Đọc truyện Nguyễn Văn Sâm: Tập ‘Quê Hương Vụn Vỡ’. Phan Tấn Hải
Bìa sách Quê Hương Vụn Vỡ


Viện Việt HọcCalifornia vừa xuất bản tập truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm, người nổitiếng về nhiều công trình nghiên cứu văn học nhưng cũng là một nhà sáng tác vănhọc với giọng văn rất Nam Bộ trong kiểu riêng củả ông.

Bạn đã từng đọcHương Rừng Cà Mau của nhà văn quá cố Sơn Nam, và đã nhận ra một giọng vănđộc đáo Nam Bộ trong đó đúng là có hương rừng Cà Mau. Nguyễn Văn Sâm cũng làgiọng văn rất là Nam Bộ, nhưng những dòng chữ của ông lại là một cực khác vớiSơn Nam.

Trước tiên là bốicảnh truyện: Sơn Nam ưa viết về một thời đã xa vắng ở Nam Bộ với nhiều truyệnngắn bất hủ như Hát bội giữa rừng, Mùa len trâu, Cây huê xà... đó là một thờikhai phá Miền Nam, và nếu gần hơn, thường chọn đề tài là thời trước 1975.

Trong khi đó,Nguyễn Văn Sâm trong tập truyện mới nhất, “Quê Hương Vụn Vỡ,” hầuhết ghi lại những gì tác giả nhìn thấy trong thời hậu nội chiến, khi, theo lờithơ của tác giả để đầu tập, “Quê hương vụn vợ lòng man mác, Đất nước tan hoang dạ ngậmngùi.”

Thứ nhì là văn.Lời văn Sơn Nam thơ mộnghơn, có thể hình dung rằng Sơn Namđang đuổi bắt những giấc mơ đang biến mất khỏi đời sống dân Nam Bộ. Một ngườiđang chụp bắt những hương rừng Cà Mau.

Trong khi đó, văncủa Nguyễn Văn Sâm đau đớn hơn, khi kể về nỗi ngậm ngùi của ông Sáú Hấu, ngườibị cưỡng bức hồi hương và rồi phát nguyện suốt đời quét mộ cho cụ Phan ThanhGiản, hey khi kể về người làm nghề đổi chó (tức, nghề bán chó) khi bất nhẫnmuốn bỏ nghề đầy tính sát sanh này... Ngắn gọn, truyện của Nguyễn Văn Sâm mangnhiều nỗi đau thời thế hơn.

Nhìn chung, SơnNam có lối văn bình dị, nhẹ nhàng, nói về những hình ảnh người dân miền khác,thí dụ Miền Trung và Miền Bắc, ít biết tới. Như truyện về anh phái viên đi thutiền báo và Tư Có ở cái xóm Cà Bây Ngọp...

Trong khi đó,Nguyễn Văn Sâm nói về những chuyện dân Miền nào cũng biết. Có lẽ vì Giáo SưNguyễn Văn Sâm đã rời nước ra đi từ năm 1979, và những hình ảnh khi nhìn thấymột quê hương mà ông gọi là “vụn vỡ” cần ghi lại ưu tiên hơn. Dù nói thế, vẫn cầnthấy rằng văn phong Nguyễn Văn Sâm có những chỗ biến hóa tân kỳ, như sau khikết truyện Người Quét Mộ Cụ Phan, ông lại viết thêm mấy dòng “LờiNgười Viết Truyện” để nói với nhân vật Sáu Hấu trong truyện. Cũng y hệtnhư chúng ta xem một vở kịch hậu hiện đại trên sân khấu, và kịch sĩ từ sân khấubước xuống nói chuyện với khán giả...

Truyện Nguyễn VănSâm mang nhiều ngậm ngùi thời đại, nổi bật là truyện đầu tập, có tên là “Ngườiquét mộ Cụ Phan,” kể về ông Sáu Hấu, người bị cưỡng bức hồi hương từ HồngKông và tự nguyện quét mộ cho cụ Phan, trích đoạn nhu sau:

...Đó, tôi biếtông Sáu Hấu trong trường hợp như vậy bốn năm về trước khi thiết đặt chương trìnhđi thăm mộ các danh nhân trong nước. Mộ Phan Thanh Giản nằm ở cái xã nhỏ thuộchuyện Ba Tri, Bến Tre. Điều đầu tiên làm tôi thất vọng khi so sánh mộ Cụ Phankhiêm nhường ở trong một rẻo đất, chung quanh đầy nhà cửa dân chúng, cây cối mọclan tràn lấn chiếm, trong khi đó lăng Nguyễn Đình Chiểu cách không xa bao nhiêunằm ở một vị thế trang trọng, có đền thờ, có quá nhiều bậc thềm lên lăng, cómấy cô thuyết minh duyên dáng lịch thiệp, có nhiều người săn sóc, quét tước, tỉacây và nhang đèn cung cấp cho khách viếng với giá tự nguyện.

