiên âm nằm trong giai đoạn đầutiên của sự xâm nhập truyện Tàu vô nước Việt. Vấn nạn đặt ra là ta có nên bỏ cônglàm chuyện nầy trong thời điểm hiện tại?

Câu trả lời tùy theo nhãn quan văn hóa, văn học hay chánh trị. Cũng cóthể là quan niệm tồn cỗ hay tân tiến. Riêng chúng tôi khi làm công việc rất ítđược khích lệ nầy chỉ vì lý do thấy vàng rơi nên tiếc mà thôi.

Vâng, tác phẩm của ông bà mình xưa nên coi như vàng của toàn dân, khôngnên để cho rơi mất theo thời gian chỉ bởi vì chúng ta cách xa với người xưa vềcảm quan thưởng thức cũng như trình độ văn chương dính dáng với vốn cỗ.

(NVS, TX, 2008, CA, 2015)

 

Linh căn dục dựng nguyên lưuxuất,

Tâm tánh tu trì đại đạosanh.

 

Hồi một, cảnh một.

 

 

 

[Giáo đầu:]

          Âu vàng vững đặt,

          Đuốc ngọc cao giơ.

          Trên trời đã năm gió mười mưa,

          Dưới đời lại chín châu một mối.

          Quyền chưởng sát nhân gian phước tội,

          Mỗ chức phong Đại Lý Nhãn Thần.

          Sự Đông Châu đã rõ mười phần,

          Về Kim Khuyết tâu qua Thượng Đế.

          ( Thượng Đế ra...)

Lại nói:

     Thần Lý Nhãncúi tâu ngọc bệ,

     Vâng lờivàng thăm Thắng Thần Châu.

     Thấy trongchâu có một non sâu,

     Tên non ấygọi rằng Hoa Quả.

     Khí trời đấtchung linh rất lạ,

     Trên đá tiên,sanh một thạch hầu.

     Tạ tứ phươngthuở gã cúi đầu,

     Kim quangnhãn xạ xông Ngưu Đẩu.

     Nay thủythực thảy đồng nhập khẩu,

     Khí kimquang thế cũng chẳng nhiều.

     Thần bái tạLinh Tiêu, vọng linh đài chỉ phán.

Ngọc Hoàng:

                    Dưới hạ giớivật sanh thiên vạn,

                    Thạch Hầuchăng  thiên địa trữ tinh.

                    Vậy thần mâulinh nhãn (1-2) riêng minh,

                    Thử thườngsự há tua quái dị?

Lạinói:

                   Lịnhtruyền hạ phong biền vũ kỵ,

                  Ủng hồng vân viễn giáthinh không.

 

Hồi một, cảnh hai.

 

ThạchHầu xướng:

Tam dương khai thái sản quần sanh,

Tiên thạch bao hàm nhật nguyệt tinh.

Tá khí hóa hầu toàn đại đạo.

Giả tha danh thú phối đơn thành.

Nội quan bất thức nhân vô tướng.

Ngoại hợp minh tri tác hữu hình.

Lịch đại nhân nhân giai thuộc thử,

Xưng vương xưng thánh dụng tung hoành.

Lạinói:

Đá non tiên sanh hạ tướng hình,

Mỗ đại hiệu Thạch Hầu thị dã.

Ngao Lai quốc vốn đà sanh hóa,

Hoa Quả sơn thiệt chỗ nhàn du.

Chốn thần tiên nào kể xuân thu,

Cùng viên hạc say vui ngày tháng.

Lạinói:

Rày trời hãy còn đương hạn hán,

Truyền chúng hầu tẩy trạc khê trung.

Cùng nhau đều ngang dọc giữa dòng,

Nào khác thuở tùng âm tỵ trứ.

(Thạch hầu và các khỉ cùng nhảy múa...)

NhứtHầu:

Vâng Thạch hầu truyền dạy,

Đồng xướng khúc du khê.

cùng hát:

Hảo khê lưu, hảo khê lưu,

Dụng ngã tung hoành khoái viễn du.

