Đình Minh Hương Gia Thạnh

Đình Minh Hương Gia Thạnh, tọa lạc tại số 380 đườngTrần Hưng Đạo B, quận 5, Chợ Lớn, đã được “Bộ Văn Hóa ra quyết định số 43-VH/QĐngày 7-1-1993 công nhận là Di tích kiến trúc-nghệ thuật” [1]. Đây là một trongnhững ngôi đình lâu đi nhứt của vùng Saigon-Chợ Lớn, dongười Minh Hương (người Việt gốc Hoa mà tổ phụ là những người Hoa đã sang địnhcư tại Việt Nam từ cuối thế kỹ 17, sau khi nhà Minh sụp đổ) xây dựng từ năm1789. Bài viết nầy cố gắng ghi lại những nét chính về lịch sử cũng như kiếntrúc và nội dung thờ phượng của ngôi đình quan trọng nầy.

Vài Nét Về Người Minh Hương và Hội Minh Hương GiaThạnh

Trước hết, người Minh Hương không phải là người Hoa màlà người Việt gốc Hoa. Họ cũng không phải thuộc vào nhóm người lai hai dòng máuHoa và Việt mà ta có thể gặp bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam. Người MinhHương, mặc dù có nguồn gốc từ Trung Hoa, đã là người Việt Nam từ gần haitrăm năm nay. Về mọi mặt, từ ngôn ngữ, y phục, đến phong tục tập quán, họ đãhoàn toàn đồng hóa với người Việt. Chỉ khác một điều: họ vẫn nhớ đến nguồn gốcthần dân nhà Minh (1368-1644) của tổ tiên họ. Chính vì thế họ đã dùng hai chữMinh Hương để tự gọi mình: Minh để chỉ nhà Minh, Hương là hương hỏa, ý nói họtiếp tục lo phần hương hỏa cho nhà Minh. Sau đây là một vài nét về lịch sử địnhcư của người Minh Hương tại Việt Nam.

Năm Kỷ Mùi (1679), hai vị Tổng binh cựu thần nhà Minhlà Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên, không chịu thần phục nhà Thanh(1644-1911), đã mang 50 chiến thuyền với khoảng 3000 binh sĩ và gia đình, sangViệt Nam, xin hàng phục Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Vị Chúa Nguyễn lúc bấy giờ làChúa Hiền (Hiền Vương) Nguyễn Phúc Tần (1620-1687). “Ngài vỗ về an ủi và chovào trấn đóng tại Đông Phố (tức Gia Định), ngài ban cho chức tước, cấp phươngtiện cày cấy để mở mang đất đai. Dương Ngạn Địch vào khai khẩn vùng Mỹ Tho,Trần Thượng Xuyên vào khai khẩn vùng Biên Hòa. Chẳng bao lâu Đông Phố trở thànhmiền đất trù phú, thương thuyền ngoại quốc đến buôn bán tấp nập” [2].

Trong thời gian chiến tranh giữa Tây Sơn và ChúaNguyễn, đại bộ phận người Minh Hương đã đứng về phía Chúa Nguyễn. Một số nhưTrịnh Hoài Đức và Ngô Nhơn Tịnh đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trongchính quyền của Chúa Nguyễn ở Gia Định ngay trước khi Chúa Nguyễn diệt được TâySơn. “Đến năm Kỷ Dậu (1789), niên hiệu Chiêu Thống thứ tư, nhằm đời vua LêMẫn Hoàng đế, theo sớ tâu của vị đại thần con cháu nhà Minh qua trú ngụ nơi đấtViệt Nam, thánh chỉ châu phê cho lập ra Minh Hương Xã, để thâu thuế dân MinhHương, rồi chuyển đệ lên quan trên.” [3] Làng Minh Hương lúc đó không cóphân định ranh giới như các làng khác vì người Minh Hương cư ngụ khắp nơi trongvùng đất mới nầy. Người Minh Hương được miễn làm xâu và khỏi đi lính. NgườiMinh Hương nếu phạm pháp sẽ do Minh Hương Xã phân sử. Mặc dù được ban cho đặcquyền như vậy, Minh Hương Xã rất nghiêm cẩn trong việc dạy dỗ dân, đã thông quavà ban hành một bản Khoán Ước gồm tất cả 40 điều, quy định rất rõ ràng về nhiệmvụ và quyền hạn của dân làng, của các chức sắc trong làng, cũng như cách đối xửgiữa dân làng với nhau. Nhờ vậy dân làng Minh Hương nổi tiếng là sống rất thuậnthảo với nhau. Trong dân gian Miền Nam thời đó đã truyền tụng câu cadao như sau: “Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng; Đố ai lịch sự bằng làng MinhHương.” [4] Tiếng tăm nầy chắc chắn đã được truyền ra đến kinh đô Huế. Bằngchứng là năm Quý Hợi (1863), chính vua Tự Đức đã “có sắc tặng cho làng bốn chữ “ThiệnTục Khả Phong”, khắc vô một tấm biển, sơn son thếp vàng, nay treo trước căngiữa Chánh điện.” [5] (Xem Hình 3, Phần Phụ đính)

