Kể chuyện ngày xưa

Năm63 sau ngày thay ngôi đổi chúa, Sàigòn trùm ngập trong không khí hăng say củamột thành phố bỗng nhiên thấy mình vươn thân lớn lên đến tuyệt cùng của sự ápdụng lý thuyết dân chủ. Người khổng lồ Sàigòn dầu tiềm tàng sức mạnh vạn năngvà trăm tay tự do nhưng ngỡ ngàng bối rối không biết làm thế nào tiêu pha hếtcác xung lực bên trong cơ thể. Nhân sự và năng lượng dự trữ quá nhiều. Khuynhhướng và lý thuyết cũng không phải ít. Phía nầy các tướng lãnh trẻ, sạch rụcrịch đảo chánh lần nữa để đem lại ổn định cho quốc gia. Phía kia các khuôn mặtdân sự sáng giá từng vào tù ra khám, họp bàn sách lược mới về cứu nước và dựngnước thay thế cho sách lược cũ vốn mới nghiên cứu và ban hành trước đó khônglâu. Sàigòn đầy rẫy lãnh tụ sinh viên với khả thể hô hào tụ họp được hơn mườingàn khuôn mặt trẻ dễ dàng chiếm đường phố suốt ngày. Sàigòn phong phú các bậctrưởng lão tôn giáo chỉ hiểu dụ một câu có thể làm náo loạn sinh hoạt thườngnhựt của thủ đô cả tuần kế đó. Sàigòn ngập tràn tin tức bắt bớ, trả thù trongbóng tối. Sàigòn với vô vàn cuộc thưởng chức phong quan không theo hệ thốngluật lệ hằng hữu. Ðã hết rồi thời luật pháp cần có của một đô thị trên đà pháttriển trong giai đoạn chiến tranh quy ước. Sinh hoạt êm ả của ngày xưa khôngcòn thấy đâu nữa. Dân chúng Sàigòn đắm chìm trong ưu tư bất trắc của ngày maivới viễn ảnh thực phẩm khan hiếm, đầu cơ và các bản nhạc hùng đặc trưng củachỉnh lý, đảo chánh cùng với hiến ước, hiến chương, ước pháp.

Tôiphơi phới ngồi phía sau cóp chiếc xe lô Minh Chánh nhìn thiên hạ ngược xuôi.Tất cả nếu không biểu lộ nét chán chường thời thế thì mang vết hằn của nămtháng lo âu. Sao nỡ ra đi bỏ thành phố thân yêu không thương tiếc? — Hơn haimươi năm chung tình rồi còn gì. Em Sàigòn biến chất chớ không phải tôi tình phụbỏ bê. Trong phong ba của bom đạn Ðồng Minh cuối thế chiến, tôi chỉ theo cha mẹvề quê vùng Chợ Ðệm náu nương một thời gian ngắn rồi lại lục tục trở lên Sàigònsống đời thơ ấu cho đến lúc bước những bước rụt rè chánh thức vào đời như mộtngười trưởng thành. Tôi từng đứng nhìn không mỏi mắt đàn kiến người đưa đámtang anh học sinh họ Trần, đám tang lớn nhứt thế kỷ cho một thanh niên trẻ tuổinằm xuống vì tiếng nói đối kháng chế độ thực dân. Tôi từng theo chân đoàn ngườithật dài và yên lặng tiễn đưa nhà văn độc nhất đang sống ở Miền Nam của vănđoàn Tự Lực, nằm xuống để phản đối không cho người khác xử án mình. Tôi đi tìmmột thành phố hiền hòa nào đó, trốn tránh sự ngột ngạt của những dao động lúcnào cũng có thể xảy ra cho thủ đô thần tượng. Vị Giáo Sư ngành Triết dạy mônÐạo Ðức tại trường Ðại Học tôi đang theo, lúc đó phụ trách ngành Trung Học, thểtheo lời yêu cầu phụ giúp của người bạn thân vừa tham chánh trong một chánh phủgọi là của dân nghèo, ký giấy cho tôi được về dạy giờ tại ngôi trường mang tênvị văn hào mù lòa nhưng tượng trưng cho hào khí của miền Nam khả ái. Tôi chưacó một hình ảnh gì rõ rệt về ngôi trường mình sắp đến. Tất cả đều là những cảmgiác mù mờ đựa trên các dữ kiện thiếu cơ sở. Không thể nào trường nầy cựu tràohơn ngôi trường tôi từng theo mười năm trước, mang tên nhà văn bác-ngữ-học danhtiếng cuối thế kỷ vừa qua. Không thể nào trường nầy tọa lạc trên vùng đất khangtrang như ngôi trường của tôi. Không thể nào trường có phong vị học hành nhưngôi trường đã cho tôi niềm hãnh diện trong thời niên thiếu... Không thể, vàbiết bao nhiêu cái không thể khác hiện ra trong trí.

