Cung Tích Biền những năm 2000

Cung Tích Biền,công dân của miền Nam với thân phận đigiữa hai lằn đạn - ông có hai người anh, một “anh là Cộng sản chết không mồ,em là Quốc gia chết không tìm ra xác” (người tập kết, người bị tù “cải tạo”,hai cái chết đều do Cộng sản Hà-Nội gây ra!). Trước 1975, ông từng bịnghi ngờ nếu không vì xuất thân từ vùng kháng chiến chống Pháp thì cũng vì giađình ông, cũng như nhiều người khác có anh em ở chiến tuyến đối nghịch; đời sĩquan của ông không hanh thông, từng bị chỉ định nơi cư trú và giải ngũ sớm. Nạnnhân cả sau biến cố 30-4-1975, ông đã phải chịu đựng và câm lặng hơn 30 năm.Nhưng dù muốn dù không, Cung Tích Biền cũng đã chứng kiến nhiều cảnh bạo lực, “nhântình éo le” và chướng tai gai mắt. Tình cảnh nạn nhân và chứng nhân đó đã đượcông đưa vào sáng tác, đã là nguồn, là chất liệu làm nền cho văn-chương CungTích Biền. Trong các sáng tác khi có thể và không nhiều, ngọn bút của ông mangnặng tính nhân bản và không pha hận thù, nếu có chăng là suy tư, hài hước tìnhđời, là nhắc nhở để tránh, để khỏi... Dùng ẩn dụ, ví von xa xôi, xa xưa vàkhông gian khác, lạ lẫm thay vì hiện thực dễ dàng thấy sao nói vậy. Đề tài thờinhiễu loạn, “gió chướng”, do đó không hề thiếu, quan điểm và phê phán ông cũngkhông thiếu, nhưng biến thành con-chữ và đến được với người đọc là vấn nạn màmột nhà văn có bản lãnh như Cung Tích Biền không thể không đắn đo. Đó có lẽ làlý do khiến những sáng tác hiếm hoi của ông sau 1975 khi còn ở lại trong nướckhá cô đọng, kiệm lời, không thừa chữ, không phải lý lẽ cho ra lẽ, nhưng từ khiông định cư ở Hoa-Kỳ, hết “kiểm duyệt”, hết phải “sống trong phòng đợi”, thìngòi bút ông như ngựa mất cương, tha thiết hơn, dài hơi hơn và phê phán triệtđể hơn. Người đọc sẽ thấy diễn biến đó từ những truyện trong Thằng Bắt Quỷ (Tân Thư, 1993) đến Xứ Động Vật (“tântruyện”; Nhân Ảnh, 2018) và gầnđây, Mùa Xuân Cô Mơ Bay (CA:Thao Thao, 2019).

Kinh nghiệm sống cũng như các biến cố lịch sử cận đại đã được và tiếp tụchiện hữu, “sống-còn” trong các sáng tác của Cung Tích Biền, và ông xác tín trong một phỏng vấn của Đặng Thơ Thơ rằng“viết là một cách tự cứu rỗi, cũng là cách tôi an tử dần dà. Đó là Mệnh”.Vì theo ông, “Một văn chương hoàn chỉnh chính là Một Nạn Nhân./ MộtHoàn chỉnh Văn chương là tật nguyền ráp lại./ Một thường-trực-trả-lời, tronghoàn cảnh Việt Nam hôm nay, phải là một trung-thực-chịu-nạn./ Văn chương có thểhuyền ảo, nhưng trách nhiệm của Nhà văn không hề là một hư ảo”(Trích từ CungTích Biền nói chuyện với Đặng Thơ Thơ”,24-3-2008: https://damau.org/17335/ctb-noi-chuyen-voi-dang-tho-tho).

Bài này chúng tôighi lại vài nhận xét về hai tác phẩm mới nhất của Cung Tích Biền: Xứ ĐộngVật Mùa Xuân Cô Mơ Bay là những sáng tác độc đáo mang tính CungTích Biền những năm 2000. Thật vậy, các truyện của tập Thằng Bắt Quỷ, dùviết sau 1975 vẫn được Cung Tích Biền viết cẩn trọng hình thức, chữ dùng. Bútpháp ẩn dụ hoặc chạm đến dị thường, huyễn hoặc, nhưng trung dung trong bày tỏcũng như tâm trạng và còn cho thấy niềm tin mang tính nhân bản và hữu-thần, thùhận, hằn học có chăng cũng vẫn mang tính văn hóa phổ quát, tức đã bắt đầu rờibỏ văn hiện-thực của những tác phẩm viết trước năm 1975. Với Xứ Động VậtMùa Xuân Cô Mơ Bay, Cung Tích Biền đã nhất quyết rời xa “nền” vănchương dẫu sao cũng còn “lịch sự” của Thằng Bắt Quỷ. Hai tập sau, ôngviết với sự chân thành của nạn nhân trí thức, nhưng nay toàn trí toàntâm, viết như không còn gì để mất. Xứ Động Vật được ghi là “tân truyện” gồm 3 liên-tiểu-truyện XứĐộng Vật, 2 liên-tiểu-truyện khác vàmột truyện ngắn, viết về xã hội Việt Nam thời hậu-1975 và “hội nhập”, “mở cửa”dưới ngòi bút sắc sảo và rất nhân bản. Mùa Xuân Cô Mơ Bay lànhững mảnh rời đời sống và tư duy củangười Việt đôi bờ.

Hai tập truyện nàyđược viết ra khi còn ở trong nước – mà Cung Tích Biền cho là “bị rất nhiềurủi ro, thiệt thòi mọi mặt trong đời sống, nhưng trong vị thế một người Cầmbút, Tác giả lại được hưởng nhiều may mắn, về phần “thu gom thực tế”“ (LờiThưa của Tác Giả, MXCMB, tr. 9) và cập nhật chỉnh sửa sau này ở ngoài, CungTích Biền đã đưa người đọc đến một thế giới văn chương khác, dị thường và quỉquái và nói chung dễ khiến người đọc có cảm tưởng choáng ngợp rùngmình. Cung Tích Biền đã sử dụng người chết, ma quỷ để nói chuyệnngười sống và cảm nhận hiện thực. Cái Chết ở Cung Tích Biền trở nên siêu thực,mang mặt nạ “lãng mạn”, “văn chương” cho cái bi đát, cùng khổ hôm nay. CungTích Biền thường xuyên chiêm nghiệm về nỗi chết và những cái chết cùng những “kiểu”chết. Ông nói đến như thân thiết với cái Chết mà ông xem như là một tất yếu, mộtxác-thực lớn nhất mà từ đó, trên đó, con người có thể dựa vào để dựng xây cuộcđời, tức là cuộc sống đem ý nghĩa đến cho cái Chết hay nói khác, vì cái Chết màcuộc sống có ý nghĩa.