Sau gần một thế kỷ tồn tại, đến năm 1865, làng MinhHương chính thức chấm dứt. Nam Kỳ lúc bấy giờ đã thuộc Pháp theo hòa ước NhâmTuất (1862) đã được ký kết giữa Đô Đốc Bonard và Đại Tá Palanca, đại diện choPháp và Tây Ban Nha với hai quan đại thần là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp,đại diện cho triều đình nhà Nguyễn. Năm 1865, Thống Đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ làĐô Đốc De La Grandière ban hành quyết định chấm dứt quy chế làng của Minh HươngXã, với lý do là Sài Gòn và Chợ Lớn là châu thành, làng Minh Hương không còn cólý do tồn tại nữa, mà phải sáp nhập vào các hộ của châu thành. Sau mấy lần làmđơn xin lập lại làng và đều bị chính quyền Pháp bác bỏ, “ngày mồng 4 tháng10 năm Đinh Mão (1867), quí Ông Võ Duy An, Nguyễn Tập Lễ, Vương Quan Dư, TrươngChí Hùng, Trần Ngươn Hựu, Trần Văn Kinh, và Lâm Quang Lộc, đồng đứng tên xinlập lại Minh Hương Gia Thạnh Hội để lo thờ phượng...”[6] . Kể từ đó khôngcón làng Minh Hương nữa, mà chỉ có Hội Minh Hương Gia Thạnh. Hội không có quyềnthâu thuế nữa, chỉ còn giữ việc cúng tế mà thôi. Đình Minh Hương Gia Thạnhkhông phải là nhà làng nữa mà trở thành nhà hương hỏa chung của tất cả hộiviên. Dân Minh Hương sáp nhập vào các hộ tại các địa phương nơi họ cư trú vàthật sự trở thành công dân Việt Nam.Họ nói tiếng Việt, mặc quốc phục (áo dài, khăn đóng) trong các dịp tế lễ, chocon cái học trường Việt, và hành xử hoàn toàn là một công dân Việt Nam.

Về mặt nhân sự, Hội viên gồm toàn con cháu dòng giống,cha truyền con nối, có khai sanh chánh thức, và phải làm đơn xin gia nhập Hộicó kèm chữ ký của hai Hội viên chính thức làm chứng. Khi đơn được chấp thuậnHội sẽ cấp cho Hội viên mới (gọi là Hiệp Lý) một tờ cử bằng chữ Quốc ngữ và chữHán. Sau một thời gian, Hiệp Lý có thể ứng cử chức Phó Hồi Đại Lao (thường gọitắt là Phó Hồi) lo việc công quả, cúng kiến trong Đình. Sau một năm công tác,Phó Hồi sẽ tự động thăng lên Chánh Hồi (hay cũng gọi là Chủ Hồi). Sau một nămnữa thì thăng lên Hương Trưởng, được gia nhập Ban Trị Sự một khóa ba năm. Sauba năm sẽ thăng lên Hương Trưởng Trị Sự. Chỉ có những Hương Trưởng Trị Sự mớiđược ra ứng cử chức Chánh Chủ Hội. Hiện nay, tổng số Hội viên gồm khoảng 400gồm tất cả 25 cánh họ: Chung, Dương, Đặng, Đỗ, Huỳnh, Kha, Khưu, Khương, Lâm,Lê, Lý, Lưu, Mai, Ngũ, Nguyễn, Phan, Phùng, Quách, Tăng, Tân, Trần, Trình,Trương, Vương, Văn.

Về mặt tổ chức, Hội Minh Hương Gia Thạnh được điềuhành bởi một Ban Trị Sự gồm các vị như sau: Chánh Chủ Hội, Phó Chủ Nhứt, PhóChủ Nhì, Chánh Thủ Bổn, Phó Thủ Bổn, Chánh Từ Hàn, Phó Từ Hàn, Kiểm Soát, vàmột số các vị Hương Trưởng Trị Sự giúp việc và cố vấn.