Tẩy trạc nhứt thời (1-3) trần cấu tĩnh.

Thừa lương toại ngã tựu khê đầu.

Lạinói:

Trong khe đà tỏ biết cạn sâu,

Đầu nguồn hỡi chữa thông bao nả.

(Cùng quỳ...)

Lại nói:

Xem bạo bố phi tuyền rất lạ,

Nước chảy hơn hồng thủy thao thiên.

Ai nhảy vào hình thể đặng tuyền,

Chúng tôi sẽ tôn làm vương vị.

(Thạch Hầu nhảy ra kêu lớn...)

Thạch Hầu:

Ngã tiến lai thậm dị thậm dị,

Dụng nhữ đẳng hảo khan hảo khan!

(Thạch Hầu nhảy xuống suối, -lên chỗ khác- trồi đầulên quan sát...)

Lại nói:

Giang san kỳ dị giang san,

Cảnh vật lạ lùng cảnh vật!

Khái vô thủy vô ba kinh lật,

Cánh hữu quang hữu nhãn khả quan.

Có thiết kiều một tòa rõ ràng,

Trong cầu ấy thông vào thạch huyệt.

Lại nói:

Quyết tới nơi cho biết,

Thử thạch huyệt dường bao?

Ấy nhân gian làm những thuở nào,

Trong lại có một nơi thạch kiệt?

Thậm dị thậm dị, đại kỳ đại kỳ!

Hoa Quả sơn lai thử hà thời,

Thủy Liêm động động thiên tại thử?

Kiến liễu nan thăng tình tứ,

Khán lai bất giác hân hoan!

Lạinói:

Vọng kiều ngoại đào thân,

tương chúng hầu khán quá!

(Nhảy ra ngoài cầu, kêu các khỉ....)

Lạinói:

Đại tạo hóa đại tạo hóa,

Thậm dị kỳ thậm dị kỳ!

CácKhỉ:

Trong ấy có vật (1-4) gì?

Thạch hầu:

Vào cùng nhau thời biết!

Lại nói:

Cửa trước đà không nước biếc,

Nhà sau lại có non xanh.

Hoa Quả sơn há dễ ai tranh,

Thủy Liêm động dầu ta cư trú.

CácKhỉ:

Xem mọi điều mỗi đủ,

Nhìn mọi chốn mỗi xinh.

Đồ vật dường có kẻ dành,

Khéo sẵn đó dầu ta sở dụng.

Thạch Hầu:

Mỗ vấn lai hầu chúng,

Sao lời chẳng thấy tin!

Rằng nguồn đầu ai tới đặng toàn,

Thời tôn nấy cao đăng vương vị.

Nay ta đã vào nơi linh địa,

Thêm đến miền thâm xứ động thiên.

Sao chúng ngươi tọa thị điềm nhiên,

Hà bất bái ngã vi quân thượng?

Nhứt hầu:

Lời kia còn ghi tưởng,

Vua nọ dám đơn sai.

Chúng tôi dầu đặng chốn an bày,

Nhờ đại lực tầm nơi linh địa.

Nay chúng tôi ra bái,

Tôn vi Thạch Hầu vương.

Thạch Hầu:

Danh hiệu ta rày đã triệu chương,

Ẩn thạch tự xưng vi mỹ tự.

Lại nói:

Chúng ngươi khá phản hồi cựu xứ,

Ngày mai đều tề tựu Hoa Sơn.

 

Hồi một, cảnh ba.

 

Viên hầu, Gấu hầu, Mã hầu:

Chúng ta tua khá phân ban, (1-5)

Tựu hầu Mỹ Hầu ngô chúa.

Mỹ Hầu:

Vả chúng mỗ tuy rằng sơn thú,

Song nay đà có biết tôn ty.

Khá phân thượng hạ chỉnh tề,

Đồng tựu Hoa Sơn hội yến.