Conngười sống và kiếm tìm tâm linh nhiều hơn, hay cái Chết là một lối thoát đángđược chuẩn bị hơn? Trang Tử chủ trương vui cái sống gắn liền với cái Chết. Ngoạithiên Chí Lạc chép truyện Trang Tử gõ bồn, theo đó sống chết cùng một thể, thếnên cứ vui sống cái sống gắn liền với cái Chết. Cái Chết hiện hình trong chiếcđầu lâu khô-khốc bên đường của cái sống. Cái Chết kề bên như trời che đất chở,và cái sống kề bên cái Chết, đầu lâu nói với Trang Tử trong mộng: chết còn vuisướng hơn sống nữa. Và thế là quên hẳn cả cái sống cùng cái Chết. Đó là đạt đượcthuật chí lạc đạt tới Đạo và quên hẳn cái sống và cái Chết. Nhưng dĩ nhiên khácvới thân phận người Việt.

Xứ Động Vật: Sau 1975, miền Nam bị kẻ Ác cưỡng chiếm, đã trở thành “Xứ độngvật”, “Xứ toàn-chuồng” đầy ác thú: “Cuộc sống đã được cái lưới thép an ninhthắt chặt, bủa vây từng ly hiện hữu vật chất, lẫn một sợi mơ tưởng trong tâm hồnmỗi con người. Cuộc sống đã là toàn bộ trần truồng. Bày ra trước đám đông cảcái lỗ chân lông riêng tư. Phải làm sao mọi người hiểu rằng trong đầu của anhlà cái khuôn đúc cài sẵn, tư tưởng được phát đều chỗ công cộng” (tr. 93). Mộtđại-úy cộng-hòa trốn trại tù tìm gặp Hiền, người yêu cũ và Tảo, đứa con tám tuổi,đã bị hàng xóm nay được ác thú chỉnh huấn, trở thành “đàn quỷ dữ” lùng bắt: “Trongcái nền gọi rằng “công lý” đỏ tươi dưới ánh trăng úa bạc quê nhà về sáng, nó nhờnhờ ma cỏ, như đâu trong một phiên tòa chốn địa ngục (...) Một giọng nói lanh lảnh,đanh như thép: “Phải đập nó một trận thôi bà con ơi. Thằng ngụy này da thịt bằngsắt như vỏ xe tăng Mỹ.”

Chỉmột lời hô hoán khích động bất ngờ là biển bão trở nên sóng thần. Một lúc thôikhông ai nhận ra anh. Chỉ loáng, người yêu xưa của Hiền, thần tượng một thời bỗnghóa màu. Con người khốn khổ như một bức tượng sáp bôi kín máu là máu (...) Nhữngphần da thịt anh vỡ ra dính lại trên tay, trên mặt đám người thực hiện “công lýcủa nhân dân”. Bọn này hóa Đỏ bởi máu người ... “.

Ngườiphụ nữ đau khổ tận cùng: “Hiền ôm lấy xác người. Những dây thừng quấn quanhanh nhuộm đỏ. Tóc đỏ. Áo quần đỏ bầy nhầy thịt nát. Mà làm sao thế này? Làm saolúc đầu chỉ một đôi mắt sáng, rất buồn, cũng rất hờn căm; nó cô đơn nhìn một rừngmắt cũng rực hờn căm. Mà làm sao? Một mái đầu trung niên sớm bạc trắng vì laotù trong núi trời phương Bắc, giờ đây phải chịu đựng nghìn xỉa xói chửi bới. Bỗngcái làn tóc sương ấy, từ đôi mắt rực lửa hận cô đơn ấy thét lên: “Chúng mày giếttao đi. Chúng mày mới chính là thú. Giết tao đi. Tao không bao giờ đội trờichung với chúng mày”.

Màchao ôi, những bão bùng là thoi đấm, chân đạp tập thể; rồi ai xui chúng dùngcán cuốc lưỡi sắt; từ quằn quại với một ít máu bầm chuyển qua máu vọt thànhvòi. Thay vì thấy thịt nát đã chùng tay, chúng lại cuồng máu say thù, bằm thêmcho nát, cho vụn cái khúc ruột không đâu xa nghìn dặm, mà ngay đây, cái đống đồngbào đã máu nát thịt tan...” (tr. 93, 96, 97, 98).

Liên-tiểu-truyện Xứ Động Vật MưaHồng dùng hai anh em sinh đôi Tảo và Jim đểkể chuyện khốn cùng của sinh linh đất Việt. Song sinh nhưng chiến tranh khiếnđôi ngã chia ly, người rơi rớt làm con nuôi khó nghèo trong nước, kẻ bị / đượcném lên tàu vượt biên. Số phần Tảo không may, được những người mẹ nuôi rồi bàngoại nuôi nhưng tất cả đều đã chết, Tảo phải sống lây lất, ăn mày, ăn xin, làmma đói giữa một Sài Gòn đã đổi chủ: “Trong đêm Sàigòn, Đô thành xưa, hôm nayngập mưa, từng đoàn người ma ốm o, đầu đội nón lá, trong lớp áo mưa mỏng, cònglưng trên xe đạp chở những bao tải ni lông vụn, đồ ve chai. Gió thổi ngược đánhbật cả nón bay, đến xiêu vẹo người. Bọn ma đói này là dân nhập cư từ Bắc vàoNam, từ những miền quê đói khó, không công ăn việc làm, không phải là quân cóchức quyền, lận lưng con dấu đỏ thủ trưởng rất mau chóng giàu có. Bọn ma đóinày dai sức đến khiếp. Muốn có dăm đô la trong một ngày đêm hai-mươi-bốn-tiếng-đồng-hồlàm việc chết bỏ, bọn ma sống phải vượt trên năm mươi cây số trên chiếc xe đạpcà tàng, đến bến cảng Sàigòn phía nam thàng phố, chờ chực tranh nhau mua/lượmcác loại phế liệu mang về giao cho các lò ve chai tận phía bắc thành phố, miệtHốc Môn Củ Chi.

ĐènĐa Kao mờ tối một lúc. Rồi điện cúp luôn. Tảo ngủ vùi trên băng ghế trạm xebuýt chỗ lề đường. Bỗng hắn nghe một câu chửi thề: “Đù mẹ thằng thầy chùa ngũ sắctí hon này nhường cái băng đá cho tao ngủ chút coi.” Tảo chưa kịp phản ứng đã bịthằng to bự đá văng xuống nền mưa lạnh nhơm nhớp bùn đất. Thằng to bự vật ngaymột đứa con gái đi cùng xuống cái băng đá, lột quần. Rồi hắn đút cái gì ấy vàocửa khẩu con nhỏ. Con nhỏ cười trong đêm ma” (tr. 114).

Ngườiem Việt-kiều Jim trở về tìm máu mủ, khi sắp gặp lại thì Tảo đã vừa bị bọn gianghồ giết, cũng vì giành nhau kiếm ăn và chỗ ngủ. “Xưa kia, ở vùng C., thằng bé Tảo từng chứng kiến một bọn người mắng mộtcon người là thú; rồi cùng nhau giết người bị mắng nhục không nương tay. Hômnay một đứa có tiền án giết người cướp của, đồng lõa với một tập thể cùng khắpthượng tầng, đã hạ thủ một người dám mắng chúng: “Mày là thú trong lũ thú”“ (tr.123).