Cácý nghĩ đó thay đổi khi tôi đến trước ngôi trường nhiệm sở. Cổng sắt to lớn, uynghi. Cột cổng bằng xi măng, bề thế. Ngôi nhà chức vụ của ông Giám Học như cănbiệt thự nho nhỏ, xinh xinh. Trường rộng rãi, nguyên cái sân thôi cũng đã tohơn toàn thể khu đất của nhiều trường ở Sàigòn. Kiến trúc trường cổ kính theohình chữ U, dãi lầu ngang tôi còn nhìn thấy lan can và nhiều thanh sắt uốn nắnhay chạm hoa văn đặc biệt của mô thức kiến trúc kiểu Pháp đầu thế kỷ. Trườngnằm lọt trong lòng một khu vừa thị tứ vừa thơ mộng. Con đường me phía trước saomà vừa rộng thênh thang vừa đẹp đẽ đến kỳ thú, gợi tình. Chắc hàng me đã trơgan cùng tuế nguyệt hàng bảy tám chục năm nay. Thân me to lớn, cành lá xum xuê,tạo nên con đường me bay ngay thơ mộng trong ký ức tôi ngay từ lần đầu tiênđược biết. Cảm giác đó vẫn còn giữ cho đến ngày hôm nay dầu đoạn đường đời đãbước vài bước sang chặng cuối. Con đường Ngô Quyền bên hông trải dài bằng dãinhà sang trọng, biết bao nhiêu căn lầu kiến trúc đẹp đẽ, kín cổng cao tường,nói lên sự hiện dịện của mình chỉ bằng mùi bông sứ bông trang thơm ngát. Conđường phía sau là khu chợ, nơi mà sau nầy là chỗ thầy trò chúng tôi nhiều tốira ngồi trước tô bò viên và ly rượu thuốc Vĩnh Tồn Tâm nhìn sinh hoạt buổichiều ồn ào của tỉnh lỵ mà bàn chuyện đội đá vá trời. Hình ảnh ngôi trườngtrong trí khác với hình ảnh thật sự bên ngoài đã thay đổi tình cảm của một thầygiáo mới vào đời là tôi. Tôi cười làm quen với những cậu học sinh áo trắng quầndài xanh, huy hiệu bằng vải thêu chữ xanh may luôn trên áo. Qua họ tôi nhìnthấy hình ảnh mình năm ba năm trước, tự hào với đàn em các lớp nhỏ nhưng chínhmình lại bỡ ngỡ với quá nhiều ngã đường kỳ bí trước mặt của những ngành nghề.Những cái gật đầu chào ngỡ ngàng đồng thời chứa đựng một sự kính trọng cùngthân thiện đến ấm lòng. Tôi đi về phía văn phòng. Dãi lầu bên trái đối với cổnglớn, dựa lưng vào đường Ngô Quyền. Một vị giáo sư đứng tuổi, người rắn chắc,thấp, dáng thể tháo gia, tóc hớt cao, sau này tôi mới biết là thầy Tổng GiámThị có cùng tên với mình, kêu hai học sinh bê bối mà nãy giờ ông đang giảngluân lý, đứng qua một bên, đón tôi lại, hỏi rồi niềm nở chỉ văn phòng hiệutrưởng. Tôi cảm thấy ấm áp nhờ sự chào đón đầu tiên đó. Ngay từ phút nầy tôibiết rằng Sàigòn đã thật sự vắng mặt trong tôi, từ đây mình là một phần tửkhông thể tách rời của ngôi trường tại vùng đất của mận hồng đào thơm ngọt. Ðờimình rồi sẽ gắn bó với nó nếu những trở ngại đừng quá lớn lao.

Phúttrình diện thân mật và dễ dàng hơn tôi nghĩ. Nhìn ra ông Hiệu Trưởng, tôi gọiông bằng Thầy và nói rằng mình xuất thân từ ngôi trường nhiệm sở tiền nhiệm củaông. Ông xưng Thầy và gọi tôi bằng con, tiếng con thân thiết khiến tôi cảm độngthật sự dầu mình đang ở trong tuổi tự cho đã lớn và phải kềm chế những xúc cảmkhông hợp với phái tính. Ông nói sơ qua về sinh hoạt của trường, khuyên tôi nênhọc thêm năm chót để hoàn tất học trình cần thiết của một giáo sư trung học. Ôngnói về bổn phận của người thầy ở đây và bổn phận đối với chính mình khi tôi códịp về Sàigòn. Giọng nói của ông ấm áp, từ tốn, tỏa ra sự thân yêu đùm bọctrong từng lời một của một người đi trước lo lắng cho với lớp trẻ đi sau. Tôicảm thấy được che chở ở nhiệm sở đầu tiên trong đời qua lời khuyên nhủ chânthành của ông. Giờ phút nhậm chức sao mà giống như những phút tâm tình của haingười với tương giao sư đệ!

Theolời chỉ dẫn của thầy Hiệu Trưởng, tôi vào văn phòng Giám Học để xin được xếpthời khóa biểu. Thật sự tôi là thành viên của ngôi trường từ đó. Ðấy là nhữngngày đầu của năm 64.

