Về Trần Văn Trạch, em tôi
Trần Văn Khê
Anh Lữ Tân Kiệt muốn biết về
cuộc đời và nghề nghiệp của Trần
Văn Trạch.
Con tôi Trần Quang Hải
đă viết tiểu sử rất đầy đủ
và chính xác về chú ba của Hải. Tôi chỉ thêm vài chi
tiết về em tôi mà ít có người biết và hôm nay
cũng lần đầu tôi mới ghi lại thành văn
bản.
Tên của Trạch trong gia đ́nh là «Khê
em»
Khi Trạch mới sanh,
cả nhà đều vui mừng. Ông nội tôi muốn
đặt tên con cháu đều có bộ Thủy nên cha tôi
tên Triều là ḍng nước, tôi tên Khê là khe suối, em tôi tên
Trạch là ao, đầm .
Nhưng từ lúc lên một,
mỗi khi trong nhà có ai gọi em tôi : Trạch ơi ! là con
cháu của bà cụ láng giềng trùng tên, thấy khó
chịu, nên qua xin ông nội tôi đặt tên khác cho chú bé
Trạch, để bà khỏi bị kêu réo tên bà.
Cả nhà rất khó nghĩ,
tên đă ghi trong sổ bộ đời. Cậu Năm tôi,
ông Nguyễn tri Khương, đến bàn với ông tôi,
nhắc lại lịch sử bên Trung quốc dưới
triều nhà Tống có hai anh em ruột, văn hay chữ
tốt, thi cùng một khoá, đều đậu Tiến
sĩ, và ra làm quan trong một triều. Trong nước ai
cũng quí tài của hai anh em nên gọi anh là Đại
Tống, em là Tiểu
Tống. Nay muốn kiêng tên bà cụ láng giềng, cậu
năm tôi đề nghị gọi tôi là Khê Anh và Trạch là
Khê Em. Ông nội tôi bằng ḷng và từ ngày đó, trong gia
đ́nh tôi và cả làng Vĩnh Kim, ai nấy đều
gọi chúng tôi bằng hai tên Khê anh và Khê em
Tuy chúng tôi cách nhau 3 năm,
chúng tôi không rời nhau, như anh em sinh đôi. Tối
đi ngủ, sáng thức dậy một lượt, cùng
ăn lót ḷng giống nhau, môt gói bắp nấu, một gói
xôi đậu hay xôi nếp than có dừa nạo muối mè.
Mỗi buổi ăn, ngồi gần nhau, đi tắm
sông, tập đi xe đạp, học vơ Thiếu Lâm
với anh ba Thuận
con của câu năm Khương, cả khi đi tiểu,
đi tiêu cũng đều cùng một lúc.
Nghe chuyện đời xưa
Mỗi tuần, cậu
năm Khương rước chúng tôi vô ở chơi trong
nhà câu năm cả ngày, từ sáng đến tối,
đêm ngủ lại, nghe cậu năm tôi thổi sáo, và
thuật cho chúng tôi nghe những điểm đáng nhớ
trong thời thơ ấu của chúng tôi, hoặc thuật
chuyện đời xưa, chuyện Nhị thập
tứ hiếu. Qua tiếng nói của cậu năm, chúng
tôi được thấy Khổng Tử gặp Hạng
Thác, nghe tiếng sáo Trưong Lương làm tan binh Hạng
Vơ, theo Quan Công quá ngũ quan, trảm lục tướng,
qua năm cửa ải chém đầu 6 tướng, làm anh
em tôi đi ngang nhà nào có thờ Quan Công là chúng tôi ngừng
lại quay vào nhà bái tổ theo nghề vơ, cả làng rất
khen Khê anh,Khê em biết kính «ông Bồn».
11 tuổi Trạch đă
biềt ra câu đối.
Câu năm lại dạy anh em
tôi đối chữ, đối ư, đối câu.
Đầu tiên dạy chúng tôi phải biềt đối
một chữ, b́nh đối với trắc, màu đối
với màu, như vàng đối với đỏ hay tím,
trắng đối với đen, số đối
với số, năm đối với bốn, bảy hay
tám, danh từ đối với danh từ, trời
đối với đất, sông đối với núi,
động từ đối động từ, đi
đối vối chạy, lên đối với xuống.
Rồi đến 2 chữ như vàng khè đói với
đỏ hoét, trời biển đối với núi sông.