Chuyệnđã được viết ra, nhưng vẫn có những sự thật bên kia bờ mà ở bên này chưa chắcđã rõ, ngay cả văn chương cũng khó lột tả hết sự thật. Theo Cung Tích Biền, “Vănchương, khó thể lột tả tận ngọn nguồn, dẫn tới. Chỉ ra chỗ di căn của hoạn nạn,hố thẳm của đọa đày trong kiếp con người, như tiểu thuyết phô bày, dù dưới ngòibút của một nhà văn đầy tài năng. Chữ nghĩa cổ kim chỉ mô tả cái vỏ của từng sốphận con người. Lắm khi tô màu một cách vô tội vạ lịch sử, chỉ làm con người mủilòng, khóc đau chốc lát, hoặc kiêu hãnh trong ngu mê dại muội, mà thôi. Mỗi việcriêng của thằng điên Tảo, hậu trường chưa muốn khép. Nó mở dần, mở dần nhữnghang động” (tr. 98, 99).

Trongliên-tiểu-truyện Xứ Động Vật Vào Ngôi, thời đảo điên “Xãhội trong hầm chuột hun khói. Nhân ảnh dị dạng. Mọi thứ bậc đổi ngôi. Cái gì lạlùng quái gở nhất cũng có thể thường trực xảy ra (...) Không có gì phải đaulòng, là đáng ngạc nhiên cả. Đó là chuyện thường ngày trên một xứ Rồng Tiên mọisinh họat xã hội đang bình thường lật ngửa, bỗng nhiên nhào đầu, lật úp cái rụp.Bộ não đang dạng tươi, bỗng một chiều được sấy khô giống nhau, trong cái lò bátquái. Một người bị nhức đau hàm dưới, nha sĩ - từng có hơn ba cái bằng tuyêndương chống Mỹ - nhổ một lúc sáu cái răng hàm trên, cả răng cấm. Bệnh nhân trợnngược mắt trắng, giãy đành đạch bất tỉnh, giống con cá lóc bị đập đầu trước khihy sinh cho bàn nhậu...” (tr. 139).

Qua cái Chết và những con người chết, Cung Tích Biền muốn mổ xẻ lịchsử cận và hiện đại. Khúc,một kiến trúc sư nay ngoài 30 tuổi, vào năm lên tám, từng “tình cờ thấy một ngườiđàn ông nhàn nhã giết vợ mình”, mà lại có những nạn nhân kỳ lạ: “Người bị giếtchừng như sẵn sàng, âm thầm thụ hưởng, như được ban một chung nước thánh”,làm như “để thoát khỏi Xứ-Toàn-Chuồng, con người có một phản ứng tuyệt vọng,như một hội chứng, rất mực phản kháng cái gọi rằng Khí-hậu-động-vật”. Người tadùng chính sinh mạng thân ái để giải quyết, chung chi cho một rủi may lúc hỗnmang” (tr. 133-4). Một “người đàn ông khởi đầu cuộc tháo rời một con người”- một người chồng muốn “tháo lồng tử sinh” cho vợ mình mà ông “từng ôm nựnghôn hít làm tình” (tr. 151). Người đàn ông sau đó bỏ các phân mảnh ngườivào bao bố “nhân ái” rồi “cất công” đi bỏ phân tán mỗi góc phố xa cách nhau mộtphân mảnh. “Nhản hiệu chính là Máu. Nỗi đau, cái Nhục phải được nhân gian nhậndiện, không lập lờ. Ông định lấy viết ghi tên trên mỗi chiếc bao:

“Phải có tiếng nói. / Không hề vô danh.
Không thể không tháng ngày.
Cuộc tự xử này không mang tính huyền thoại.
Nó là có thật trên một quê hương có thật,
đựợc tác dựng bởi một hành sự mang tính gội rửa, tháo gỡ.”
“Sống nơi này Sống cách nào cũng là một cách Chết”
(tr. 158).

Giếtvợ xong ông mới nhìn thấy đứa nhỏ 8 tuổi nhưng không nỡ giết - “Không. Nó phảiSống và phải Đợi chờ”. Ông rời nhà, bỏ Khúc lại, dặn tìm người nhàkhác; Cung Tích Biền đặt tựa cho câuchuyện là Hành Trình Minh Triết.

Ngườiđàn ông vào tù chung thân, nay thành một ông lão tâm thần, suốt ngày “vớihàm răng rụng sạch, chỉ còn hai cái lợi hôi hám, màu thịt tim tím, lão già ra sứcgặm một cục đá to bằng nắm tay. Lão thè lưỡi liếm đá. Nụ cười trắng, lão nói nướcchảy đá mòn mà con ... ‘cha liếm đá cho mòn, cho nhỏ nhỏ nỗi đau’ “. Khúcthăm nuôi, được ông xác nhận làm đúng năm xưa: “Ta đã nói rồi, ta chỉ thanhlý cái Đã-Bị-Giết. Những Công dân Xác chết. Ta không chịu được quanh ta đầy hơithở một nhung nhúc thây người. Lạy Cha, con không là thần tiên (...) Conơi tao là cha mày. Tao từng ngồi nhẵn ghế nhà trường, đã ung vữa đôi mắt vì chữnghĩa thánh hiền.Tao hiểu cái đời hạ ngươn này từ khi các hiện tượng càn khônthoạt nảy sinh từ phôi. (...) Cũng như mày không thể nào hiểu vì sao mộtkẻ sát nhân, sát từng bộ phận, giết từng con vi khuẩn trong xác người thân yêunhư tao, hãy còn vừa đang thở lại vừa đã chết trên cái Xứ-Toàn-Chuồng này. (...)Vì bọn khát máu giết triệu người chỉ xem như một rủi may lịch sử. Nó giết chụctriệu người không hề bị quy tội sát nhân. Tao giết một người, dù không thể cònmột giải pháp nào khác, cũng đã đủ sức nặng rơi tõm xuống địa ngục. Nhưng số mệnhđểu cáng không cho tao vé tàu. Chúng bỏ tao lại trên một cõi đất vừa trơ trụi vừarợn người này. Chúng hiểu rõ là tao sẽ bị băm vằm dưới nhiều hình thái vi diệukhác, lâu dài và hờ hững dưới bóng trời nghi hoặc này. Cái ngày Hôm qua, Hômnay, và mãi ngày Hôm kia sẽ đến, chúng đốt lửa người...” (tr. 161-162) –Ông sẽ chết, “tắt thở vì một cục đá tròn trĩnh chẹn ngay ở cổ họng. Thay vìnghẹn cơm ông ta nghẹn đá”!

ỞHàn Chính Khúc phát triển thuyết lý “minh biện” về Mùi: “Có phải vì mùi màcó những cái chết kia không? Có phải vì thương yêu mà kẻ thân yêu bị tàn sát?Và muốn trọn vẹn nên phải nhai nuốt cái đau thương mang hình hài kia không?”.Nhân vật “tôi” thì nghĩ rằng: “Như thế, “không đành lòng” thì phải giết ngườisao? Tôi đồng ý rằng khác mùi thì khó thể hòa đồng, mùi vô sản hay tư bản? Tôihiểu, tôi chia xẻ cái tang chế bất khả tư nghị của người cha giết vợ. Nhưngluân lý đã đóng đinh lên thuờng hằng, rắng anh có quyền tự hủy nhưng không cóquyền hủy một con người. Cái quan điểm xem con người là phương tiện, hay giảipháp e rằng không nhân văn tí nào. Cứ lùa người vào chỗ chết hàng loạt, cứ cứucánh biện minh cho phương tiện, cái đó chúng ta hình dung ra sức mạnh của một bọndã thú” (tr. 164).