Ông Sáu Hấu cườinhư mếu: ‘Điều vui cho Cụ Phan là Cụ có bạn láng giếng’, ông vừa nói vừa hấthàm chỉ về ngôi mộ của Võ Trường Toản ở gần đó. ‘Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu chỉcó người sống đến làm lễ nầy lễ kia, còn đại thần Phan Phan Thanh Giản có bạncõi âm cận kề tâm sự luôn luôn. Chưa biết điều nào làm thỏa lòng người đã khuấthơn!’ Tôi buột miệng ngâm: Sanh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử.. ÔngSáu Hấu làm tôi ngạc nhiên khi tỏ ra hiểu rành vế đối: ‘Ừ! Cụ Võ không con màcó bao nhiêu học trò trọng nể coi như cha ruôt. Cụ Phan có nhiều con cháu nayvì thời thế tản lạc tứ phương. Tôi quét mộ Cụ coi như là cháu chít tinh thần…. Màcần gì máu thịt hả? Thương nể chân thành là được rồi.

Tôi thương mến Cụvì tập Lương Khê Thi Thảo, tôi nể phục Cụ vì chén thuốc độc ung dung bưng đưalên môi uống cạn.’ Ngoài sân một con gà mái đương túc con, độ mười con gà conlông tơ vàng, dễ thương cách gì tít tít chạy theo mẹ. Chút nắng vàng èo uột sótlại trên tàng cây càng làm cho cảnh trí mang thêm nét tiêu điều cố hữu. Tôi hậmhực hỏi giống như tra vấn: ‘Sao mộ Cụ Phan không được chánh quyền địa phươngsăn sóc trong khi ông là đại thần dính dáng đến lịch sử và đất địa nầy, ông đãsống tiết tháo và chết oai hùng với nhiệm vụ. Cụ Nguyễn Đình Chiểu chỉ là nhàvăn lên tiếng chống ngoại xâm thôi, không có dịp chứng tỏ sự anh dũng bằng hànhđộng dầu rằng văn ông bốc lửa khi nước nhà ngữa nghiêng?’

‘Biết đâu nà!Muốn thì người ta làm, hơi sức đâu mà giải thích. Với lại ai dám hỏi mà ngườita có dịp nói nà?’ Tôi thích thêm tiếng nà chấm câu của ông Sáu Hấu, cũng nhưtôi thích tiếng cơ lúc còn học Trung Học qua miệng cô bạn cùng lớp mang dòngmáu đất Thăng Long văn vật xa xưa. Nói chung tôi thích những tiếng ít người dùngnhư tía, chế, hia, như mình ên, như huốt, như thây nó…

Thích tiếng, lắmkhi tôi thích luôn người xài tiếng đó mà không biết tại sao. Trong năm đầu tiênvô Đại Học tôi quấn quít bên thằng Ngầu, nó là kho tàng tiếng địa phương mà tôichưa có dịp khám phá. Thích tiếng lạ, tôi lại mê những vật có tên là lạ, tôithích cầm cái ky, mân mê cái chày vồ, ưa rờ cái khạp da bò, thích ngồi mép đít trênthành cái mái vú to tổ chảng, thích lột ăn từ lớp từ lớp bánh pía ngon lành,thích thưởng thức bánh thửng, mè xửng, bánh còng, bánh khọt, bánh tai heo,thích nhìn ngắm mấy lớp bánh da lợn màu mè…