Lại nói:

Yến kim nhựt thành vi vô hạn,

Chúng ta tua xướng khúc hoan thanh.

Cùng xướng:

Sơn hề mạc mạc thủy thương thương,

Dụng ngã nhàn cư nhật nguyệt trường.

Lễ tửu sơn bô bày án tịch,

Chuẩn vân Bồng Đảo thị tiên hương.

 

Hồi một, cảnh bốn.

 

MỹHầu:

Chúng ta đều thọ khí âm dương,

Song thoát được trần duyên Phật thế.

Sớm chơi non Hoa Quả,

Chiều lại động Thủy Liêm.

Loài phi cầm đâu dám đua chen,

Đảng tẩu thú thảy đều kinh sợ.

Ta an hưởng thiên phò địa trợ,

Khoát tay các biệt mấy thu.

Lạinói:

Nhưng lòng còn nhiều nỗi cay chua,

Vậy phiền não khôn cầm lệ ngọc.

CácKhỉ:

Sao đại vương than khóc,

Chúng ta khó tư lương.

Ngày ngày chơi cổ động tiên hương,

Tháng tháng dạo Thần Châu phước địa.

Áng lợi tỏa danh cương vô lụy,

Vòng lưới thưa phép nhặt nào vương.

Chốn yên hà mặc sức ngang tàng,

Sao ngô chúa hỡi còn (1-6) ưu lự?

HầuVương:

Chúng ta thiệt tương an vô sự,

Dầu nghiêm điều, mật pháp bất câu.

Sợ ngày sau vãng cảnh tang dâu,

Ắt bị gã Diêm vương lão tử.

Huống nhứt đán hoàng tuyền viễn khứ,

Sao đặng làm vật giữa nhân gian?

(Các hầu nghe đều nín thinh biểu lộ vẽ buồn...)

Các Khỉ:

Tai mới nghe phân thuyết lời vàng,

Lòng bỗng khôn cầm lệ ngọc.

Sợ nỗi họa lai lâm mộc,

E khi biển khởi tang điền.

Tương huề nhứt nhập hoàng tuyền,

vô lộ phản hồi bích lĩnh.

Viênhầu:

Tua hoan hạnh tua hoan hạnh,

Vật ưu sầu vật ưu sầu!

Nay đại vương thâm lự viễn đồ,

Thử sở vị đạo tâm khai phát.

Vả vạn vật ngũ trùng chấn tác,

Ai thoát vòng sanh tử nguy vong?

Có chăng Tam Đẳngdanh trùng,

Bất thú Diêm Vương lão tử.

HầuVương:

Trùng Tam ĐẳngViên Hầu phân thử,

Sao thoát vòng sanh tử cùng thông?

Viênhầu:

Phật dữ Thần, Tiên kể giả tam,

Nhân nhân giai thức thế thường đàm.

Dũ hồi tỵ quá vô sanh diệt,

Thọ đẳng càn khôn khởi viết phàm?

HầuVương:

Phật dữ Tiên nghe thế thường đàm,

Tại kim nhựt quân vu hà sở?

Viênhầu:

(1-7) Vật gì cũng ở trong trời đất,

Nhưng Thần Tiên thời biệt ngoại càn khôn.

HầuVương:

Văn ngôn hỷ động tâm nguyên,

Thính thuyết hoan đằng phế phủ!

Ngày mai sẽ trường từ cố thổ,

Quyết vân du hải giác thiên nhai.

Cao đăng thọ vực xuân đài,

Tựu thử trường sanh bất tử.

CácKhỉ:

Ngày mai ắt đại vương viễn khứ,

Ta lấy gì tống tiển một phen.

Chúng ta tua vượt lĩnh đăng sơn,

Tìm phẩm quả đại khai diên án.

 

Hồi một, cảnh năm.

 

Lạinói:

Đã có dị hào mỹ thiện,

Lại thêm sơn dược hoàng tinh.