Cậu năm lại dạy
cho chúng tôi biết những câu đối Việt Nam trong
đó có những cách «chơi chữ», như câu
Ruồi đậu mâm xôi, mâm
xôi đậu
Kiến ḅ dĩa thịt,
dĩa thịt ḅ
Hay «nói láy»,như «Ông
mượn cháu, đi Giồng dứa , mua dừa gống
về ươn mộng» «Ông mượn, ươn
mộng ; giồng dứa, dừa giống».
Đối lại :
«
Chồng sai vợ, đi Chợ Thủ kêu chủ
thợ về chày sông »
«Chồng
sai, chày sông, Chợ Thủ, chủ thợ »
Cậu năm dạy khi
người ta ra câu đối Đông Tây, ḿnh có thể
đối Nam Bắc. Một hôm cậu năm ra
câu đối :
«Cỡi
máy bay, bay ṿng Đông Tây Nam Bắc»
Không ai đối
được, cậu năm đối :
«Đi
tàu lặn, lặn măn Xuân, Hạ, Thu Đông».
Cậu năm lại ra
một câu rất khó đối ;
«Thằng
đàng Thổ, nằm dưới đất, ăn
thục địa»
Thổ là đất,
địa cũng là đất lại nằm dưới
đất . Lẽ tất nhiên không ai đối
được. Chính cậu năm t́m
ra câu đối :
«Chà
Châu giang, lội qua sông, hái bạc hà »
Giang là sông, hà cũng là sông,
lại lội qua sông. Thục địa là một vị
thuốc, bạc hà là một loại rau nhưng cũng là
vị thuốc.
Năm 1934, Trạch mới
được 11 tuổi ta, một hôm thấy con chó
mực trong nhà làm đổ b́nh mực liền nghĩ ra
một câu đối và thưa với cậu Năm : «
Cậu ơi ! Con mới ra câu đối để cậu
đối lại cho con :
«Chó
mực làm đổ b́nh mực, mực đổ trên ḿnh
chó mực»
Cậu năm nói : «Cậu
không đối liền được, hẹn con
đến trưa nay cậu sẽ t́m câu đối».
Cậu ra vườn trồng bông. Vài giờ sau, cậu
năm tươi cười gọi Trạch và tôi
đến để nghe câu đối :
«Gà
bông bươi ngă bụi bông, bông rơi trên cánh gà bông »
Anh em chúng tôi vỗ tay hoan
nghinh, nhưng cậu năm nói :
«
Đối ư th́ hoàn toàn, nhưng đối chữ c̣n
chưa được. « … làm đổ b́nh mực »,
chữ đổ trắc mà cậu đối « làm ngă
bụi bông », chữ ngă cũng trắc, nhưng cậu t́m
không ra chữ nào giọng b́nh. Chữ làm đổ b́nh
mực và mực lại đổ trên ḿnh chó mực, hai
chữ đổ cùng âm mà khác nghĩa. Nhưng kể ra câu
đối của con cũng khó đối lắm. Và
cậu khen Khê em mới 11 tuổi mà đă ra
được câu đối mắc mỏ như vậy.
Mối t́nh đầu của
Trạch
Năm 1936 Trạch mới 13
tuổi và đă yêu một cô gái 12 tuổi, bạn của
Ngọc Sương em gái chúng tôi. Cô bé rất đẹp,
cũng có cảm t́nh với Trạch. Ngày nào cô bé cũng
đến nhà chúng tôi để găp Ngọc Sương.
T́nh yêu rất ngây thơ, nhưng hai trẻ cũng thích
chuyện tṛ, ngồi gần nhau. Trẻ con không quan tâm,
nhưng người lớn lại để ư. Cô ba,
người thay cha mẹ chúng tôi để nuôi chúng tôi,
từ lúc tôi lên 10, Trạch lên 7, lại rất tinh
đời. Cô đến t́m cha mẹ cô bé đề
nghị cho cô bé về quê mẹ trong một thời gian. Khi
cô bé không đến nhà như thường lệ, Trạch
buồn dă dượi trong mấy hôm liền. Trạch
đến nhà cô bé để gặp hai người anh
của cô cho đỡ nhớ. Không ngờ người anh
nhỏ, bằng tuổi với Trạch, có nghe lén cha
mẹ và cô ba bàn việc cho em gái về quê để cho
Trạch không có dịp gặp cô em nữa. Trạch rất
buồn. Khi trở về nhà, lúc đó cô Ba đi vắng.
Trạch bỗng nổi cơn giận dữ, bứt
hết dây đờn tranh, đờn tỳ của cô ba.