Lịch Sử Đình Minh Hương Gia Thạnh

Đình Minh Hương Gia Thạnh hiện nay chính là nhà làngcủa Minh Hương Xã được xây dựng ít lâu sau năm 1789 là năm mà Minh Hương Xãđược sắc vua nhà Lê cho phép thành lập. Lúc mới đầu đây chỉ là mấy căn nhà dùnglàm nơi làm việc cho làng. Đến năm Kỷ Hợi (1839), niên hiệu Minh Mạng thứ 20,làng Minh Hương mới xây cất đình trên miếng đất đó. Đình được tu bổ lần đầu vàonăm Quý Dậu (1873), niên hiệu Tự Đức thứ 27. Đến năm Tân Sửu (1901), niên hiệuThành Thái thứ 13, đình đã bị hư hại rất nhiều, Hội quyết định triệt hạ xuốnghết và cất lại đình mới hoàn toàn. Một Ban Trị-sự được thành lập để lo việc xâycất ngôi đình mới và gồm có các vị sau đây:

- Đại-đồng-sư: Lâm Quang Kiển, Trần Hữu Định

- Chánh-tổng-lý: Lâm Tấn Tài, Lâm Quang Phát

- Phó-tổng-lý: Trần Hữu Phái, Quách Đăng Cang

- Hiệp-lý: Lưu Tân Tòng, Trình Quang Mầu

- Phó-Hồi: Ngũ Vĩnh Võ

Từ đó đến nay cũng có qua thêm nhiều lần tu bổ, quan trọng nhứt là vào năm 1962(đại tu bổ chánh điện và cất lầu), nhưng nói chung vẫn còn giữ nguyên vẹn nétkiến trúc cơ bản của ngôi đình đã xây vào năm 1901.[7]

Kiến Trúc Đình Minh Hương Gia Thạnh

Xây cất trên một diện tích 2.333 mét vuông, đình MinhHương Gia Thạnh qua nhiều lần trùng tu nên kiến trúc và vật liệu có nhiều thayđổi. Nhìn chung toàn bộ kiến trúc đình mang mầu sắc đặc biệt Trung Hoa, theohình chữ Tam, các tầng mái lợp ngói âm dương chồng lên nhau, góc mái thẳng vàgọn. Trên đỉnh của tầng mái lớn nhứt (bên dưới nhứt) có gắn hình “lưỡng longtranh châu”, có hai lân chầu hai bên đầu nóc đòn dông. Đà hàng hiên và đàngang theo kiến trúc Trung hoa, mỗi bên đầu máng gắn tượng sành ông mặt trời vàbà mặt trăng. Diềm cửa sổ có song và lát gạch men Nhật. Hàng rào cổng sắt củađình làm theo kiểu Pháp. (Xem Hình 1)

Ở mặt tiền, có hàng rào khá đồ sộ gồm sáu cột gạch caosơn trắng, 3 cửa sắt (một cửa chánh lớn ở giữa và hai cửa phụ nhỏ hơn ở haibên) và các hàng song sắt sơn màu vàng. Trên hai cột trụ của cửa sắt chánh ởgiữa có ghi đôi liễn bằng chữ Hán như sau (đọc từ phải qua trái):

嘉猷復振基光舊
Gia du phục chấn cơ quang cựu
(Kế hoạch tốt đẹp hồi phục chấn chỉnh lại vẻ sáng của nền cũ)

盛德長留廟貌新
Thạnh đức trường lưu miếu mạo tân
(Đức lớn truyền lâu dài trên dạng mới của đền miếu)

Qua khỏi hàng rào là một sân ngắn tráng xi măng. Đứngở giữa sân nhìn vào thì ngôi dình nằm ở giữa, hai bên có hai lối đi nhỏ có cửa,bên tay trái gọi là Tả Thanh Long, bên tay phải gọi là Hữu Bạch Hổ. Tả ThanhLong dẫn vào giếng và nhà bếp của đình. Hữu Bạch Hổ dẫn vào bên trong, bên taytrái là nhà giảng (về sau có xây thêm một tầng để làm Thư viện), bên tay phảilà cửa vô Tri Từ. Bên cạnh đường Bạch Hổ có xây một cái miếu nhỏ thờ Bà NgủHành.