Thiết thạch bàn thạch trác phân minh,

Trần tiên tửu tiên hào cụ túc.

HầuVương:

Ta ngại nỗi phù sanh câu thúc,

Vậy tìm nơi tiên cảnh diên trường.

Chúng ngươi lưu trú Hoa hương,

Vật phụ cố sơn viên hạc.

CácKhỉ:

Đại vương đã tìm nơi đại lạc,

Chúng tôi xin dâng lễ tiển hành.

(Các hầu dânghoa quả, rượu thịt...)

Cúi đầu bái tạ đăng trình,

Xin chớ quên lòng thần tử.

HầuVương:

Non Hoa Quả các ngươi cư xử,

Chốn thần tiên mặc mỗ phao tung.

Chỉ non xanh bẻ một cành tùng,

Làm bè nổi qua miền đại hải.

 

Hồi một, cảnh sáu.

 

HầuVương:

(1-8) Phưởng phất hải trung đại lại,

Kình ba đáo xứ uông dương.

Học người đời xướng khúc lang thương,

Theo dòng nước qua miền nam ngạn.

xướng:

Hải khoát sơn cao hề, cổ phiến tây phong,

Du dương tùng phiệt hề, dụng lãng ba trung.

Thần tiên hà xứ hề, tung triều khế hội,

Khoái ngã tâm trung hề, siêu việt trần lung.

 

Hồi một, cảnh bảy.

 

Lạinói:

Bè tùng đà khỏi chốn bể trung,

Tựu nam ngạn thăm nghe thời sự.

Ngưông:

Sanh trưởng Nam Châu hải chữ,

mỗ nay hiệu viết Ngư Ông.

Sông Ngô bể Sở thú nồng,

Áng lợi, trường danh tánh lạt.

Xem vừng ô đã lạc, ca một khúc nghe chơi.

ca:

Non xanh xanh, nước xanh xanh,

Non nước dầu ta dưỡng tánh tình.

Bãi hạc doi le ngày đủng đỉnh,

Ngao cò sự thế mặc ai tranh.

Lạinói:

Ghé thuyền lại bên doành,

Tới thị thành xem thử.

HầuVương:

Vậy riêng tưởng thần tiên cư xứ,

hay đây là Chiêm Bộ Châu!

Có ngư nhân thả lưới buông câu,

Giả mãnh thú đoạt tha y phục.

Ngưông:

Ngỡ dân sự thú mầu bất túc (1-9)

Hay thị thành vật tốt hữu dư!

(Hầu vương rống lên một tiếng hù dọa ngư ông, lấy yphục của ngư ông mặc vào...)

HầuVương:

Sao thằng nầy dường đã ngất ngư,

Thủ y phục xuyên ngô thân thượng.

Vậy mới gọi nhân gian hình tướng,

Vậy mới rằng nhân vật Trung Hoa.

Tới thị giềng theo kẻ vào ra,

Học ngôn ngữ lễ nghi cho biết.

NguSĩ:

Nghe khoa mục lòng mừng khôn xiết,

Văn võ điều ứng cử băng-xăng.

Ta tuy rằng không chút tài năng,

Cũng lướt tới họa trúngkhoa vô dụng!

(Văn nhân mang sách, võ nhân mang cung đi ra...)

VănNhân:

Nghe chín bệ hải hà lượng rộng,

Mở hai khoa văn võ cầu hiền.

Ai ai đều dặm liễu đua chen,

Ngươi cùng tớ đường hòe chỉ gót.

(Hầu vương hiện ra...)

HầuVương:

Khuyên chúng bây đừng vội,

Để ta hỏi một lời.

Đi việc chi hay cả đi chơi,

Có vật chi gì cũng lạ?

VõSĩ:

Thằng ở đâu khoáy[1]quá,

Buông lời nói dị kỳ.

Nay chúng qua ứng cử ra thi,

Cung với sách sao ngươi không biết?