Hả cơn giận,
Trạch b́nh tâm thấy dây đờn ngổn ngang, tôi lui
cui lượm bỏ dây hư, lấy dây mới và đang
mắc từng dây một, nét mặt buồn. Trạch
đến gần tôi nói trong nước mắt ; «Em
khổ quá anh hai ơi ! Lúc giận em không c̣n suy nghĩ ǵ
nữa. bây giờ em tỉnh hồn. Nhớ tới cô ba
về rầy, em chịu không nổi. Em lại làm cho anh hai
cực, em giận em quá . Em đi khỏi nhà anh hai ơi !
Cô ba có hỏi, anh hai nói em buồn quá bỏ nhà ra đi. Em
cũng không biết sẽ đi đâu. Em sẽ không
trở về. Anh hai đừng đi t́m em, vô ích..» Tôi
khuyên can, nhưng Trạch đă nhứt quyết th́ không ai
cản ngăn em được. Nh́n theo em đi bộ
xuống chợ cá gần bến xe đ̣ đi Mỹ tho.
Rồi cô ba về. Thấy tôi vừa mắc dây
đờn, vừa lên dây mà nước mắt lưng tṛng.
Cô ba hỏi : «Tại sao dây đờn đứt hết
vậy con?».
«Thưa
cô ba, Khê em buồn ǵ không biết, vừa bứt từng
sợi dây đờn vừa khóc. Rồi nhờ con xin
lỗi cô ba, và ra đi, nói sẽ không trở về nhà
nữa. »
«Con
phải đi kiếm em, bảo nó trở về. Có
chuyện ǵ buồn nói cho cô biết. Cô sẽ không rầy chuyện
nó bứt dây đờn đâu. Con có biết em con đi
đâu không?»
«Dạ
thưa không. Nhưng thấy em đi đến phía xe
đ̣ đi Mỹ tho, chắc nó đi theo xe xuống
Mỹ. Nó có quen với anh «lơ» chắc họ cho nó đi
khỏi trả tiền.»
Nghe theo lời cô, tôi đi xe
đạp xuống Mỹ tho, v́ nếu đợi xe đ̣
phải sáng hôm sau mới có chuyến đi, đêm nay em
sẽ ngủ ở đâu? Tôi đạp xe mà ḷng buồn
vô hạn. Chưa bao giờ anh em xa nhau một bước.
Nay em định bỏ gia đ́nh êm ấm, xa người
anh mà em triếu không thua ǵ con triếu mẹ, tức là em
đang khổ lắm. Tôi suy nghĩ nếu minh buồn
như em, ḿnh sẽ đi đâu ? Chắc ḿnh sẽ
xuống mé sông nh́n nước chảy, v́ nước
chảy sẽ cuốn trôi phiền muộn. Tại Mỹ
tho có một chỗ tại bờ sông mà lúc phải đi
Tam b́nh qua ở đậu nhà cô năm tôi để học
mấy lớp Sơ học, v́ nhà nghèo cô ba tôi không
đủ sức nuôi tôi học trường tỉnh
Mỹ tho, anh em tôi thích ngồi bờ sông Tỉền giang,
nh́n qua bên mặt có nóc đỏ nhà Cercle của
người Pháp, nh́n phía trái có rặng cây dương xanh
biếc. Hôm nay, chắc em tôi sẽ đến đó. Suy
nghĩ như vậy, và do t́nh thương em dẫn
dắt, tôi đạp xe một mạch đến bờ
sông. Đến chỗ tôi đoán, tôi rât mừng, v́ thấy
bóng em ngồi trên thềm gạch, chống tay trên cằm.
Tôi đến nhẹ sau lưng em và gọi nhỏ : «Khê em
ơi !Anh hai đi kiếm em về. Cô sẽ không rầy la
đâu. Anh hai bảo đảm với em.»
«Sao anh hai biết em ở
đây mà đến t́m em »
«T́nh thương đă
dẫn anh hai.»
Hai anh em ôm nhau không nói ǵ
cứ để cho nước mắt tha hồ tuôn.
Nghe lời tôi khuyên, Trạch
chịu về nhà và xin lỗi cô ba. Tôi chở em tôi bằng xe
đạp. Từ Mỹ tho về làng Vĩnh Kim, 15 cây
số đường làng, hôm đó trời mưa xối
xả. Hai anh em ướt cả ḿnh mẩy, nhưng ḷng
tôi vẫn thấy vui ấm v́ anh em tôi không v́ lẽ ǵ
phải xa nhau.