Ở cuối sân có đặt hai chậu lớn trồng cây kiểng cắt tỉarất khéo, rồi đến tam cấp bằng gạch. Trên tam cấp là một lần cổng nữa với hàngrào song sắt sơn mầu vàng, với hai cột to bằng gổ sơn mầu đỏ đặt trên bệ gạchcao độ năm tấc. Khác với hàng rào bên ngoài, tại đây chỉ có một cổng vào màthôi. Phía trên cổng có bảng nhỏ hình quả trám màu đỏ đề năm 1912 sơn màu vàng (bây giờ đã bị tấm bảng ghi 1789 năm sáng lập đình che khuất),ngay bên dưới là hàng chữ Hán cũng sơn màu vàng gắn trên bảng màu đỏ hình cánhcung:

Tuế Thứ Nhâm Tí Niên Trọng ThuNguyệt Công Tạo (Xem Hình 4)
(Nghĩa: Xây cất vào tháng T
ám năm Nhâm Tí)

Cũng tại nơi cổng nầy, trên hàng rào song sắt bên phải có gắn một tấm bảng xácnhận tính cách di tích lịch sử văn hóa của ngôi đình, nội dung như sau:

ĐÌNH MINH HƯƠNG GIA THẠNH
Sáng Lập Năm 1789
Do “81” Vị Tổ Tiên Người Minh Hương Đóng Góp Và
Xây Dựng Phụng Cúng Những Vị Thánh Thần:
Trần Thượng Xuyên - Nguyễn Hữu Cảnh
Trịnh Hoài Đức -  Ngô Nhân Tịnh

Được Công Nhận Di Tích Lịch Sử Văn Hóa
Ngày 7.1.1993 Do Con Cháu Hội Viên Phụng Cúng
Lập Ngày 25.3.1993 (Xem Hình 5)

Qua khỏi cổng nầy là một gian phòng trống gọi là Võ ca [8]. Nơi đây có treo rấtnhiều bức hoành phi, thí dụ như:

Chí Thành Bất Tức = Lòng ThànhKhông Phai

Dương Dương Tại Thượng = Rực RỡNêu Cao

Trạc Trạc Quyết Linh = Sáng SủaĐoan Chắc

Thân Tích Vô Cương = Thân ThươngVô Bờ (chỉ ơn vua)

Thọ Tư Giới Phúc = Đón Nhận ƠnDầy (chỉ vùng đất đang ở)

Bảo Ngã Lê Dân = Bảo Vệ Dân Ta

Qua khỏi Võ ca là vào đến Chánh Điện. Chánh Điện là một gian phòng rất rộng,trần rất cao, và trần thiết rất lộng lẫy nhưng trang nghiêm. Đây là nơi thờphương chánh của ngôi Đình (nội dung thờ phưng sẽ trình bày trong phần kế tiếp). Chánh điện chia thành ba gian, ởtrong cùng xây bệ cao lát gạch men xanh lá cây, trên bệ đặt khám thờ rất lớn,bao lam chạm trổ rất tinh vi. Ở gian giữa, khám thờ chạm rồng chầu mặt trời,thờ bài vị sơn son thếp vàng, phía trên đề chữ triện “Long Phi”. Đây lànơi thờ vua nhà Minh và thờ thần. Ngay trước khám thờ là bàn thờ cao bằng gỗmun cẩn ốc xà cừ và chạm trổ tinh vi, trên bàn thờ là lư hương và chân đèn bằngđồng được đánh bóng sáng ngời. Hai bên bàn thờ là hai chiếc lộng to bằng gấm đỏthêu chữ vàng. Trước bàn thờ là bộ ghế vọng gồm một bàn và năm ghế cũng bằng gỗmun chạm trổ tinh vi. Bộ ghế nầy tuyệt đối không ai được ngồi lên. Hai bên bộghế vọng là giá binh khí, mỗi bên tám món binh khí bằng đồng có tra cán gỗ rấtdài, dựng đứng cao hơn đầu người. Trên hai cột chánh tại đây có gắn đôi liễnbằng gổ đen chữ thếp vàng. Đây là bút tích của ông Trịnh Hoài Đức tặng cho LàngMinh Hương Gia Thạnh:

MinhĐồng Nhật Nguyệt Diệu Nam Thiên,Phụng Chữ Tường Lân

Gia Cẩm Tú

Hương Mãn Càn Khôn Linh Việt Địa, Long Bàn Hổ Cứ

Thạnh Văn Chương

(Dịch nghĩa:

Sáng cùng mặt trời, mặt trăng rực rỡ trời Nam, điềm lànhphượng xoè lân múa tăng thêm vẻ gấm vóc

Mùi hương đầy trời đất thơm đất Việt, rồng chờ hổ phụcthịnh văn chương)

Hai gian hai bên cũng có khám thờ và bàn thờ như gian ở giữa nhưng quy mô nhỏhơn. Gian bên phải có khám thờ đề chữ triện “Tường Lân”, thờ thái tử nhàMinh và hai vị võ tướng. Gian bên trái có khám thờ đề chữ triện “ThoạiPhụng”, thờ công chúa nhà Minh và hai vị văn thần. (Xem các hình 6, 8, 9,10 và 11).