VănSĩ:

Nói chi đứa không hay không biết,

Điều đi ta kẻo tối kẻo trưa. (1-10)

NguSĩ:

Kíp đi thi kíp đi thi,

May đặng thưởng may đặng thưởng!

(Hầu vương núp bên đường, hỏi...)

HầuVương:

Hai tên trước bôn mang thượng lộ,

Một thằng sau mày cũng đi đâu?

NguSĩ:

Thằng nầy sao tựa dạng vũ hầu,

Mỗ ứng thí giữa miền hoa hạ.

HầuVương:

Thi việc chi nói đã,

Thời tao mới cho đi!

NguSĩ:

Người ta thi văn võ tế thì,

Tao quyết trúng bất cầu văn đạt.

HầuVương:

Bất cầu đạt lời ngươi có khác,

Cũng là thi để dụng làm chi?

NguSĩ:

Chữ vô cầu nghĩa cũng nhiều bề,

ngươi đã hỏi thời ta mới nói.

Người hiền sĩ ẩn trong rừng núi,

vua ban mời gọi chữ vô cầu.

Còn như ta có biết chi đâu,

Cũng ra đó thi khoa vô dụng.

HầuVương:

Họa may gặp thánh hiền lượng rộng chăng chớ,

Lời nó phân ôn gẩm khó nghe.

Lạinói:

Trối thây ai khó dễ làm chi,

Ta đi tới gặp điều chi nữa.

(Những người phụ nữ họp chợ...)

PhụNữ:

Ớ các chị, ta đều đichợ,

xem mặt trời thế cũng(1-11) hầu trưa.

Bỏ ghét khi thiếu mắmthiếu dưa,

Nay mặc sức mua tôm muacá.

HầuVương:

Xem việc chi cũng lạ,

Người ta họp rất đông.

Ớ người kia lại mỗ hỏi cùng,

Việc chi những đàn bà xao-xác?

Thịnhân:

Thằng ở đâu bá-láp,

Sao không biết chợ đông!

Mặt mũi rất lạ lùng,

Hèn chi mà hỏi giả.

HầuVương:

Hỏi: xóm chợ mà làm chi?

Thịnhân:

Xóm chợ đây bán tôm bán cá,

Xóm chợ phường đi bán đi buôn.

Cũng có người cầu lợi đến muôn,

Cũng có kẻ xâm hao đến vốn.

Lạinói:

Nói làm chi việc bán,

Về kẻo trẻ nó trông!

HầuVương:

Trong nhân gian nhiều việc lạ lùng,

Có tới đó bây chừ mới biết!

 

Hồi một, cảnh tám.

 

HầuVương:

Kể từ thuở Hoa Sơn viễn biệt,

Qua Nam Châu tám chín năm dư.

Ngỡ Thánh Thần Tiên Phật sở cư,

Hay những đứng công danh lợi lộc.

Dốc học đạo bao nài khó nhọc,

Nổi bè qua đại hải Tây dương.

Nghe Hóa Châu nhiều chốn thương lang,

Ắt có đứng thần tiên tại thử.

TiềuPhu:

Ngưu Hóa Châu (1-12) cư xứ,

Mỗ hiệu viết Tiều Phu.

Chốn yên hà biết mấy xuân thu,

Miền khê hoắc say vui nhàn hạ.

Hồ ma tử ấy cơm no dạ,

Khương tùng bì nọ áo che thân.

Sơn khê viên hạc vốn gần,

Lợi lộc công danh biếng thốt.

Lạinói:

Mãn nhàn đàm sự cũ,

Hay bóng ác hầu trưa.

Vội vàng lựa chốn đường xưa,

Hái cũi đổi vài bữa gạo.

Lạinói:

Tuy chẳng thông màu đạo,

Song cũng biết lời ca.

Non sâu mặc sức ngâm nga,

Hay dở dễ ai đàm tiếu.

ca:

Sùng triều phạt mộc hưởng đinh đinh,

Tần tảo ngư hà tự thích tình.