Trạch thay anh em tôi báo hiếu.
Tuy việc bứt dây
đờn tranh xảy ra lúc Trạch c̣n nhỏ tuổi, mà
măi sau này, mỗi lần nhắc lại Trạch lắc
đầu như tự trách ḿnh, không biết ơn
người cô đă hy sinh cả cuộc đời
để nuôi ba anh em chúng tôi nên người, v́ mối t́nh
của ḿnh đă hành động không suy nghĩ, có thể
làm đau ḷng người cô mà chúng tôi thương kính
như cha như mẹ. Nên năm 1944, khi cô tôi đau
nặng, bịnh lao đă tới thời kỳ thứ ba,
trắc nghiệm trong đàm đă thấy có vi trùng Koch, cô
tôi có một người giúp viêc rất trung thành, t́nh
nguyện nuôi cô tôi lúc đau ốm. Nhưng Trạch, sau khi
thất bại trong việc làm ăn trên Sài g̣n, nhứt
định bỏ cả công việc về làng Vĩnh Kim,
vừa t́m việc làm ăn hùn hiêp với một
người anh họ để làm ḷ chén, vừa
để mỗi ngày đạp xe lôi đưa cô tôi đi
hứng gió ở ngả ba chim chim, cách nhà cô tôi đang
ở hơn 1 cây số. Trạch thuê đóng một
chiếc xe lôi có ghế nệm, mỗi ngày khi mặt
trời xế bóng về chiều, Trạch đạp xe
đạp, đưa cô tôi đi hứng gió. Năm đó,
tôi đang học Y tại Hà nội, v́ nhiều lư do: sinh
viên theo phong trào «xếp bút nghiên», trường Đại
học đóng cửa trong hai tháng, tôi bị đau rét
rừng nặng phải nghỉ học. Miền Bắc
thiếu gạo, nhiều nơi bắt đầu có
nạn đói. Tôi về lập với bạn Huỳnh
văn Tiểng một gánh hát sinh viên đi hát trong lục
tỉnh, lấy tiền thâu được, mua gạo
gởi ra ngoài Bắc cứu đói. Rồi tôi lại lo
việc con đầu ḷng của tôi sắp ra đời,
phải đi dạy học tư tại Sài g̣n để
nuôi gia đ́nh. Em gái tôi học nội trú trong trường
áo tím Nữ học đường, em Trạch đă thay
cho ba anh em chúng tôi báo hiếu với cô ba chúng tôi.
Trạch, bị bắt tại Cần
thơ v́ có vợ ngựi Pháp.
…..Anh em lại xa nhau, tôi
đi gặp bạn Huỳnh Văn Tiểng tại
Chợ Thiên Hộ, và được Ủy ban Kháng
chiến Nam bộ cử tôi làm «Nhạc trưởng quân
đội Nam bộ», và các bạn tôi đùa gọi tôi là
«Tổng tư lịnh Kèn».
Trạch lúc đó có dịp
xuống Mỹ tho và gặp lại gia đ́nh của
một người Pháp sanh ở đảo Corse. Ông
nầy thương Trạch từ hồi Trạch c̣n là
học sinh trường Trung học Mỹ tho, nên lúc
Nhựt đảo chánh năm 1945, ông bị bắt lên
tập trung tại Sài g̣n. Trước khi đi lên trại
tập trung, ông gởi gấm gia đ́nh nhờ Trạch
trông nom. Ông có một cô gái lớn rất đẹp, và trai
tài gặp gái sắc, như sắt gặp đá nam châm. Và
cuộc t́nh đó dẫn đến sự ra đời
của em bé A. Tiếp theo là phong trào Việt Minh nổi
dậy. Lúc đó ai có quần áo 3 màu xanh trắng đỏ
thường bị gán cho danh từ «Việt gian». Trạch
có vợ đầm, có đứa con lai, cảm thấy
ḿnh bị đe doạ. Nghe nói tôi ở trong vùng kháng
chiến miền Tây, nên Trạch đi liều, gặp Thanh
niên tiền phong hay Thanh niên cứu quốc đều nói
đi xuống Bạc liêu t́m «anh hai tôi» trong vùng kháng
chiến. Lúc đó Trạch vừa mới ra trường
Trung học Mỹ tho. Chưa đi hát, không ai biết tên,
nên bị bắt mấy lần nhưng được
thả ra. Đến Cần thơ, hai vợ chồng
bị nhốt để đợi ủy ban kháng chiến
xét xử. Rất may cho Trạch, lúc đó có cậu sáu là
một người quen thân trong gia đ́nh đang làm Thanh
tra chánh trị. Cậu sáu nghe nói có trường hợp
một thanh niên có vợ Pháp mà muốn đi xuống
tận Năm Căn t́m anh là Trần Văn Khê, cậu sáu
liền lănh phần giải quyết trường hợp
đó. Cậu khuyên vợ Trạch làm giấy từ bỏ
quốc tịch Pháp, và cậu cấp cho Trạch một
giấy đi đường đến tỉnh Bạc
liêu t́m tôi.