Đằng sau Chánh điện là một sân gạch khá rộng có đặtrất nhiều chậu kiểng. (Xem Hình 12). Qua khỏi sân gạch nầy là khu Tri từ hậusở, dùng làm nơi hội họp, tiếp khách cũng như đải tiệc trong các dịp lễ hội.Tại đây vẫn còn lưu giữ một cổ vật quý giá là cái đỉnh gang của Trung Hoa chếtạo từ đời vua Đạo Quang nhà Thanh (1842).

Nội Dung Thờ Phượng Bên Trong Đình Minh Hương GiaThạnh

Như ở trên đã nói, Hội Minh Hương Gia Thạnh được thànhlập là để lo việc thờ phượng, đình Minh Hương Gia Thạnh trở thành nhà hương hỏachung cho tất cả hội viên, nghĩa là nơi thờ phượng tổ tiên của hội viên, và, dĩnhiên, cũng là nơi thờ phượng vua nhà Minh. Về sau, Ban Trị-sự Hội nghĩ rằngphàm là đình thì phải có thờ thần nên đã quyết định làm long vị để thờ thần.

Tại chánh điện, một bệ thờ xây đá men rất cao chạyngang sát bức tường hậu đền, phía sau võ ca, chia làm 3 cung nghiêm (người MinhHương gọi là 3 Thần lầu) để làm bàn thờ.

Tại Thần lầu chánh (ở giữa) có bảng ghi hai chữ“Long Phi” là nơi thờ vị Hoàng Đế cuối cùng của nhà Minh, đồng thời cũng lànơi thờ 4 vị thần là:

Ngũ thổ tôn thần, Ngủcốc tôn thần, Đông trù tư mạng, và Bổn cảnh thành hoàng. Tại đây có đôi liẽnthờ như sau:

VĩnhTích Chưng Dân Chi Sanh Duy Thổ Duy Cốc

VôDi Thiên Giám Sơ Đào Như Điển Như Lôi

(Dân sẵn ơn ban, đời sống cơm ăn đất ở

Trờikhông để sót, đến đâu sấm dậy sét vang) [9]

Tại thần lầu bên phải, gọi là Chánh Đông, có bảng ghihai chữ “Tường Lân” là nơi thờ Thái tử nhà Minh, đồng thời cũng là nơithờ 2 võ quan là Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh và vị Tổng Binh nhàMinh Trần Thắng Tài (tức là Trần Thượng Xuyên) với 2 long vị như sau:

Thốngxuất Lễ Thành Hầu hộ quốc tí dân, ách cảnh, uy viễn chiêu ứng Nguyễn CôngThượng Đẳng Thần

(Thống xuất Lễ Thành Hầu giữ nước che dân, bảo vệ bờ cõi, uy danh rạng rỡNguyễn Công được truy phong Thượng Đẳng Thần) [10]

Phụ quốc Đô đốc Tướng quân Thắng Tài Hầu, gia phong oai địch, chiêu dõng hiểnlinh, Trần Công Thượng Đẳng Thần

(Phụ quốc Đô đốc Tướng quân Thắng Tài Hầu, chiến đấu dũng mãnh, địch phải sợ,Trần Công hiển linh Thượng Đẳng Thần)

Tại đây cũng có đôi liễn thờ, mô tả hành trạng của Tướng quân Trần Thắng Tàinhư sau:

Sĩtắc Bắc trào thần, cang thường trịnh trọng

Ninhvi Namquốc khách, trước bạch chiêu thùy

(tạm thích Nôm như sau:

TriềuBắc thẹn làm tôi, cang thường vẹn giữ

NướcNamthà là khách, trước bạch rạng nêu) [11]