Thế thượng hồng trần song nhỉ yểm.

Vân biên ký tỵ nhứt thân khinh.

Tương phùng tác xứ tiên lang đạo,

Nhàn lai nhã luận thử hoàng đình.

HầuVương:

Bầu thế giới ta đà từng trải,

Xem cảnh nầy dường đạo xinh xinh.

Tòa cao sơn tú lệ đa tình,

Trong có tiếng ca ngâm đạo vị.

Dầu chẳng loài cao sĩ,

Thời cũng đứng thần tiên.

Từ đây nhảy bộ diện tiền,

Tới đó hỏi han thời rõ.

(Đuổi theo...)

Lạinói: (1-13)

Hưu đoạt lộ, hưu đoạt lộ!

Vọng thần tiên vọng thần tiên!

Đệ tử cầu vốn thị đa niên,

Tiên ông nhứt tâm thừa cố.

(Tiều phu để củi xuống, đáp lễ....)

TiềuPhu:

Hưu thác ngộ, hưu thác ngộ!

Ngã phàm nhân, ngã phàm nhân!

Ngã bần cùng y bất toàn thân,

An cảm thụ Thần Tiên nhị tự?

HầuVương:

Nhĩ bất thức thần tiên chi sự,

Hà ca ngâm thuyết xuất Thần Tiên?

TiềuPhu:

Sự Thần Tiên ngã thuyết hà ngôn,

Hành lộ thượng nhĩ sàm thuyết liễu?

HầuVương:

Nhĩ ca viết phi Tiên tắc Đạo,

Luận thử Hoàng Đình.

Hoàng Đình kinh đạo đức chân tình,

Nhĩ phi Đạo như hà thuyết đắc?

TiềuPhu:

Bây giờ xin thưa thiệt,

Lời đâu dám không hư.

Có Thần Tiên dữ ngã lân cư,

Lời dặn bảo buồn thì ca vịnh.

Nay hái củi đương khi buổi vắng,

Thêm cơn sầu nên dắng tiếng ca.

Nào hay người đã nghe ra,

Tôi mới dám thưa qua lời thiệt.

HầuVương:

Ngươi cùng kẻ Thần Tiên lân tiếp,

Sao chẳng lo học đạo tu hành.

Đặng tầm đường bất tử trường sanh,

Ai khứngchịu Diêm (1-14) phù tróc đoản?

TiềuPhu:

Lời ngươi phân thậm đáng,

Khốn vận mỗ đa nan.

Vả cha đà sớm tách suối vàng,

Còn mẹ hỡi náu nương nhà bạc.

Thêm nỗi nhiều phen cơ khát.

Vậy nên hái củi dưỡng thân.

Trong thờ thân chưa đặng tấc phân,

Sao học đặng tiên nhân đại đạo?

HầuVương:

Nghe lời ngươi báo cáo,

Thiệt hiếu hạnh đích nhân.

Ngươi đà dốc chí sự thân,

Phiền chỉ  Tiênnhân sở tại.

TiềuPhu:

Ngươi vốn đã có lòng phỏng bái,

Ta nỡ nào còn dạ ẩn tàng.

Chốn linh đài phương thốn cao san,

Miền tà nguyệt tam tinh có động.

Có một đứng Thần Tiên đạo thống,

Danh Bồ Đề đạo hiệu Tổ Sư.

Môn đồ đắc tam tứ bách dư,

Nhĩ tòng thử Nam hành bất viễn.

HầuVương:

Ơn người đã chẳng nài tuấn hiểm,

Chỉ cho ta nhiều nỗi ân cần.

Cùng nhau lộ thượng phân khâm,

Đặng mỗ trông chừng thạch động.

 

Hồi một, cảnh chín.

 

BồĐề:

              ĐạiGiác Kim Tiên Cấp Cấu Tư, (1-15)

              Tâyphương diệu tướng Tổ Bồ Đề.