Trạch, binh nh́ trong Đội quân
nhạc Nam bộ. Anh em hội ngộ.
Lúc đó tôi phải
đưa đội quân nhạc đến vùng Cái
nước, v́ cả Ban Quân Y phải lui về vùng Lẫm
Biện Tú, không có tiền lẻ để mua thức ăn
trong vùng nhà quê. Ban quân y chỉ nhận được
giấy 500 đồng khó lưu dụng ở thôn quê.
Mỗi ngày cả đoàn quân nhạc chúng tôi tổ chức
những đêm hát có ca, nhạc cách mạng, có dân ca ba
miền, góp được tiền lẻ, giữ 30
phần trăm cho đội, 70 phần trăm để
giúp trạm Y tế Lẫm Biện Tú mua thịt cá, rau
cải cho các bịnh nhân.
Một hôm, các anh trong ủy
ban kháng chiến đến gặp tôi và cho biết rằng
tôi có người em, có vợ Pháp, và con c̣n nhỏ, từ
Hậu giang đến t́m tôi, rồi mời tôi theo anh ra
trụ sở của Ủy ban. Vừa gặp tôi, Trạch
chảy nước mắt, chạy lại ôm tôi, hai anh em
không nói tiếng nào. Các anh trong ủy ban, đưa giấy
giới thiệu của Thanh tra Chánh trị, tôi đọc
qua rồi nói với các anh : «Thanh Tra chánh trị mà anh em tôi
trong gia đ́nh gọi là cậu Sáu đă gởi giấy
giới thiệu. Dầu cho không có người giới
thiệu mà nếu em tôi đến t́m tôi, tôi cũng sẵn
sàng bảo bọc em tôi và gia đ́nh. Tôi xin làm tờ
bảo lănh cho em
tôi. Từ giờ nầy, em tôi
được vào Đội quân nhạc và nếu em tôi có
làm chi sai lầm, tôi xin chịu trách nhiệm trước
ủy ban».
Trong thời gian mấy tháng,
anh em sống lại cuộc đời thuở nhỏ,
cùng ăn một mâm, cùng ngủ dưới một mái nhà,
khi đi từ nhà đến bịnh viên, chống
xuồng qua các rạch các kinh, Trạch khỏi sợ
bị bắt như một «Việt gian » v́ có vợ Pháp.
Tôi vui v́ trong cảnh xa nhà xa làng Vĩnh Kim, được
chung sống với em tôi và gia đinh của em. Ai có
ngờ người nghệ sĩ quái kiệt đă có lúc v́
t́nh phải mang tiếng «Việt gian», khi ngộ biến
đă trong mấy tháng trời làm «binh nh́» trong đội
Quân nhạc Nam bộ ?
Rồi anh em lại xa nhau.
Nhưng cuộc hôi ngộ nào
cũng đi đến lúc chia tay. Khi tất cả các
cơ sở thuộc Nam bộ đều đi ra Bắc
hay chạy theo căn cứ quân sự. Chúng tôi phải
trở về Cần thơ, nơi anh hai con cậu năm
tôi có một xưởng làm nước mắm mang hiệu
Quê Hương. Trạch và gia đinh được
cậu năm tôi đùm bọc, tôi đi về Lộc Ninh
tá túc nhà nhạc mẫu tôi, bà ngoại của mấy cháu.
Năm 1949 tôi sang Pháp,
Trạch làm việc tại Nhà hàng Théophile. Anh em lại xa
nhau. Tôi nghiên cứu cổ nhạc. Em tôi nổi tiếng
nhờ tân nhạc và được danh hiệu quái
kiệt trong làng nghệ sĩ.