TheoCung Tích Biền, “Nỗi đau đã biến thành Mùi”: “Mùi Mậu thân tre trúc che chắn.Nhưng chiếc mành thời gian không lọc được mùi. Tàn tật có thể hàn gắn. Chết chóccó thể giải thích. Mùi, nó nghìn thu”. Và Mùi Tự do bị thiêu cháy” gâyhoang mang “Tự do bị thiêu cháy. Nó là ánh-sáng-mùi tệ hại nhất trong vạnmùi. Nó ở mãi với bao la” (tr. 165, 167). Miền Nam đã trở thành “cái lồngcu ngột ngạt” và cuối chuyện thêm một xác người phân mảnh, được xem như một “cuộctrở về – không là tái sinh - của Nàng khá ly kỳ. Cái đầu, chỗ công viên, về trước.Hai cánh tay thiếu bàn tay về sau một chút. Một ngày rưỡi sau Nàng về tạm đủnhưng còn thiếu quả tim. Hai bàn chân về sau cùng. Nàng chậm chạp và khiếm khuyếtnhư Lịch sử. Cái được gọi là Lịch sử giống nòi tôi luôn là một bất toàn cho bấtcứ ai, và luôn là một Mong Đợi Hạnh phúc cho tới giờ nhắm mắt mỗi đời người...”(tr. 180).

ỞCung Tích Biền, văn-chương về cái Chết là một thứ văn không yên ổn, vì con ngườibị bứng ra khỏi đất, từ một thế giới chuyển qua thế giới khác, cõi sống/cõi chết,từ một hiện hữu bình thường đổi sang một thể-trạng không thể định nghĩa, từ “tobe” sang “not to be” (“đổi sang từ trần”). Cái Chết nói chung xưa nay vẫn là mốikinh hoàng, là nỗi sợ chính của con người : sợ cõi lạ, cõi hư vô không thể biếtvì không thể có kinh nghiệm khi sống, khi còn ở một trạng thái trước, khác. Tuytừng được xem là một cấm-kỵ, nhưng tabou cái Chết không là một đối tượng, mà làmột thứ trực giác, cảm nghiệm cá nhân. Cái Chết là một biểu tượng, là một chấmdứt; nhưng vì không phải là mục-đích tự thân, cái Chết không phải là hết, là kếtthúc một cuộc đời hay cái gì, mà là một bắt đầu khác, một sự sống khác tùy theocách cắt nghĩa của các tín ngưỡng, tin tưởng (Thiên đàng, Vương quốc trí tuệ,Trí huệ, Cõi sống đích thực!).

CáiChết nặng nề và thường trực với Cung Tích Biền; cái Chết luôn có mặt ở đó, nhưmột chứng cứ không thể bác được về những tàn độc của một loại người và sự philý của cuộc sống, của một cuộc chiến. Cái Chết và những cách/kiểu chết là nhómchủ-đề mà Cung Tích Biền đã đưa đến cho sáng tác văn-chương của ông cái nhạy-cảmrất hiện đại và một trực giác hiện sinh, thực hữu: cái Chết có mặt trong cáctruyện, trong dàn dựng hình thức, nội dung cũng như tâm lý các nhân-vật chủ chốt.

Liên-tiểu-truyện Xứ Động Vật Màu Huyết Dụ ba phần chuyệnlão Kiên, như một giải thích phân tâm về cái Chết oan trái của tha-nhân, ngườikhác. Cái Chết trở thành một đối đầu bi thảm, một thất bại, một bất công tuyệtđối, nhưng đồng thời cái Chết khiến cho cuộc sống có ý nghĩa, giá trị và cuốicùng, sự khẩn thiết phải sống và hiện hữu! Không phải vì chết mà Cung Tích Biềnnghĩ đến cái Chết, chính ra là để vượt qua cái Chết và sống! Ông đã nói đến cáiChết như là quên lãng của thân xác và có những cái Chết khiến cho cuộc sống cóý nghĩa.

Conma đàn bà tên Bóng sẽ quấy rầy lão suốt hành trình tàu đường sắt xuyên Việt, “CáiBóng đen hóa thực. Vẫn ngồi đây. Một trực diện. Mà mâu thuẫn đồng hành”. Lãodù thức, ngủ đều khó khăn nhận ra chân, hư và “ác mộng là của riêng mình, làbạn lữ, là bệnh, là thường trực cái bóng đen lơ lửng, to lớn. Nó huyễn hoặc. Nólẫn pha giữa cái thực và ảo giác. Nỗi đau nhức không rời trên sân khấu tồn tại.Lão phải thường trực đánh vật với ranh giới thực, mộng. (...) Làm saolão có thể tự khấu trừ những trò hư ảo tàn phá, ăn sâu át-xít vào những thángnăm xương máu có thực, đời lão. Khấu hao xong những trò vong mạng phung phí, đờilão chẳng còn gì. Một cục cứt trôi sông. Mà con sông lịch sử chẳng hiền hòachi. Nó đánh tan tác không còn một-đơn-vị-cứt-nào-được-riêng-cục-hòn. Tất cảhòa thành bãi rộng bùn hôi. Tập thể. Tăm tắp. Tất cả là một mênh mông hư huyễn”(tr. 188, 189).

Hóara “Kiên đã ngụy trang, đã trung hòa nỗi nhục riêng tư, vợ ngoại tình, vào mộtnỗi nhục lớn hơn. Ông đã bỏ một con sâu nhỏ vào cái môi trường nghìn triệu sâubọ, rồi phong kín, tô vẽ và tôn xưng nhãn hiệu. Cái lý tưởng nào vĩ đại đủ chebóng, hào nhoáng cho lớp sâu trùng đen. Cái lăng tẩm tổ tiên vua chúa nào rựchào quang trang nghiêm để cứu chữa, rửa sạch ung thư cho những thế hệ bị lừa.Những thế hệ lừa đã biến thành sói, cực hung hăng trong hoang mạc đồng loạiToàn-Chuồng”. Ông tự hối với con ma Bóng: “Bây giờ có thể chồng bà đã hiểura là có những nỗi nhục gấp nghìn lần cái nhục bị vợ cắm sừng. Con mụ vợ đưa đồcho thằng khác xài là chuyện nhỏ. Cả một dân tộc này bị lôi lên giường gian dâmvới những tên đồ tể, bị hôn mê bởi những lời dụ dỗ, bị chủ thuyết hôn ám ma đưalối quỷ dẫn đường. Nhục thời thế chẳng hạn. Nhục mình hát ru, tự lừa phỉnh đểtiêu pha vô nghĩa cả sinh mệnh riêng mình chẳng hạn” (tr. 192).