Tại thần lầu bên tả, gọi là Chánh Tây, có bảng ghi hai chữ “Thoại Phụng” lànơi thờ công chúa nhà Minh, và cũng là nơi thờ 2 vị văn quan người Minh Hươnglà ông Trịnh Hoài Đức [12] và ông Ngô Nhơn Tịnh [13] với 2 long vị như sau:

ĐặcTấn Vinh Lộc Đại Phu, Hữu Trụ Quốc, Thiếu Bảo Cần Chánh Điện Đại Học Sĩ, TrịnhVăn Cách Công

Đặc Tấn Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Chánh Trị Thượng Khanh, Công Bộ Thượng Thơ,Ngô Túc Giảng Công

Tại đây cũng có đôi liễn thờ, mô tả hành trạng của ông Trịnh Hoài Đức như sau:

YếnBắc Thượng Thơ Hàm, Quang Phân Sở Bửu Việt Nam Hữu Trụ Quốc, Chủng Tiếp ChâuPhan

(tạm thích Nôm như sau: Yến Bắc, Thượng Thơ hàm, thẳng ngay chói rạng Việt Nam, Hữu TrụQuốc, trong sạch noi gương) [14]

Tại Tri Từ:

Tri từ là phần phía sau Chánh điện. Nơi đây cũng chia làm 3 phần với các bànthờ bố trí như sau:

- ở giữa: thờ các vị tiền bối đã khai sáng làng

- ở bên trái: thờ các vị chức sắc lớn (cùng với các vịphu nhơn) có công với làng và Hội ; ở đây cũng thờ hai ông bà Trương Công Sĩ,là ân nhân của Hội

- ở bên phải: thờ các vị chức sắc nhỏ (cùng với các bànội trợ) có công với làng và Hội

TạiMiếu Bà Ngũ Hành:

Trong Miếu Bà Ngũ Hành cũng có 3 Thần lầu như sau:

- ở giữa: có long vị ghi bốn chữ Ngũ Hành Nương Nương,phía trên có một cái cốt của Bà Chúa Thai Sanh, hai bên là hai cốt của hai Côtheo hầu Bà; phia dưới là 12 cốt của 12 Bà Mụ có bồng con.

- ở bên trái: thờ Phúc Thần, có ghi bốn chữ “PhướcĐức Chánh Thần”

- ở bên phải: thờ “Bạch mã Thái giám”

NhữngNgày Lễ Hội Của Đình Minh Hương

Hàngnăm, theo thứ tự ngày tháng Âm Lịch, Đình Minh Hương Gia Thạnh lần lượt tổ chứccúng tế nhiều lần như sau:

- Tháng Giêng:

. Mùng Bảy Tết: Cúng Xuân Thủ (đầu năm)

. Ngày 16: Cúng Kỳ Yên

-Tháng Ba: Ngày 19, cúng vía Bà

- Tháng Năm: Ngày 5, cúng Đoan Ngọ

- Tháng Sáu: Ngày 29, cúng kỵ cơm cho ông Trương Công Sĩ, một ân nhân lớn củaHội

- Tháng Bảy:

. Ngày 11, cúng Tam Kế Hiền, ba vị Hội viên là các ôngVương Quan Trân, Kha Văn Lân và Khương Thành Nguyên đã đứng ra vay tiền để muagiùm cho Hội dãy phố Tân Long

. Ngày 16: cúng kỵ cơm bà Trương Công Sĩ

-Tháng Tám: Ngày 15, Trung Thu

- Tháng Mười: Ngày 16, cúng Tạ Thần

- Tháng Mười Hai:

. Ngày 16: cúng Tạ Tĩnh

. Ngày 24: cúng Đưa Thần

. Ngày 25: cúng Tảo Mộ

. Ngày 28: cúng rước Ông Bà

. Đêm Giao Thừa: cúng Nghinh Thần

Trong các ngày lễ hội nầy, Lễ Kỳ Yên, vào ngày 16 Tháng Giêng, là quan trọngnhứt. Từ ngày Mùng 9, các chức giáp đã tề tựu để lo việc quét đình, lau chùibàn thờ, chuẩn bị mọi việc cho đến ngày Mười Bốn. Đến ngày Rằm thì lo trầnthiết đình, chưng dọn các bàn thờ. Ban tế lễ gồm các thành phần như sau:

-Chánh tế: ba vị, Chánh Chủ Hội, một Hương Trưởng Trị Sự, và một Hương Trưởng

-Bồi Chánh: hai vị, Hương Thơ và Hương Lễ

-Bồi Đông: hai vị, hàng Thượng Niên Hội Lại

-Bồi Tây: hai vị, hàng Thượng Niên Tư Sự

-Đứng bang: mười hai vị, hàng Hiệp Lý

Ngày xưa, khi cúng Kỳ Yên thì lễ vật để tế phải có đủ bộ Tam Sanh, gồm một heođực đen tuyền, một bò đực vàng tuyền, và một dê đực đen tuyền [15]. Vị Chánh tếphải mặc theo lối triều phục. Bây giờ lễ vật chỉ gồm hoa quả, bánh trái; các vịchánh tế chỉ mặc áo thụng xanh và khăn đóng xanh. Sau khi cúng thần xong thì tếmiễu Bà Ngũ Hành.

Thay Lời Kết

ĐìnhMinh Hương Gia Thạnh, với cơ cấu kiến trúc hiện nay, đã tròn một trăm tuổi vàđã được chính thức xếp hạng vào loại di tích lịch sử văn hoá. Tuy nhiên, với sốhội viên tương đối rất giới hạn, và khả năng tài chánh eo hẹp của Hội MinhHương Gia Thạnh, ngôi Đình nầy có nguy cơ bị xuống cấp. Mới đây người viết nhậnđược thơ của một người bà con là một thành viên trong Ban Trị Sự của Hội Minh HươngGia Thạnh. Trong thơ người đó cho biết như sau: ‘Do quỹ rất eo hẹp nên phảixây 2 căn phòng 2 bên mặt trước Đình để cho thuê, mỗi tháng được khoảng bốntriệu rưởi, dùng để cúng kiến Thánh Thần và tổ tiên... Việc tu sửa thì không cótiền để làm, chỉ sửa chút ít để chống dột và trừ mối thôi. Về lâu sau nầy chắcsẽ xuống cấp lắm.’ Người viết ước mong sao những vị con cháu Minh Hươnghiện đang sinh sống tại hải ngoại có thể cùng góp tay vào việc bảo vệ ngôi Đìnhlịch sử nầy.

Ghi Chú:

1. Từ điển Thành phố Saigon - Hồ Chí Minh /Thạch Phương, Lê Trung Hoa chủ biên. T/P HCM: Nhà Xuất Bản Trẻ, 2001. Tr. 675.

2. Nguyễn Phúc tộc thế phả: thủy tổ phả, vương phả, đế phả / Vĩnh Cao ... [vànhiều người khác] kính soạn. Huế: Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1995. Tr. 132.

3. Khoán ước và tiểu sử các vị tiền bối. Chợ Lớn: Hội Minh Hương Gia Thạnh,1951. Tr. 21.

4. Sơn Nam.Đình miếu và lễ hội dân gian. Đồng Tháp: Nhà Xuất Bản Đồng Tháp, 1994. Tr. 13.

5. Khoán ước, sđd, tr. 22.

6. Khoán ước, sđd, tr. 23.

7. Khoán ước, sđd, tr. [24].

8. Võ ca là một gian phòng trống, phần ngoài cùng của các ngôi đình ở Miền NamViệt Nam,thường được dùng làm sân khấu hát bội trong các dịp lễ hội. Xem thêm tài liệusau đây: Trương Ngọc Tuờng, Đình miếu ở đồng bằng sông Cửu Long, phụ lục trongsách đã dẫn của Sơn Nam,tr. 143-178.

9. Khoán ước, sđd, tr. 25.

10. Nguyễn Ngọc Hiền. Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh 1650-1700: với công cuộckhai sáng miền Namnước Việt cuối thế kỷ 17. Tái bản lần thứ hai. T/P HCM: Nhà Xuất Bản Văn Học,1997. Tr. 175.

11. Khoán ước, sđd, tr. 26.

12. Ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) là một đại thần đời vua Gia Long. Tổ phụ củaông là Trịnh Hội, người tỉnh Phước Kiến, sang lập nghiệp ở Phú Xuân, sau dờivào Trấn Biên (Biên Hòa). Ông sinh năm 1765 tại Trấn Biên, học trò của danh sĩVõ Trường Toản. Năm Mậu Thân (1788), Chúa Nguyễn Phúc Ánh mở khoa thi tại GiaĐịnh để chọn nhân tài, ông thi đậu và được bổ làm Hàn Lân Viện Chế Cáo, rồisung chức Điền- tuấn-quan trông coi việc khai khẩn đất đai tại Gia Định. Sau đó,ông lần lượt thăng cấp:

Tri Huyện Tân Bình, Ký Lục dinh Trấn Định, Hữu-tham-tri Bộ Hộ. Sau khi vua GiaLong lên ngôi năm 1802, ông thăng Thượng-thơ, lần lượt nắm giữ các Bộ Hộ, BộLễ, Bộ Lại và Bộ Hình, kiêm nhiệm Phó-Tổng-tài Quốc-sử-quán. Sau đó ông trở về Nam, hai lầngiữ chức Hiệp-Tổng-trấn Gia-Định-Thành (1808-1812 và 1816-1820). Ngoài ra ôngcũng nhiều lần sung chức Chánh sứ đi sứ sang Trung Hoa. Về mặt văn học, ôngcùng một số bạn học (Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh) thành lập Bình Dương Thi Xãvà nhóm Sơn Hội (gọi là Sơn Hội vì gồm nhiều vị mà tên tự hoặc hiệu có chữ Sơn,thí dụ, Trịnh Hoài Đức tự là Chỉ Sơn, Ngô Nhơn Tịnh tự là Nhữ Sơn, Hoàng NgọcUẩn tự là Hối Sơn, Diệp Minh Phụng, hiệu là Kỳ Sơn) để xướng họa văn thơ vớinhau. Ba vị Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tịnh được người đồng thờigọi là “Gia Định Tam Gia”. Thơ văn của ba vi, về sau được ông Trịnh Hoài Đứcgóp thành một bộ để in, gọi là “Gia Định Tam Gia Thi Tập”. Trịnh Hoài Đức cũngchính là người đã biên soạn bộ Gia Định Thành Thông Chí (1820) là một bộđịa-phương-chí rất quý về Miền Namcách đây khoảng 200 năm. (Xem thêm: 1) Nguyễn Huyền Anh. Việt Nam danh nhântừ điển. Saigon: Khai Trí, 1972. Tr. 596-597;2) Từ điển Thành phố Saigon - Hồ Chí Minh. TPHCM: Trẻ, 2001. Tr. 259; 3) Hoài Anh. Về đình Minh Hương Gia Thạnh & BìnhDương Thi Xã, trong: Sài Gòn xưa & nay. TP HCM: Trẻ, 1998. Tr. 227-230).

13. Ông Ngô Nhơn Tịnh (?-1813) là một đại thần đời vua Gia Long. Ông cùng họcdanh sĩ Võ Trường Toản với Trịnh Hoài Đức, cùng ra giúp Chúa Nguyễn Phúc Ánh,sung chức Hàn lâm viện Thị độc, sau thăng Hữu-tham-tri Bộ Binh. Ông đi sứ sangTrung Hoa hai lần, một lần làm Phó sứ cho Trịnh Hoài Đức (1802). Năm 1807, ônglàm Chánh sứ sang Chân Lạp để phong vương cho Nặc Ông Chân. Năm 1811, ông làmHiệp Trấn Nghệ An. Năm 1812 ông thăng Thượng-thơ Bộ Công, đồng thời sung chứcHiệp-Tổng-trấn Gia-Định-Thành. Về cuối đời ông bị vua Gia Long nghi ngờ nênbuồn phiền mà mất. Về mặt văn học, ông là một vị trong Gia Định Tam Gia nổitiếng đương thời. (Xem thêm: 1) Nguyễn Huyền Anh. Việt Nam danh nhântừ điển. Saigon: Khai Trí, 1972. Tr. 243-244;2) Từ điển Thành phố Saigon - Hồ Chí Minh. TPHCM: Trẻ, 2001. Tr. 183).

14. Khoán ước, sđd, tr. 26.

15. Khoán ước, sđd, tr. 43.

Phụ Đính
Hình ảnh đình Minh Hương Gia Thạnh




Hình 1: Mặt tiền toàn cảnh đình Minh Hương Gia Thạnh.


Hình 2: Cổng chính đình Minh Hương Gia Thạnh.


Hình 3: Bức liễn Thiện Tục Khả Phong.


Hình 4: Cổng vào võ ca.


Hình 5: Bảng công nhận di tích lịch sử.


Hình 6: Bàn thờ gian bên trái chánh điện.


Hình 7: Bàn thờ gian giữa chánh điện.


Hình 8: Giá binh khí bên trái gian giữa chánh điện.


Hình 9: Giá binh khí bên phải gian giữa chánh điện.


Hình 10: Bộ ghế vọng gian giữa chánh điện.


Hình 11: Sân trồng hoa giữa chánh điện và tri từ hậu sở.

__________________________________