Khi nghiên cứu âm nhạc
truyền thống và soạn luận án Tấn sĩ tôi
được vào Trung tâm nghiên cứu khoa học nhưng
v́ muốn xây dựng một Trung tâm học nhạc Đông
phương để dạy nhạc châu Á theo phong cách
truyền khẩu truyền ngón, nên tôi chỉ làm việc bán
thời gian cho Trung tâm nghiên cứu khoa học, c̣n phân
nửa thời gian th́ làm Giám đốc Trung tâm nghiên
cứu âm nhạc Đông phương và làm Cố vân
nghệ thuật cho anh Ph.V M. Giám đốc Nhà hàng La Table du Mandarin. Tôi bày
ra tṛ chơi L’Election du Mandarin (Cuộc bầu cử Thượng
quan của Nhà hàng) được diễn gần 20 năm
mỗi buổi chiều. Lúc đó Bích Chiêu, Bạch Yến,
Thiên Hương được hát tại La Table du Mandarin là do sau
khi tôi nghe và bằng ḷng đề nghị cho Anh Ph.V. M kư hợp
đồng. Khi Trạch đến hát tại La Table du Mandarin, tôi
đang giao việc giới thiệu chương tŕnh
bầu cử Thượng quan cho Nhạc sĩ Đan
Trường. Nhưng anh em thỉnh thoảng gặp nhau
tại Paris.
Trạch đến thường trú
tại Pháp.
Đến năm 1977, ban giám
đốc nhà hàng La Table
du Mandarin gọi điện thoại báo tin cho tôi biết
Trạch mới từ Việt Nam sang Pháp và muốn gặp
tôi. Lúc đó tôi đă không c̣n làm Cố vấn chương
tŕnh nghệ thuật của Hiệu La Tabe du Mandarin, nên không
có thể giúp Trạch t́m việc làm tại đây.
Trạch phải đi nơi khác. Nhưng anh em lại có
dịp cuối tuần về nhà tôi, anh em đờn hát
thâu thanh tại nhà tôi, hay tại nhà nữ Bác Sĩ J. Ph.
Tuy cùng sống trên đất
Pháp, v́ công việc khàc nhau, tôi đang "bôn ba bốn
biển năm châu“, Trạch đang t́m cách sanh sống
bằng thương măi, anh em gặp nhau trong những ngày
Tết Việt Nam, hay những ngày họp mặt gia
đ́nh tại nhà Trạch. Mỗi khi Trạch có việc
buồn thường hay gọi điện thoại cho tôi
để đến gặp tôi, Trạch thèm ca Vọng
cổ và muốn tôi đờn tranh phụ họa cho em.
Phút cuối cùng
Đến khi tôi hay tin em tôi
bị đau nặng nằm tại bịnh viện, tôi
thường vào thăm và Trạch một hôm
"trốỉ" với tôi:“ Anh hai sắp đi
Việt Nam theo chương tŕnh làm viễc cho Trung tâm nghiên
cứu khoa học Pháp. Em chỉ ước ao một
đều. Khi em phải từ giă cơi đời, em
muốn có anh hai đưa em đến nơi an nghĩ
cuối cùng“. Tôi hứa với em : “Dầu cho anh hai
đi đâu trên trái đât nầy, khi biết tin em vĩnh
viễn anh hai sẽ trở lại Pháp để lo
việc đưa em về nơi an nghỉ cuối cùng.
Anh hai sắp đi xa. Anh hai nhắc cho em nghe một câu
phỏng theo ư của một nhà văn mà anh hai không nhớ
tên: Ngày em ra đời, em khóc mà mọi người quanh nôi
em cười vui. Ngày em phải ĺa đời, khi mọi
người khóc thương tiếc em, th́ em sẽ mỉn
cười ra đi, v́ em đă làm xong tất cả
nhiệm vụ của em trên đời ».
Trạch ḿm cười
siết chặt tay tôi và nói: “Anh hai yên ḷng đi về
nước làm việc. Mong rằng sẽ gặp lại
anh hai khi anh hai trở lại Pháp. Nếu có mệnh hệ
nào, em sẽ mỉm cười ra đi. Và anh hai sẽ
về để đưa em về nơi an nghỉ
cuối cùng“.
Lần đó là lần
cuối cùng tôi gặp em tôi khi em c̣n sống. Và câu nói đó
là câu cuối cùng mà tai tôi nghe tiếng em tôi nói. Và như
đă hứa, tôi đă trở về từ Việt Nam và
làm chủ tang cho đám táng của Trần Văn
Trạch, em Khê em của tôi.