Saumấy mươi năm biệt tích, lão Kiên trở về làng cũ. Vẫn bên mình cái lọ xương cụtcủa người phụ nữ của đời lão. Xe ôm đưa lão đến bờ sông Thu, “Ở đó bỗng xuấthiện mờ thoáng một người đàn bà trong trang phục màu đen. Bà phảng phất như mâynúi sớm Kiên đã thấy khi ngồi trên chuyến tàu về sáng. Như cái dáng xa vắng,vàng lạnh giới thiệu cái lọ xương cụt trong toa tàu. Như cái bóng lênh đênhtrong giấc ngủ hằng đêm lão Kiên rơi rụng”. Bà kể lể: “Con đường này dẫnvề vùng tháp Chàm Mỹ Sơn đây. Tôi có một tuổi nhỏ với rêu và cỏ hoang, với nhữngđỉnh tháp lá xanh thưa và chim mùa đông. Những cơn mưa hoang mị cùng những tiếngvang động mơ hồ không thể định hướng từ dĩ vãng Chàm. Có một lần tôi thấy xácngười và máu giữa những khe đá. Những bầy dơi thiêng. Và những vỗ cánh trongkhông, khi chiều xám…” (tr. 197, 198).

SôngThu đã hơn một lần đổi bờ với những giành đất, chiến tranh. Lần mới nhất khiến “Trênbãi chiến trường dành đất tanh hôi, càng lúc gió càng mạnh hơn. Reo rẻo. Từ bờBắc vào xóm làng phương Nam. Ra đầu ngõ thấy xác người. Đêm nằm đầy ác mộng. Tỉnhgiấc là tứ phương thối hoắc. Dân bờ Nam hoảng loạn bỏ làng xóm miếu mộ già trẻnhất tề bỏ xứ mà đi. Tre trúc có hồn mà không có đôi chân, đâu thể ra đi, đànhđau đành úa. Những sinh linh, hồn phách và cội nguồn đã lỡ cắm rễ sâu trong Mẹ.Đành ở lại thì đành tan, chịu gục. Tương truyền, sau khi dân bờ Nam bỏ chạy,dân bờ Bắc được nhiều vùng đất mới, đã lập Lăng thờ quan. Là Người đã định danhlịch sử, đã tân lập địa giới mới, thông qua mùi tử khí, và xác người ngập ngụa”(tr. 200).

Cuốicùng, lão Kiên cũng tìm tới được mộ của Bóng đang bốc, được tặng cái xương tàntừ nay lão dùng làm gương soi, nhưng lão trả lại cho cô gái để bình cốt được vẹntoàn và Bóng được “giải kiếp”. Lão đã nhận ra mình có lỗi với máu xương!

Trong hai tập truyện này, cái Chết thường trực hiện diện và qui hồi quanhững hình ảnh sọ người, xương cốt, ma quỷ, ma sống chuyên hút máu,... Rồinhững chuyện ăn thịt người, ngậm xương,quật mồ, xác chặt từng khúc, xác hồn tìm nhau, sống chung, v.v. Đất nướcnay trở thành “Xứ sở Những nấm mồ hoang”, như ở Nghĩa trang Gò Dưa Sàigòn “cóâm vang âm khí, trang nghiêm rất mực, lạ lắm cái điệu đời nghêu ngao, cái ngấtngưỡng riêng nó. Nó bao gồm, thu tóm mọi sắc màu, một trần gian dị dạng đêmtrăng tỏ trăng mờ. Có bóng ma đi rảo hô hào đoàn tụ, hòa giải. Có ma hát lờithịnh nộ. Ma hưu trí già nua bảo thủ rị mọ, hoặc bần thần hối lỗi một tuổi trẻ củamình bị ung vữa, bèn tức tốc dạy cho xấp nhỏ sau này biết nhìn lại lịch sử. Rấtnhiều hồn ma thời đại. Hồn ung dung. Hồn phẩm hạnh. Ma đúng ma. Ma tuổi xuântóc xanh đã ung thư gan. Ma yên hùng vỡ sọ não do tốc độ đua xe nơi xa lộ. Mađa tình ngồi vắt vẻo trên mộ bia đêm trăng tỏ, thổi kèn xắc xô “Trở về mái nhàxưa”. Ma thời thượng, uống rượu Mỹ, ôm đàn ghi-ta Đỏ, hát nhạc Nâu thời Đổigió, “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”. Rất ư phóng khoáng chỗ lập trường. Nơiđây nắng tháng Tư chuyển mùa. Trời mất máu. Bia đá đổ mồ hôi” (XĐV. Nghiệp Chưa Hề An Nghĩ, tr. 57).Riêng mộ anh Thiếu úy T.V. Nghiệp – sinh ngày 4-8-1954 và tử trận ngày11-3-1975, gần như chiều dài của miền nam Cộng-hòa, cuối cùng đã được trùng tu.

Trong Mùa Xuân Cô Mơ Bay, Người Đi Theo Bóngcũng là chuyện người sống thân thiết thích gần người quá cố – nói như tác giả “Tiềnthân tôi ớ Cõi Ngoài”: “Trong khí hậu một xã hội bất an, tôi vẫn thích nghĩađịa (...) tôi hợp với nghĩa địa hơn những nơi đông người như cắmtrại hay hội họp, vì cái hiu quạnh, an phận, tắt giấc mơ đời, của nó”. “Tôi” cũng có chủý: “Tôi làm kẻ đi rong giữa cuộc đời tìm một phần đời đã mất. Có thể, chỉ làmột tìm kiếm, như bao tuổi trẻ đi tìm, chỉ là tìm kiếm mà thôi. Cái đích phíatrước, chính là niềm vô vọng, là ngõ huyền hư. Cuộc nội chiến còn dài lâu. Baolà cánh cửa trong khuya khoắt hãy còn khép hờ, chờ một người sẽ trở lại. Có mộtngười đã trở lại. Không đến chỗ cánh cửa chờ mong. Mà nơi mộ chí tôi thườngđến. Người con gái ấy, Túy Nha” (tr.159). Người con gái đến từ xa lắm và ngôi mộ nàng chăm sóc là một người lính.Họ bất ngờ ôm lấy nhau - “Thấy ma thì ma nó chụp liền. Ma ám mà”. Họ bênnhau qua đêm, rồi chàng đưa nàng về nghĩa trang - “tình yêu đến từ nghĩatrang và trở về nghĩa trang”, thực hư không rõ với quãng thời gian sáutiếng trong một không gian mộ chí!

Để chống cái Chết, thơ văn siêu-thực dùng con người để tra vấn sự imlặng, tìm bí mật của sự hiện diện và biến mất của im lặng. Cung Tích Biền đãtrình bày rõ ràng sự bạo-động mờ ám của những im hơi lặng tiếng và từ đóông không thể giữ im lặng. Cần phải mở miệng, lên tiếng, dù chỉ một mình! Trong nghịch cảnh và tình cảnh văn hóa, xãhội bi thảm, buồn thiu như thế, ông chủ trương “Đành lòng sống trongphòng đợi của lịch sử” như đã cắtnghĩa trong phỏng vấn của Lý Đợi năm 2007. Cung Tích Biền đã cho biếtông viết Xứ Động Vật “trong một hoàn cảnh rất khó khăn. … thời gian trước vàsau khi Tác giả bị giải phẩu ung thư tại bệnh viện PV thập tử nhất sinh. Lạiđang còn ở trong nước, dưới một chế độ độc tài, toàn trị, triệt tiêu mọi quyềntự do...” (XĐV, tr. 241).