              Bấtsanh bất diệt tam tam hạnh,

              Toànkhí toàn thần vạn vạn  từ.

              Khôngtịch tự nhiên tùy biến hóa,

              Chânnhư tánh dụng vị chi hưng.

              Dữthiên đồng thọ nghiêm trang thể,

              Lịchkiếp minh tâm đại pháp sư.

Lạinói:

Ngụ linh đài đã mấy sương dư[2],

Mỗ đạo hiệu Bồ Đề thị dã.

Màng bao kẻ nổi thuyền Bát Nhã,

Thường dạo chơi mấy đóa từ bi.

Trầm ái hà thương bấy ngu dân,

Khai giác lộ cứu người chướng nghiệp.

Tưởng môn đệ chưa qua bửu phiệt,

Khai mê đồ thường mở kim thằng.

Nay có người ngàn dặm băng chừng,

Gã dốc chí tầm tiên học đạo.

Tiên đồng ngươi thụ giáo,

Ra tiếp rước trần nhân.

Để pháp sư nhàn tựu Tây tân,

Cùng đệ tử đăng đàn giảng đạo.

HầuVương:

Trải mấy dặm gối còn chưa mỏi,

Thấy một tòa động phủ rất xinh,

Lướt xem cho biết chân tình.

Lạinói:

Chập chùng đá non cao vòi vọi,

Quanh co dòng nước chảy xinh xinh. (1-16)

Giúp linh viên hạc lanh-chanh,

Diệu cảnh dấu người quạnh-quẻ.

Trên đoái thấy đá bia cao quải,

Trong nầy đề mườichữ phân minh.

Đọc qua mới biết tánh tình,

Để vậy khôn thông nghĩa lý.

đọc:

Linh đài phương thốn sơn,

Tà nguyệt tam tinh động.

Lạinói:

Khán liễu hoan tâm dễ động,

Suy lai hỷ khí nan câm.

Đã tới nơi lĩnh tuấn cao thâm,

Ngồi chờ vậy dám đâu tao nhiễu.

(Có tiên đồng mở cửa, bèn kêu lớn.)

TiênĐồng:

Đây vốn thiệt linh sơn cảo-cảo

Sao có người tao nhưỡng phân-phân.

HầuVương:

Tôi vốn người học đạo phàm nhân,

Đâu có dám môn tiền tao nhưỡng.

TiênĐồng:

Ngươi vốn thiệt có lòng học đạo,

Nên thầy ta dạy mỗ viễn nghinh.

Chớ khá nài tuấn hiểm lộ trình,

Theo cùng mỗ đăng đàn thính giảng.

(Hầu vương sửa áo quần cho ngay ngắn rồi theo tiênđồng.)

HầuVương:

Châu cung bối khuyết chân vô hạn,

Dị thảo kỳ hoa lạc bất thăng!

 

Hồi một, cảnh mười.

 

HầuVương:

Chốn dao đài đoan tọa cao bằng,

Đó có phải (1-17) pháp sư hòa thượng?

TiênĐồng:

Người thiệt Bồ Đề hiển tướng,

Ngươi tua bái hạ khuynh thân.

HầuVương:

Thần đệ tử phàm trần, phàm trần!

Nguyện tôn sư chỉ giáo, chỉ giáo!

BồĐề:

Ngươi vốn đã có lòng học đạo,

Ngươi tánh danh quán chỉ hà phương?

HầuVương:

Tôi vốn không danh tánh quê hương,

Ngụ Đông Thắng Thần Châu địa giới.

Non Hoa Quả ấy nơi qua lại,

Động Thủy Liêm là chỗ nhàn du.

BồĐề:

Truyền Tiên chúng môn đồ,

Tương phàm trần cản xuất.

Thiệt những lời hư sức,

Vậy cũng gọi tu hành! 

(Hầu vương vội vàng lạy lấy lạy để.)

HầuVương:

Lời tôi vốn thiệt chân thành,

Cúi lạy tôn sư nghiệm lại.