Tóm lại, tôikhoái nghe những tiếng lạ lạ, chơn chất không tìm thấy trong văn học, chỉ tồntại bằng giọng nói của người bình dân nơi thôn quê ruộng rẫy. ‘Nè ông Sáu!’ Tôigiải thích theo kiểu khiên cưỡng là đất nước mình cần anh hùng. ‘Dám chống lạigiặc, đối đầu với lực lượng áp đảo của giặc là anh hùng. Giao thành cho giặcxong dầu uống thuốc độc tự vận cũng là đầu hàng giặc, đâu thể gọi là anh hùngđược phải không? Hạ bệ là phải thôi.’ Ông Sáu Hấu bình thản quấn điếu thuốc sâukèn, đốt lửa, bập bập: ‘Chuyện đời, ở bên ngoài biết hết bí ẩn bên trong đượcđâu nà! Giao thành để cứu dân ba tỉnh hay nướng hết dân đen ba tỉnh cho súnglớn súng nhỏ cái nào hay? Nói nhón một câu, khó biết lắm ông Việt Kiều ơi?

Bàng nhơn thiênhạ phê bình thì dễ, tới chừng đụng chuyện mới biết khó dàng trời mây, bứt hếttóc cũng tính không ra kế.’ Tôi nhột khi bị kêu bằng Việt Kiều. Chẳng biết tạisao nữa, nhưng mà áy náy giống như mình làm điều gì sai trái người ta biết tẩynhưng không nói ra. Có lẽ tôi mặc cảm trước việc làm vô vị lợi của ông già gầycòm nầy trong khi mình mạnh khỏe bảnh bao thọc tay vô túi quần đứng ngó. Tôinói đẩy đưa cho có chuyện: ‘Và ông cho rằng biết thời thế để xử trí như Cụ Phanlà anh hùng. Quét lau mộ Cụ, ông chứng tỏ rằng mình theo bảng giá trị khác vớingười đời phải không? Nói thiệt đi ông bạn!’

Tôi dùng chữ ôngbạn với giọng thân mật, cầu hòa. Ông Sáu Hấu ngó xuống cườm tay mình, đen mốc,khét nắng, sần sùi thẹo, rải rác mấy chỗ da chai, không trả lời thẳng, chỉ nhẹnhàng: ‘Ừ thì làm nhón vậy mà. Cực khổ gì đâu chú em. Ngồi ngó mong ra ngoàisân cũng hết ngày, hết đời. Bóng thiều quang có chờ đợi ai bao giờ đâu. Quéttướt quơ quào ba cái lá khô, mấy đống chó ị cho mát dạ tiền nhơn vậy mà! Tôinói bậy bạ vậy mà chú em thấy phải không chớ?’ Ông đứng dậy, hai cái ống quầnxà lỏn hơi rộng, đong đưa trong khoảng không giữa lớp vãi quần xám mốc và bắpchân đen đủi như khúc củi mục nhỏ xíu của ông, tay vói lấy cây chổi tào cau,tay cầm nùi giẻ bỏ vô một cái sô lưng lửng nước.

Bộ tịch hơi chậm,chưn đứng lên run run. Tuổi già ở quê tới mau hơn dân thành thị. ‘Đi! Tôi phảiquét mộ cụ. Mặt trời xuống chút nữa thì tụi nhỏ cặp nầy cặp kia ngồi choáng chỗkhó lau quét.’ Tôi đề nghị xách giùm ông sô nước, ông Sáu Hấu từ tốn gạt nhẹtay tôi ra điều nói mình chưa già. Nơi mộ danh nhân kia, bóng chiều đã xuốngnhiều, gió mát lạnh. Hai ba cặp trẻ đã giành những chỗ tốt, mấy chiếc xe gắnmáy dựng che nửa hở nửa kín cho chỗ tình tự, mân mơn. Ông Sáu Hấu lui cui quétdọn, như mình không có mặt trên cõi đời nầy.

Ông nói nhỏ vớitôi: ‘Đừng ngó bọn trẻ. Mắc cở tội nghiệp. Tuổi mới lớn thời nào cũng vậy thôi.Hưởng, mai tính theo mai.’ Ông nheo mắt mặt như dân chơi thứ thiệt: ‘Hôm nàohuỡn huỡn mình ôn lại chuyện cũ đời mình coi. Đâu thua gì chúng nó đâu nè!’ QuaTết, tôi mượn cớ dò đọc bài văn bia trên mộ Cụ Phan, lâu rồi hứa chép tặng mộtcơ quan văn hóa ở bên nầy, nên xuống lại vùng mộ Cụ để có dịp nói chuyện bá vơvới ông Sáu Hấu. Thấy gần cả chục dưa bự xộn bỏ lăn lóc trong góc nhà, tôi xuýtxoa rằng ông ăn Tết quá lớn, ông giải thích: ‘Thằng Tám Chinh cho người đemtặng đó, tôi đâu thèm nhận.