Căn bản là chuyện tình cảm giữa người sống và người chết, liên hệ hômnay với hôm qua, mà còn là lời ta thán của những hồn oan của dân lành. Biến cốTháng Tư 1975 đã biến đổi cả một đất nước thành địa ngục và tác hại mấy chụctriệu người dân miền Nam. Ai đã từng kinh qua làm nạn nhân của biến cố lịch sưđó sẽ không bao giờ quên, mỗi lần nhớ lại vẫn bàng hoàng. Đảng Cộng sản đã làthần chết đầy ma lực dang rộng cánh tay dài hung hãn sát hại và cướp đi mạng sốngnhiều sinh linh. Chết vì lao động cưỡng bách, đày đọa, vì tù khổ sai. Chết vìnhững trận đòn thù, tra khảo tàn bạo. Chết giữa rừng thiêng nước độc của trại “cảitạo”. Chết vì đói khát, tem phiếu, kỳ thị, lý lịch. Chết nơi hoang dã của nhữngvùng gọi là kinh tế mới. Chết khi vượt biển và xuyên núi rừng tìm tự do. Chếtvì không lối thoát, vì bất hạnh, oan khiên đổ lên đầu lên cổ. Thần Chết thườngtrực ám ảnh con người sống, nhất là người Việt miền Nam sau 1975!

Nhưng trongcái Xứ Động-vật Toàn-chuồng là Việt Nam sau 1975, con cháu của “giai cấp”thắng, “Hồng Chuyên”, “quan lại triều đình” mới, tung hoành phá phách để chết,sống trong “chuồng người mênh mông thịt-chạy-thây-đưa” như để chết cho đúng vớitam-đoạn-luận. Chúng xưng là “Việt kiều nội địa” đua xe, gây gỗ, đập phá, “xãhội hóa giao cấu toàn triệt”. Để chết, như Xíu Mại. Gia đình tan nát, như củaLiu, v.v. “Bọn trẻ con nhà thế lực hôm nay có sự khoái lạc mù mờ khi bố mẹchúng là đám thiêu thân. Bọn Họ đấy, lịch sử can qua, một đời dùng nhân mạng,thân phận riêng mình, có khi cả danh phẩm của tộc họ, làn củi đun cho lý tưởng,chủ nghĩa. Ác nỗi, ngọn đèn lý tưởng, hấp lực bọn thiêu thân ấy, nay chỉ còn làmột Màu Đỏ hung hiểm và bệnh hoạn. Một cái biển máu khô” (Một Phần Khí Hậu,tr. 29).

Mùa Xuân Cô Mơ Bay là nhữngchuyện xảy ra thường ngày ở Việt-Nam hậu-1975: các trụ điện lẻ loi sau nhữngkhai thông đường đã trở thành chỗ “treo linh hồn” cho những tay lái say rượuđêm khuya, cô Chơi lấy chồng tàn phế người Hàn quốc, anh em người Bắc kẻ Nam,nay Bắc thắng trở về đòi nhà [“Chú khỏi phải lo giấy tờ chuyển nhượng cáinhà chú đang sở hữu này cho tôi. Pháp luật, công lý ở trọn nơi chúng tôi. Nộibộ chúng tôi sẽ tự làm tất. Lịch sử này, số phận các chú chúng tôi còn đầy đủquyền tẩy sạch huống chi việc giấy tờ để sở hữu một ngôi nhà” (Anh Em Cùng Một Mẹ)]. Haingười bạn thân từ nhỏ, tấm ảnh cũ tình cờ cha con Cù mới khám phá ra cha mẹCuội đã chiếm nhà mình và đuổi họ ra đường từ tháng Tư năm 1975 (Bọn Mầm).Ngành y tế bất tài, tàn ác, nguy hiểm chết người chonhững ai lỡ phải vào bệnh viện. Giá Rai, Có Những Ngày Như Thế là bútký chuyện Cung Tích Biền làm cu li cho Công ty Xây dựng số 8 tính xây một trại chăn nuôi ởGiá Rai thời cuối năm 1978 cùng Nguyễn Thuỵ Long.

Vỡ Hoang Trước Bình Minh của một hônnhân ma mị, hoài thai với mộng và màu của thời gian trong hồn người bị mộng đuổi miệt mài.... Rừng Đom Đóm là chuyện Mạnh, mộtngười đàn ông tuổi 50 lúc vợ còn sống thì thờ ơ, hành hạ vợ tới độ tàn ác; lúcvợ qua đời lại ôm thi hài vợ khóc than thảm thiết ... Khóc mưa bão suốt sáutiếng đồng hồ, Mạnh mời cô Trâm, cô gái vốn thường sơn móng tay móng chân chocác bà các cô, đến làm sắc đẹp cho vợ mình trước khi chôn cất.

Đêm Hoang Tưởng nói chuyện nơi các vùng đất của tháp Hời vàng tự nhiên xuất hiện vànhiều, trồi lên cả mặt đất đưa đến hiện tượng dân đi tìm vàng rồi có công ty và cả cướp cạn. MộtLão ông xuất hiện mắng đám cướp cạn Takhông phải là tiên sinh của các ngươi, theo nghĩa thông thường. Ta là Tiềnnhân. Trong xác thân du côn du kề các người đã có một phần xác mỗi phần hồn củata. Trong bình sinh gieo rắc, Ta là các người, các người cũng là Ta. Hãy nghe đây,mau rời bỏ mê cuồng, hãy nhặt lấy vàng rồi cút đi. Hãy trả lại quê hương nàycuộc bình yên (...) Chớ đắm mình trong điệp điệp mơ hoang rừng vàng biển bạc. Chớ lênh đênhtheo khí chất mong đạt giàu sang qua ngõ tắt. Hãy rời khỏi nơi nương náu ngủ rutrùng trùng hứa hảo, hẹn bừa, những điều hiện thực không thể. Hãy bừng sáng mộtthể linh tiên niệm. Hiểu Núi sông và giữ lấy Tự nhiên ... Khó thể toàn bộ giangsơn là một tổng thể kim loại. Còn nơi nào cái lỗ chôn nhau cắt rún. Tìm đâu cátbụi mơ mòng. Đâu nơi sở trụ một linh hồn cần nương náu quê hương. Mơ hảo. Khóthể một dân tộc, thể chế, đất đai, một sớm mai vui mừng đã kim loại hóa toànphần (tr. 106, 107). Nhưng hôm sau khi trời sáng tỏ, mộttrận gió lớn thổi tung bụi. “Bọn cướp đường choàng dậy ngó quanh. Không Tiềnnhân. Chẳng có xác Đại ca nào đây. Không có núi không có sông. Không nhìn ra mặt núi sông. Khôngmột mảy may vàng. Chỉ quanh đây những luống cày, màu đất vàng khô. Một chị vảithô chân đất đem mong chờ đến cho một ai đó trên những luống cày. Một thằng bétruồng cười trong nắng” (tr. 108).

