Truyện Nôm  Nữ Tú Tài, phần 3. Về từ cổ và cách nói xưa

NguyễnVăn Sâm phiên âm theo bản Nôm do nhà Kim Ngọc Lâu 金玉楼giữ bản gỗ, khắc in năm Ất Hợi (1875) người Minh hương sống ở tỉnh Gia Định là DuyMinh thị 惟明氏soạn thành truyện, nhà phát hành Hòa Nguyên Thạnh Điếm 和源盛店ởChợ Lớn nhập và phân phối ở Việt Nam. Bản khắc gỗ thực hiện bên Tàu, tại tỉnhViệt Đông 粤東,xứ Phật Trấn 佛鎮(Quảng Đông). 


1.Bìa truyện Nữ Tú Tài bản Nôm Phật Trấn. 2. Bìa sách của Paulus Của, 1907. 

Trong  bản Nữ TúTài, ta thấy có nhiều từ ngữ khó hiểu cũng như nhiểu cách nói hơilấn cấn, chói tai, có thể coi như là tác giả đã dùng chữ không đượcđúng cách. Những trường hợp nầy nếu thỉnh thoảng ta cũng gặp ở những tác phẩm khácthìđó là vết tíchcủa từ cổ và cách nói xưa. Chúng hiện diện không phải như nhữnghạt sạn, hạt cát trong thức ăn thức uống mà là những di vật quí quákhứ trao lại cho các thế hệ sau để hiểu rõ hơn về nhiều mặt của ngườiđời trước, ít nhứt là về mặt sử dụng ngôn ngữ.

Trong lời kết của bài Trung Dung Đoản Ca, làm bài giới thiệu cho cuốn sách dịchquyển Trung Dung ông Trương VĩnhKý viết như sau: (Tứ Thơ. No 2. Trung Dong, nhà in Nguyễn Văn Của, Saigon, 1925, tr. 3.)

Học thì ý nhiệm phải hay,

làm sao cho biết mảy may ít nhiều.

Ta nay còn phải gắng theo,

khuyên ai chẳng khá ra điều trễ công;

Còn nhiều lẽ khó ở trong,

nói sao cho hết xin lòng ai suy;

Làm gương cho kẻ hậu tri,

người đời không học có chi quí mình;

Việc chi tacũng làm thinh,

chỉđiều văn học gìn tình phương nam...

Ngườiđọc bây giờ hơi ngờ ngợ khi thấychữ ta dùng ở thể số ít, chỉngười nói, tức là ông Trương Vĩnh Ký, trong khi đầuóc nghĩ rằng chữ ta phảidùng ở thể số nhiều, hàm nghĩa chúng ta. Ông Trương Vĩnh Ký đã dùng cách nói xưa, ngày nay nếu dùng như vậy sẽ bị coi như phách lối, vô lễ, kiểu tađây.

ÔngPaulus Của cũng không khác. Trong lời tựa quyển Ca Trù Thể Cách, ông nói với độc giả: (Ca Trù Thể Cách, Quốc Âm Thi Tập, Sàigòn, nhà in Commercial MarcellinRey, 1907)

Ta thấy có nhiều bàivăn nôm như ca trù, văn tế, thơ ngủ ngôn,bát cú, của các tay văn chương làm ra, talấy làm hay, ta muốn in ra cho ainấy xem chơi, cho biết tiếng mẹ đẻ cũng có điệu hay, chẳng đợi chữ nho mới cóvăn chương.

Bìnhnhựt ta hổ về sự lấy của người làmcủa mình, hoặc lượm lặt đồ cũ lấy ý riêng mà canh cải, nhứt là sợ tam sao thấtbổn, lạc ý kẻ làm văn.

Nhưngvậy lấy sự ta gọi là hay mà cho ainấy nếm chung, thì cũng là điều ta có ý chung cùng với mọi người.

Trườnghợp chữ ta trong bài thơ nổi tiếng Ta Về của thi sĩ Tô Thùy Yên thì khác.Ta ở đó là tác giả nói với mình chớ không phải nói với người khác như haitrường hợp viện dẫn ở trên.

Trườnghợp chữ tôi cũng tương tợ. Có sựthay đổi trong cách dùng từ khi tác phẩm ra đời cho đến gần đây.