BồĐề:

Nghe lời ngươi rất trái,

Sao còn gọi chân thành.

Thắng Thần Châu biết mấy lộ trình.

Nam Chiêm Bộ lưỡng trùng đại hải.

Sao tới đặng Tây Ngưu địa giới,

Nhữ chân thành tua khá thuyết lai.

(Hầu vương cúi đầu bày tỏ...)

HầuVương:

              Đệtử biêu (1-18) dương đại hải nhai,

              Đănglâm Tây Bộ thập niên tài.

              Natừ vạn thủy thiên sơn hiểm.

              Tráquá thần tiên nguyện sát lai.

BồĐề:

Việc lộ trình nhữ thuyết an bày,

Nhữ bẩm thụ như hà tính khí?

HầuVương:

Người đều có thị phi liêm sỉ,

Tôi vốn không nhân vật tính tình.

Ai mắng tôi tôi chẳng mạn khinh,

Ai đánh mỗ mỗ không sân hận.

BồĐề:

Việc tánh khí ngươi đà bất cận,

Cha mẹ ngươi ngươi có biết chăng?

HầuVương:

Cha mẹ đâu mà nói mà rằng,

Trời đất trổ nên hình nên tướng.

Bạch:

              HoaQuả sơn trung nhứt thạch sanh,

              Tíchthiên niên hậu sản ngô hình.

              Cốvô phụ mẫu sanh thành đức.

              Bịthực tiền do nguyện kiến minh.

BồĐề:

Nhĩ chân thiên địa trữ tinh,

Quả thị càn khôn lưu tú.

Nhĩ khởi thân nhứt tẩu,

Ngô thí khán hình hài.

(Hầu vương đứng dậy, đi chậm, chạy...)

Lạinói:

Nhĩ thân tuy bỉ lậu trần ai,

Chân tiền kiếp hồ tôn thực quả.

Tựu thân thượng (1-19) thủ tha tính thị,

Ngô tứ lai nhĩ tánh viết Hồ,

Nhưng mà hồ tự là thủ nghĩa mần ri:

Bạch:

              Hồtự tòng tha khứ thú thiên,

              Chânvi cổ nguyệt tự vi hồ.

Tán:

              Cổnguyệt thị tam tự, chẳng là mần ri:

              Cổgiả lão dã,

              Nguyệtgiả âm dã.

              Lão,âm bất năng hóa dục,

              Giáonhĩ tánh Tôn.

Bạch:

              Tôndiệc tòng tha cổ thú thời,

              Nhưngnhiên tử hệ cá nam nhi.

              Hệtình bản thị anh ty tế.

              Chínhhợp anh nhi chí khí kỳ.

HầuVương:

Văn ngôn bất giác dương mi,

Thính thuyết hoan đằng hỷ khí!

Tôn sư đà tứ lai tánh thị,

Xin thùy tình mệnh nhứt tiểu danh.

BồĐề:

Pháp mệnh danh theo dõi ngũ hành,

Cửa ta vốn có mười hai chữ.

Hải dỉnh ngộ chân như trí tuệ,

ngươi chính dùng chữ Ngộ phân minh.

Tôn Ngộ Không tên gã chớ khinh,

Cho biết nẻo pháp danh không trọng.

HầuVương:

              Xưaluận thú cầm dụng,

              Nayrõ ràng nhân vật tánh danh.

              Lạytôn sư rộng mở lòng lành,

              Khiếnchúng mỗ (1-20) cải lần thói dữ.

Lạinói:

              Tuyđã đành-rành tánh tự,

              Songchưa biết nẻo tu hành.

              Cúidâng tuổi thánh hà linh,

              Cẩntiến hạ hồi phân giải.

 

(Hết Hồi 1)

 

 

 

 

 

 



[1] Khoáy là tiếng gọn của từ trái khoáy: Nói/làm… nghịch đời.

[2] Sương : Năm.