Nhị Xuân làchuyện cô gải xa xứ đã lâu nay trở về tìm lại quê nhà. Cô quả thật là “mộttâm hồn dị chủng khắc khoải trong một xác thân dị chủng. Nhớ một vẻ đẹp thánhnữ đành cưu mang một mùa Xuân nơi cội nguồn giống nòi cha cô hằng trải quanhiều nghìn năm. Lòng người trong nhân gian ấy xuống cấp, lạc đường vào nẻoquỷ. Nhưng thiên nhiên ấy vần còn một lời thân ái chào cô. Quê hương ấy, vẫncòn một phần lương tri tận hiến sau cùng, đưa dắt cô trên những nẻo đường hyvọng”. Nhị Xuân, cô “thấy nơi đây luôn có một cái gì ở trỏng”“Mùi thời gian thật buồn”,cho nên ngày cuối “sâu trong mắt nàng nỗi buồn như tan chảy, xoắn tròn, vàkêu rít. Nàng đưa cái hoa giò giẻ cánh trắng nhỏ, phần trong tâm cánh hoa cómàu vàng nghệ lên tầm mắt. Nàng nghe hoa nói bằng đôi mắt!” (tr. 152, 153).

Bí Ẩn Ba Nôlà chuyện Ba Nô, một người điên luôn ở truồng ở chợ Diêm, “đang phơi chimdưới bóng trời... Cái dương vật trần trụi to bự như một quả chuối già đưa quađánh lại. Nó lại rất hình tượng chuối, vì không thẳng chìa ra như khi hành lạc,mà cong khum vào bộ dái. Cứng, mới cong được. Đây có thể là biểu hiện cái khídương nơi một người đàn ông còn mạnh mẽ, nhưng không bị giựt dây, kích dụcthường tình... Ba Nô hằng ngày đi qua các cửa hàng, đứng giửa một bầy gái, nóvẫn thế. Hình như dâm lực trong cõi này, cái khí Nữ, dù âm ma tới cỡ nào cũngkhông gợi dục được hắn” (tr. 176, 177). Thân với Ba Nô, “tôi” nghi ngờ BaNô là một Lộng Giả – như Bùi Giáng, nên quên cả ngày phải trở về đơn vị sau mộttháng nghĩ phép. “Ba Nô được lệnh vác một khối thuốc nổ TNT đút dưới lườn xethiếu tá quận trưởng” nhưng cuối cùng, “Ba Nô thân yêu của tôi đã cháy.Một phần nghìn giây sau tiếng nổ, Ba Nô bay lên trời. Ba Nô thành những mảnh.Máu thịt tung tóe một vùng rộng, trong sân vận động, trước một cổng trường màhôm qua bọn học trò đã học bài sử ký”. Ba Nô đã tự chọn cái chết khi nổ thay cho gia đình viênquận trưởng.

Mùa Xuân Cô Mơ Bay,cô gái “Mơ Bay còn trẻ. Mộng ước của cô lớn lao, ngoài giới hạn. Thôngthường, những ý tưởng lớn lao của tuổi trẻ luôn lồng trong đó cái hoang mơ, hưtưởng. Cô hiểu rằng, với đôi tay có ngày cô sẽ bay như chim. Hoặcmái tóc cô, sẽ là đôi cánh. Tư tưởng sẽ biến cô nhẹ tênh. Ý chí là nhiên liệu. Mơ Bay sẽ bay ngọtngào. “Anh ạ, vì em có một đôi cánh vô hình. Siêu nhiên là lực đẩy em lên cao” (tr. 193). Sống ngoài thựctế, cô té gãy cần cổ, phải qua giải phẩu. Nhà văn, “con người đang trôihoang giữa hai bờ, bên này Mơ, bên kia là Mơ Bay” được người cha cô Mơ yêucầu: “Anh là nhà văn. Anh có thể vẽ ra thần linh, điều động ma quỷ. Một tayviết tài tình, đa mộng tưởng của anh, như anh, mà ra. Lần này, mong anh chỉnhlại nhân vật của anh đi, trong đó có con gái tôi. Anh có thể dùng những giọtmực huyền ảo, vẽ lại được những giấc mơ của mình một cách khác kia mà. Đâu cầncó Mơ Bay nhà chúng tôi anh mới thực hiện được cuộc đào thoát của anh ra khỏicái vực thẳm siêu hình này. Tôi không phê phán rằng anh đúng sai, tốt xấu, chỉmong cái phúc huệ của nhà tôi.”

Nhà văn từ tốn: “Đa tạ. Tôi sẽ sửa lại bảnthảo. Nhưng nhặt Mơ ra khỏi trang chữ thì tôi còn gì để viết. Bóng tốichính là nền. Âm bản là phản chiếu kỳ ẩn. Đôi khi mồ-hôi-nước-mắt-luống-cày-tiếng-chim-núi-non-suối-nguồn,chúng từ trang viết biến ảo đi ra. Cõi đời, cuộc sống có thật đã biến hình thaydạng qua ngọn bút. Tôi chỉ là phần hồn của Mơ. Đúng ra Mơ là ngọn đèn, tôi ánhsáng. Đèn tắt, chẳng còn tôi” (tr. 199). Thật vậy, nhà văn ở đây viết là “tra vấn cái Viết Văn”trong một thế giới ảo vì luôn “truy tìmcái uyên nguyên, cái ngẫu nghĩ tương phùng giữa Mộng và Thực”, còn cái hiệnthực trước mắt có là ảo hay không là “do nơi mỗi tâm thức. Con người ngoàinhục nhãn hãy còn tâm nhãn, tuệ nhãn. Có thể đó là cái có thực trong một MặtĐất luôn Mùa Đông. Mặt Đất ấy không muốn chuyển mình”. Cô Mơ, như thế giớivăn chương, vẫn còn bay vì cô “cómột đôi cánh vô hình, một lực siêu nhiên sẽ đưa em Ra Ngoài…” (tr. 203).