Chữ tôi xưa ngườicon có thể dùng để nói với cha mẹ, ông bà, quanchức, người  trọng tuổi.... Nay trongtrường hợp nầy được thay thế bằng chữ con, cháu hay một từnào khác có vẽ lễ phép hơn từ tôi.Trong Nữ Tú Tài, bản Phật Trấnchữ tôi được dùng nhiều lầnvới anh em bè bạn, vợ chồng, nhưng có những trườnghợp khác với chúng ta ngày nay:

Chẳng hạn, người trẻ nói với người lớn tuổi vàcó chức phận:

Khuyên mời quan lão tướng công tạmngồi.

Chotôi gởi một hai lời...

Hay:

Lễnghinh hôn cậy tôi đưa,

Phiềnquan lão tướng chọn giờ nghinh xe.

Con gái nói với cha mình:

Nàng bèn vào lạy tướng công,

Giải niềm gia sự thủy chung tự tình.

Rằng:  Tôicó việc tại kinh..’

Cháu gái nói chuyện với ông ngoại:

Nàng thời vào gởi phú ông,

Rằng tôi thấy gã con dòng họ Văn,

Thiệt là tài tử văn nhân,

Dung nghi diện mạo thập phân chỉnhtề,

Trú bên tiểu xá tạm thời,

Lòngtôi cũng muốn kết hài hợp duyên.

Chữ tôi, chữta dùng như vậy tôi gọi là cáchdùng xưa. Xưa vì ngày nay không nói như vậy nữa.

TrongNữ Tú Tài còn có nhiều từ xưa khác.

Chữ vời cónghĩa là trong khoảng, từ nầythường đi với từ xa, tuyệt đểchỉ khoảng cách thiệt xa, tuốt trên cao nên thường được hiểu theo nghĩarộng là xa, (Vời trông còn tưởng cạnh hồngxa xa. Kiều.)nghĩa nguyên thủy trong khoảng ítcònthấy, Nữ Tú Tài có câu:

Họ Văn có Nữ Tú Tài,

Conquan Tham Tướng tuổi vời xuân xanh[1].

Tuổivời xuân xanh là tuổi trongvòng thanh xuân. Chữ vời dùngtheo cách nầy  nay ta gọi là cáchdùng xưa của một từ với nghĩa xưa.

t: Chữ nầy đã xưa mà còn ít thấy, có nghĩa thiệtlà, chắc chắn là. Ta gặp từ ốt trong tuồng Tây Du Ký trong một vài trường hợp.Bản quốc ngữ Đinh GiaTrinh, chữ đích đã được thế chỗchữ ốt,chúng tôi chưa giải thích được sự thay đổi nầy.

Nươnglong: Ngực, nơi nhạycảm của phụ nữ. Nơi dễ phân biệt phụ nữ và nam giới. Hồ Xuân Hương: Yếm đào trế xuống dưới nương long.Nữ Tú Tài dùng hai lần từ nầy:

Dẫu mà khép nép ra vào

Nươnglongsai dậy, má đào hây hây.

Dễmà gìn giữ đêm ngày...

Và:

Khác chăng một chút má đào,

Nươnglongnó đã cao cao bề dầy.

Songhiềm: Nhưngvì.

Quan sơn ngàn dặm quản chi,

Song hiềm thiếu kẻ nữ nhi theo hầu.

Khôngnhưng: Không có chuyệngì.

Bây giờ người phải oan khiên,

Khôngnhưng người sá ngoan phiền đến ai.

Elệ: Sợ, ngại, khôngphải mắc cở, thẹn thùng như nghĩa ngày nay. Từ e lệ dotừ lệ mà ra:

Conngười quốc sắc nữ tài,

Cònliều chẳng ngại đường dài dặm xa.

Huống chi thân kẻ nhưng ta.

Mìnhđừng e lệ đường xa nẻo gần.

Hòa: Cùng với

Nhác xem bên góc chiếu hoa,

Tiểuhàm khóa ngỏ, người hòa vắng tanh

Cakhong: Ngợikhen, vui vẻ.

Bước vào lạy tạ tổ tông,

Họhàng thân thích ca khong vui cười

Vả: Vả lại, tuy nhiên, từ vả nay chỉ dùng khi đi vớichữ lại, không đi một mình như trong tác phẩm xưa:

Vảthêm quốc sắckhuynh thành,

Đãhay nghề ngựa lại rành nghề cung

Chỉnhchiện:Ngay ngắn, nghiêm trang, đứng đắn. Từ nầy thiệt là xưa, thấy trong tac phẩmtrước thời Nguyễn Trải.