Của ăn cắp nhậnmang tiếng chết. Tuần trước gần ngã ba đường cái có hai xe tãi chỡ dưa, giànhlấn đường sao đó mà một xe lật nhào xuống ruộng, dưa bể lăn lủ khủ, tài xế cànhắc bỏ chạy trốn, dân chúng hè nhau tới hôi dưa mang về chưng Tết. Bậy hết chỗnói! Đã vậy mà thằng Tám Chinh còn thị thiềng cho bà con của nó đem xe ba bánhtới chỡ ra chợ bán. Tôi la rầy phản đối, nó trám miệng bằng mấy trái dưa ế nầy,nói là để kiếng Cụ Phan. Nói kiếng Cụ Phan thì tôi phải nhận nhưng mà chỉ đểđó, thủng thẳng rồi tính. Vong hồn Cụ đâu chứng giám kiểu ăn cướp có ba tăng nầymà kiếng với cúng.’ Tôi buột miệng nói một câu lãng nhách, hớ vô cùng: ‘Thôimình lấy một trái xẻ ăn, còn bao nhiêu trả lại tụi nó.’

Sáu Hấu đỏ bừngmặt, lớn tiếng phản đối: ‘Ông là Việt Kiều mà nói vậy nghe được sao? Muốn ănthì tôi ra chợ mua về một cặp mình ăn cho đã luôn. Của nầy là của bá vơ, ănnuốt làm sao trôi khỏi cổ?’ Tôi phải cười mơn, giả lả là nói chơi, ông Sáu Hấulâu lắm mới nguôi nguôi cơn giận. Lúc sau tôi giả bộ thiệt thân tình hỏi về vợcon, ông ngâm nga theo điệu thơ Quê Hương Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi.Rồi ông kéo áo lên khỏi bụng: ‘Xin lỗi ông Việt Kiều nha, tôi không tính choông biết cái vụ nầy nhưng mà…

Thôi! Cái thẹochần vần như vầy mà vợ con gì nữa.’ ‘Sao lạ vậy kìa?’ ‘.Thuyền tui tới HồngKông sau khi ở đây đã hết hạn tiếp nhận người tỵ nạn cho nên họ nhốt hết nguyênđám vô tù. Rạc ràng chừng hơn hai năm thì có chuyện cưỡng bức hồi hương. Mẹ,mình đã đánh đố với Tử Thần để đi thoát mà bị cưỡng bức hồi hương vì là người kháchđến trễ giờ thì có là ăn c.

Biểu tình hoài màhọ cứ trói từng người liệng lên xe trả về, từng đợt, từng đợt. Tụi tui 9, 10đứa xung phong rạch bụng tự tử để phản đối. Máu chảy ngập sân, nhầy nhụa đỏgạch mà nhân loại ngủ hết, chẳng ai lên tiếng lên tăm. Mấy đứa chết thẳng cẳng,còn mấy đứa ngất ngư. Tôi tỉnh dậy thì thấy mình đương ở trên máy bay bay vềnơi xuất phát, bụng còn băng mấy lớp, máu tươm ra thấm đỏ áo. Cô nhân tình bébỏng mất liên lạc từ đó.’

Tôi thở dài: ‘Thôithì là…số mạng hết ông Sáu à! Ở đâu cũng là do thiên địnhsẵn rồi. Bôn ba chẳng qua thời vận. Cần là mình sống cho phải đạo. Quét mộ CụPhan, ông ơi, phải đạo hơn ngàn lần làm Việt Kiều quậy phá, ăn cắp ăn gian tiềnnọ tiền kia của đất nước rộng mở bao dung.’ Sáu Hấu vui hơn đôi chút, tâm sự: ‘Thờigian ở trại, những đêm mưa rỉ rã, âm thanh giọt mưa gõ lên mái tôn trong đêmvắng nghe như nhạc chết, nói lên cái tương lai đen tối của người chẳng có quêhương. Thêm buồn vì sự tranh đấu phải giữ kín, không dám lộ, tôi ngâm nga mấycâu thơ của Cụ Phan làm khi Cụ đi xa không thể ngủ: Nằm không ngủ đêm thành dàivô tận, Nín lặng thinh ý tưởng hóa thâm trầm.