Mối Tình Thời GióChướng, truyện cuối của tập truyện, viết ở ngoài vào tháng 3-2019, đã như một hồitưởng qua nhiều biến cố lịch sử của đất nước – Cung Tích Biền gọi chung là thời gió chướng. Khởi từ khi đất nước bị chia đôi tháng7-1954, Ngưng tiếng súng, chia cắt đấtnước ra làm hai, sông Bến Hải là giới tuyến giữa hai bên, là chuyện cóthực. Hai thế lực đối kháng tập kết về mỗi miền, để chờ một Ngày Thống Nhất ĐấtNước, hai miền Băc-Nam sẽ hợp một. Trên văn bản ký kết là hai năm sau. Nhưng mọingười ai cũng biết, cứ xung khắc này, khó mà hợp nhất trong một giải pháp hòabình. Từ nay, phân ly sẽ còn lâu dài, là không thể chối từ. Một toàn diệnđổi trắng thay đen trong xã hội mới, giữa lòng người với nhau sẽ là một hiệntình. Đứa con ra đi, người chồng tình nghĩa ra đi, khi trở lại, nếu họ muốn chiếnthắng bằng súng đạn, họ sẽ là kẻ ngoại xâm. Một loại người mới xuất hiện trong buổigiao thời: Quốc gia tự do, quốc gia có nhân từ,bác ái, mở lòng, nhưng Quốc gia cũng thừa sự tàn nhẫn tuyệt đối, dành cho nhữngai không là “Quốc gia” với mình. Ác nhơn, cái chính kiến nó bèo bọt nổitrôi theo phận người, là vi trùng lớp lớp trong não thùy, nó ăn dần xương máu.Bên mô cũng rứa. Là triền miên bao năm, trong cộng-đồng-người đó đây, cuộc sốnggọi rằng mỗi bên ấy, chẳng thấy đâu một giống nòi thuần nhất. (...) Lịch sử sao oái ăm! Trong cõi Không-đội-trời-chung ấy,năm chầy tháng chẵn, từ phố thị tới làng quê, luôn là một xã hội, ít nhiều, lẫnlộn Xôi với Đậu. Một thằng người, hai mắt toàn đỏ huyết. Một anh hiền hòa tươisáng, hai con mắt vàng ròng. Cùng một vùng thôn dã, lũy tre làng. Dưới chung mộtánh đèn phố thị. Lại một lũ nửa nọ nửa kia, khuôn mặt một con mắt này Nam, conkia Bắc; nhìn gà hóa cuốc. Một bọn lé-tư-tưởng ... Miền miền, làng xóm, nhànhà, đã âm thầm tạo ra một giống-nòi-xôi-đậu (tr. 215, 7, 8). Mùa Hè năm 1975, người chồng tên Lương tập kết nay trởvề, phê phán dáng ngoài của Vọng, con trai chung, bảonó đi hớt tóc cạo râu. Cho xong tàn tích. Sau đó mới tính chuyện cha con. Rồi y vui nhận mấy thùng quà mà chị Bạc, người vợcũ cho, y quơ tất và trở ra Bắc. Chị đãhiểu, đã rõ thấy. Những ngày chạy loạn vừa qua, sự đổi trắng thay đen đến cửanhà tan nát, của tiền có đó mất đó, thân thuộc chia lìa, kẻ ở người đi, nào aimang theo được gì. Chế độ mới, gia sản này của chị ai cướp đi cũng được, ngaycả Lương. Lương cướp ngày cũng được. Biền biệt cái tình nghĩa vợ chồng. Đã xalắm với người từng đầu ấp tay gối. Vài tháng sau thì Yến, bà vợ lô-gích Đảng kết cho Lương [Mấycụ lớn chỉ thị lấy thằng chồng nào mụ vợ nào, thì phải đớp vào đấy], vào gặp chị Bạc. Thị đã nhận xét rằng Ngườitrong Nam này không chút thiện cảm gì với chúng em. Cũng một thời chiến chinhgian khó, sao trong Nam này người ta sống thoải mái, giàu có, rộng lòng. Cònchúng em khố rách. Dù rất mới mẻ, nhưng em đã gặp, em rất hiểu. Vì sao ngườiMiền Nam rất nhớ thương quá khứ. Và, vì sao quá khứ là cái gì chúng em luôn rấtsợ hãi. CungTích Biền kết chuyện tình chị Bạc cũng như thânphận chung. Những hình nhân đen đẫm nôn nao in hình trên nền ánh sáng lồng đènkéo quân. Bị điều động bởi ánh đèn trung tâm. Ánh sáng trung tâm càng sáng,càng nóng, bọn hình nhân càng chạy quay tít, càng trước sau miệt mài đuôi theonhau. Không người sau nào kéo được chéo áo người trước. Chẳng ai bắt gặp ai. Tấtcả đều chạy về phía trước. Cuộc tìm kiếm, hóa là mãi mãi thất lạc nhau. Hômnay Bầy Sói đã vào làng. Lương đã Trở Lại. Chị Bạc và Vọng, đành phải Bỏ nướcRa Đi (tr.227, 232, 233).

Những giấc mơ khởi đi từ nhữngtình cảnh bi hài. Với Cung Tích Biền, cái tàn khốc nhất vẫnlà ở những con người chủ động ra tay đối xử với đồng loại xem họ như những conthú. Như nạn nhân, mang thân phận nạn nhân – và hơn thế, nạn nhân bị hiểu lầm,ngộ nhận là đứng cùng phe với tập đoàn tàn bạo đó, ông tự cho cái quyền viếtra, nói lên sự thực và phỉ nhổ đám tàn độc đó. Đã hơn một lần, Cung Tích Biềncho biết ông chỉ ghi lại cái hiện thực của “thế gian ngột ngạt, phũ phàng ấy,một xã hội vào thời mạt pháp, kẻ lương thiện thua trận, lũ lang sói đã vào ngôi”và khiêm tốn thú nhận “chỉ không đủ tài năng để mô tả cái thảm trạng Đã-Có.Chỉ không đủ dũng khí để Viết-Cho-Đúng, Cái mà bọn Sài Lang muốn giấu nhẹm trướclịch sử, muốn chúng ta Không-nên-làm-một-con-người-chân-thật, đối với Sự Thật” (Lời Thưa của TácGiả, MXCMB, tr. 9-10).

Nhân vật của Cung Tích Biền, những con người hướng thượng hoặctự khẳng định là con người, đã từ cõi chết hoặc sống như đã chết, dù trong hoàncảnh nào, cũng tìm sự sống. Họ nếu chưa đã thì sẽ ngoi lên từ cái Chết tâm linhhoặc từ hầm mộ xương và xác người; sống vì phải sống nhưng khi tình cảnh xảyra, có thể chấp nhận chết để người khác được sống!

Với hai tác phẩm này, thiểnnghĩ Cung Tích Biền đã cho độc giả nhìn thấy và tin rằng, miền Nam và Việt NamCộng Hòa đã bị chôn sống, nhưng vẫn chưa chết, ít ra ở phẩm chất và sức sống!Viết để trần thuật, làm chứng và ở một vị thế cực chẳng đã, Cung Tích Biền đãthành công phá đổ, tất cả, từ nội dung đến hình thức cũng như đặt lại các vấnđề, vấn nạn. Sáng tác trong tinh thần hậu-hiện-đại, con chữ mang dấu ấn cấu trúccủa thời đại, các chuyện kể được viết ra như những liên-văn-bản, nội dung, tìnhtiết, lớp lang bị đảo lộn, cắt khúc hoặc xuất hiện như không hẹn trước, như đãlà lịch sử của đất nước. Văn chươngCung Tích Biền như một cõi mê cung, siêu thực đồng thời như hiện thực huyền ảo,nhưng phong phú và chân thật.

Trước 1975, Cung Tích Biền từng có những sáng tác về hòa bình và thờisự. Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, ông hiếm khi xuất hiện trên báo chí và xuất bản chính thức trong nước nhưng vẫnbị một số ngộ nhận. Ông định cư ở Hoa-Kỳ năm 2016 nhưng trước sau đã có mặt vớisinh hoạt văn học hải ngoại; đó là lý do chúng tôi viết về ông như một nhà vănViệt Nam hải ngoại.