Đêm ngày luyện tập thi, thư,

Tưphong chỉnh chiện, ngôn từ thongdong.

Mỉncười:

Soạn Chi thấy nói mỉn[2]cười,

Rằngâm dương vốn khí trời bẩm sanh

Âu:

Từ xưa âuvới nghĩa phải là, hay là  gần đây còn dùng nhưng đi chung với chữlà:

Âu ta quyết lấy một người,

Kếtlàm phu phụ sánh đôi phỉ nguyền.

Hề: Tức hề đồng, chữ nầy mất nghĩa nguyên thủy, chỉcòn nghĩa mới chỉ diễn viên chuyên chọc cười khán giả:

Tử Trung từ tạ học trường,

Theohề về tỉnh lưỡng đường xuân huyên.

Thân:Thưa trình, thưa chuyện, lời nói chuyện với người trên trước.

Việc rồi chàng hãy về đây,

Lễ nghinh hôn ấy già bay thân giùm.   

Trong quyển QuanÂm Tế Độ Diễn Nghĩa Ca (Nôm, 1906) cũng có chữ thân nầy (Tả tướng khấu tạ bẩm thân,thôi thôi vua chớ ân cần lo toan. Trg 27 hay Diêm La ngũ điện bẩm thân, Tiểu vương ti chưởng xa gần hảigiang. Trg 90 hoặc: Tam Quang trực chỉ thiên tào, Tòa tiền đặt gối tâu vào bẩm thân. Trg 183..)

Từthân nầy ít thấy vì xưa, khó hiểu nên thường bị ngộ nhận với thưa.

Tập tành:Học hành, học tập. Nên chú ý là chữ học tập theo nghĩa chính của nó, không phảinghĩa đã bị bóp méo.

Đêm ngày tư tưởng một mình,

TuấnKhanh lại đến tập tành nghề văn.

Rắp, rắp ranh: quyết chí, có ý định,mong muốn:

Lòng ta rắp lấy một người,

Bói tên thời lại lạc loài khác tên.

Nguyên tôi giao với Tuấn Khanh,

Chịchàng tôi có rắp ranh Tấn Tần.

Chẳng rắp:Không có ý định, không rắp tâm:

Nàng bèn than thở sự duyên,

Rằnglòng chẳng rắp mà nên lạ lùng.

Từcổ và cách nói xưa trong Nữ Tú Tài còn nhiều nữa, chúng tôi xin nhường lại sựkhám phá thú vị nầy cho người đọc.

Ràcẩn thận một tác phẩm xưa nào ta cũng thấy từ cổ, nếu không tìm thấy thì tácphẩm đó hoặc là không xưa lắm, hoặc là đã bị sửa lại. Trường hợp các thơ truyệnvới ấn bản bình dân của mấy nhà xuất bản ở Chợ lớn là thí dụ. Trường hợp nhữngbản dịch truyện Tàu của Mộng Bình Sơn cũng là một thí dụ. Muốn tìm từ cổ taphải tìm trong sách xưa viết bằng chữ Nôm, nếu viết bằng chữ quốc ngữ thì xuấtbản chậm nhứt là hai ba thập niên đầu của thế kỷ 20.

TruyệnNữ Tú Tài quốc ngữ còn sót lại mộtsố từ cổ, người phiên âm trước đây đã gạn lọc bỏ đi một số, tuy rằng khôngnhiều so sánh với hai trường hợp nêu trên.

Nhữngngười làm chuyện nầy có công hay có tội với văn hóa dân tộc?


[1] Bản Phật Trấn và bản Thành Thái giốnghịt nhau đoạn  mở đầu, nên chữ vời PT chắc là .

[2] Mỉncười 𠲶: Nay nói mỉm cười. Tôi dùng mỉn theo tự điển Huình Tịnh Của (Mỉncười: Nhích môi một thí màcười, không cho thấy miệng cười. Đứa dại hay cười cả tiếng, người khôn mỉn cười. Mỉn cười: Cười chúm chím) và theo âm chữ Nômmiễn. Văn quốc ngữ đầu thế kỷ thường dùng chữ mỉn, đặc biệt trong quyển Hiệp Nghĩa Phong Nguyệt 俠義風月của Nguyễn Chánh Sắt, Saigon, 1931.