Năm tàn hếtchuyện ngày qua tồn đọng, Trở thành xưa cổ tích của ngàn năm. Sông trôi chảysánh thời gian tuôn lướt, Vầng trăng kia soi mượt đỉnh cô phong. Mang tâm sựbiết ai đâu kỳ vọng, Khách địa buồn đau xoáy buốt thân tâm. ‘Về lại đất nước mình,sau thời gian lăn lóc kiếm ăn khó nhọc, tôi trôi dạt tới đất địa linh nầy. Thấymộ Cụ Phan điêu tàn, gà bới, chó chạy rong ị bậy, bọn trẻ xả rác lềnh khênh,mấy đứa chăn trâu đập bể đá cẩn, khẻ khờn mép bia…nhớ lúc ở trại trong vòng ràokẻm gai, tôi nuôi sống tâm hồn mình bằng bài thơ Bất Mỵ của Cụ nhờ đó khỏiđiên, khỏi nhảy lầu, tôi phát nguyện….’ Tôi đứng bật dậy, đưa hai taybắt tay người bạn già, nâng niu như bàn tay một người trưởng thượng trong giađình lâu ngày không gặp. Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau, chẳng cần nói điềugì thêm. Mấy năm rồi hễ có ai về tôi đều nhờ ghé tìm thăm ông Sáu Hấu của tôi.

Chẳng ai cho đượcmột chi tiết cụ thể nào. Ai cũng nói hỏi không ra, không biết ông đi đâu rồi.Cái ao cá hố bom trước nhà ông bây giờ đã lấp mất, biến vào Không như dật sửđời ông. Sau cùng có người mơ hồ cho tôi biết ông vấp miễng sành hay đạp miểngbom, đinh sét gì đó rồi bị phong đòn gánh giựt chết. Riêng tôi nghĩ rằng ông đãlìa bỏ xác phàm, xa rời cõi có không trần cảnh để đi vào Cõi Không rốt ráo. Ônghóa thân xuống ban dạy từ bi cho người đời, thức tỉnh lòng hỉ xã trong tôi lâunay đương mê ngủ. Có thể công nghiệp đã xong, ông chọn cách tịch gây nhiều cảmxúc nhằm nhắn nhủ gì đó với đời, chẳng hạn như: Đất nước chưa thật sự an lành,nỗi rủi ro bất hạnh vẫn đương rình rập dân đen từng giờ…

Biết đâu được nà!Bài học ở đời nhan nhản quanh ta, khó là tự ta phải biết tìm ra bài để học. Ởphương trời xa xôi, đôi lúc ngồi ngắm mây trời phiêu lãng trôi, nhớ xứ sở, tôitrách thầm khi thấy mình ngày đó ngu ngơ không giải nỗi bài toán tại sao lạiquét mộ Cụ Phan. Ông Sáu Hấu đã gián tiếp cho lời gợi ý: ‘Giữa người yếu khôngthể tự vệ là dân ba tỉnh Miền Namvà kẻ xách vũ khí đi xâm lược là thực dân Pháp ai là kẻ đáng tôn vinh, ai làngười nên xếp vào hàng bất xứng?’

Nguyễn Văn Sâm Victorville, CA,June 1-10, 2011

Lời người viếttruyện: Ông Sáu Hấu à! Thường truyện ngắn viết hết truyện thì thôi, thậm chítác giả cũng không có quyền giải thích về tác phẩm của mình, phải trao toànquyền hiểu như thế nào cho từng độc giả. Xin ông Sáu Hấu bỏ qua cho vài ba điềuông không muốn nói mà tôi đã nói, nhiều đoạn tôi hơi cường điệu chút đỉnh. Ôngcòn sống hay đã mất quan trọng đối với một đời người nhưng không quan trọng đốivới bài học người đó trao truyền cho đời, do đó tôi nói lại chuyện của ông màsẽ không đi tìm nơi ông an nghĩ dù chỉ để thắp một nén hương. Xin ông hiểu cho.Về các chi tiết: Lăng mộ cụ Phan và Cụ Võ ở tại xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri,tỉnh Bến Tre. Lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu tại xã An Đức, cùng huyện. Câu đối ở mộCụ Võ: Sanh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử. Một hậu thịnh danh tạithế, tuy vong giả bất vong. Bài Bất Mỵ (không ngủ) của Phan Thanh Giản trongLương Khê Thi Thảo: Bất mỵ tiêu hà vĩnh/Vô ngôn ý chuyển thâm/Chung tuế tíchxuân hạ/ Lãi vãn thành cổ câm/Giang lưu tranh nhật quỹ/ Minh nguyệt quá cô sầm/Hữuhoài phục thùy ngữ/ Đao đao du tử tâm.

(Nguyễn Văn Sâmdịch.)”(hết trích)

Giáo Sư Mai ThanhTruyết trong lời bạt cuối tập Quê Hương Vụn Vỡ đã viết, trích:

“Bạn Sâm thân mến,

Bạn nhờ tôi viếtLời tựa hay Nhận định tác phẩm mới vừa viết xong của Bạn. Cảm tưởng đầu tiêncủa tôi sau khi đọc hết bản thảo của cuốn sách là bạn làm cho người đọc thấylại toàn cảnh ở Việt Namnhững năm đầu tiên sau 1975. Từ những mánh mung ở đầu đường xó chợ cho đếnnhững câu nói đầu môi chót lưởi mà người dân sống ở miền Nam trước 75chưa hề nghe đến.

Cả một xã hộihoàn toàn bị đảo lộn theo chiều hướng hết sức tiêu cực ở tất cả khía cạnh sinhhoạt trong đời sống hàng ngày của người dân chất phác miền Nam. Có thể nóiđây là cuốn sách đầu tay của bạn viết về những vấn nạn của Đất và Nước sau 1975,mặc dù bạn đã viết rất nhiều sách về chữ Nôm và những câu chuyện đồng quê, câuchuyện có tích cách mặc dù nói về những vấn đề nông thôn nhưng đượm tình dântộc và có tính cách luân lý giáo khoa thư...

...Nhưng điểmquan trọng nhứt trong tâm cảm của hai đứa mình là có cùng một một Tâm và Tầm. Tâmlà một tâm lành trong việc góp phần vào công cuộc giáo dục. Tầm là viễn kiến vềmột tương lai đất nước trong tinh thần vô vị lợi...”(hếttrích)

Sau đây là vàidòng tiểu sử của Giáo sư Nguyễn Văn Sâm, theo Viện Việt Học.

Sanh tại Sài gòn,1940. Từng dạy ở trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, Pétrus Ký, Đại Học Văn Khoa(Sài gòn) và các trường Đại Học Vạn Hạnh, Cao Đài, Hoà Hảo, Cần Thơ.

Sang Mỹ từ năm1979, vẫn sống bằng nghề dạy học. Viết cho Văn, Văn Học và các tạp chí Việt ngữcủa người Việt. Trước 1975 chuyên viết về biên khảo văn học. Đã in:

Văn Học Nam Hà(1971, 1973), Văn Chương Tranh Đấu Miền Nam (1969), Văn Chương Nam Bộ vàCuộc Kháng Pháp (1972).

Qua Mỹ viếttruyện ngắn vì những thôi thúc phải nói lên sự suy nghĩ của mình về quê hươngvà thân phận người Việt, ngay trên quê hương, hay lạc loài tha hương. Đã in ởMỹ:

Câu Hò Vân Tiên(1985), Ngày Tháng Bồng Bềnh (1987), Khói Sóng Trên Sông (2000).

Gần đây, trở vềgia tài cổ của dân tộc bằng cách phiên âm các tuồng hát bội, truyện thơ viếtbằng chữ Nôm chưa từng được phiên âm mà nguyên bản hiện còn đang nằm trong cácthư viện lớn ở Âu Châu: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Lôi Phong Tháp, Sơn Hậu DiễnTruyện, Trương Ngáo v.v...

Thành viên BanBiên Tập Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn. Trưởng ban Văn chương, Viện Việt-Học. Hiệncư ngụ tại California,Hoa Kỳ.

Tập truyện QuêHương Vụn Vỡ dày 274 trang, gồm 20 truyện ngắn, ấn phí ủng hộ cho Viện Việt Họcghi là 20 Mỹ Kim. Có thể mua ở:

Viện Việt-Học

15355 Brookhurst St., Suite 222, Westminster, CA 92683, USA

Tel: (714)775-2050.

www.viethoc.com


Phan Tấn Hải