ThằngÐất thường bối rối khi tôi kêu lên hỏi bài. Cả lớp ồn ào khi thấy nó khó nhọclách mình giữa khoảng cách quá hẹp của cái ghế dài và bàn viết. Cử chỉ cùngđiệu bộ của nó không phù hợp với một học sinh Ðệ Ngũ chút nào. Ðó là thân hìnhcủa một người trưởng thành, to lớn, mạnh khoẻ. Nó cao hơn tôi nguyên một cáiđầu mà lại cố tình đứng xáp vô tôi để bạn bè thấy ngay được sự cách biệt hìnhdáng của hai thầy trò. Tôi lùi lại, bước lên bục giảng, nó biết thân không dámbước theo lên. Bây giờ nó vừa khoanh tay hếch mặt lên trời vừa ưởng ngực hítthở óp bụng làm Thần Ðèn lực lưỡng trong tuồng Ấn Ðộ Ali Baba. Cả lớp cườinghiêng ngửa, có đứa được dịp đấm thình thịch vào thằng bạn kế bên. Lớp họcthật sự mất vẻ nghiêm trang cần có. Tôi bối rối thiệt tình. Ðã ra thân dạy giờmà không nắm vững được lớp thì chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi làm mặt nghiêm, lấythước bảng gõ xuống bàn kịt kịt rồi ra luật rằng từ bây giờ trò Ðất muốn làm gìcứ việc làm nhưng trò nào cười sẽ bị phạt. Chưa biết hình phạt là gì nhưng nghetiếng phạt đứa nào cũng nín im. Tội nghiệp thằng Ðất, nó kềnh kàng nhưng vẫn làmột đứa học trò vừa qua khỏi Tiểu học không bao lâu, kiến thức mọi môn đều kém.Thế mà tôi lại bắt nó trả lời những câu hỏi hơi quá sức, ngay cả đứa học tròthông minh nhứt của tôi, con của một nhà văn chuyên tả cảnh sinh hoạt đồng quêTr. Gi. được tiếng là có cơ hội đọc khá nhiều sách, cũng không trả lời được. Sựgiải thích của tôi về hình ảnh quá hoàn hảo của anh chàng Vân Tiên khoan khoanngồi đó chớ ra bằng phản ứng do cảm thức thất bại của tác giả trong đời sốngbình thường cũng là một giải thích quá tầm thâu hoạch đối với thằng Ðất và nhiềuhọc sinh khác. Vậy là nó lãnh đủ những hờn giận của một thầy giáo chưa có kinhnghiệm và chưa phân định được chuyện học hành và cảm xúc không kềm chế của mộtngười thầy. Thằng Ðất tiu nghỉu khi xách tập về với một cặp số không màu đỏ vàlằn gạch dưới đậm dài như ngọn roi mây quất vào lòng. Lớp học êm thật êm, tôinghe cả tiếng một con ruồi vo vo đằng cuối lớp. Tôi nhận được tiếng thở dài củanhững đứa học trò nhỏ hiền. Những cái nhìn lấm lét làm chùn lòng tôi. Miệng cắtnghĩa bài nhưng hồn tôi như đi trên than hồng của sự hối hận, nghe tiếng mìnhsao mà vô vị, bất xứng và đáng ghét.

Chúhỏi sau nầy tôi có xin lỗi hay nói phải quấy với thằng Ðất cho nó mát dạ khônghả? Cái bậy nầy dẫn tới cái bậy kia chú ơi. Tôi lờ đi với lý do mình là thầy,chỉ tỏ ra săn sóc nó hơn, ngọt ngào với nó hơn chớ tuyệt nhiên không nói gì đếncơn giận nắng mưa vô lý của mình. Cho tới bây giờ gần bốn chục năm qua, tôi vẫncòn mường tượng vẻ mặt cười cười trong khổ sở và bắp tay cuồn cuộn của nó khitôi đánh quẹt lọ vô đó vì những câu nó trả lời không hợp ý mình. Chú biếtkhông, thằng dễ thương vậy mà năm sau phải bỏ học ngang, chưa kịp thi cả bằngTrung Học Ðệ Nhứt Cấp. Bạn bè của Ðất cho tôi biết nó vô Dân Vệ ở xã nhà đểđược gần gũi gia đình. Ðời bận rộn quay mòng trong cơn lốc thời gian và cuộcsống bon chen khiến tôi quên bửng nó, không biết về sao Ðất như thế nào nữa.Chiến tranh thời nầy đã nuốt chửng vô vàn thanh niên, không biết người học tròđặc biệt đó của tôi thoát khỏi chăng nanh vuốt của con quái vật gọi là cuộcchiến?

Chúmuốn nghe nữa? Toàn chuyện buồn không à! Chuyện vui bay thoát mất tiêu trongtâm trí, chuyện buồn man mác mới tồn tại trong hồn ta chú không biết điều nầysao? Lúc đó tôi tạm trọ trong nhà nọ. Nhà lầu ba từng ở đường Ngô Quyền, chủnhà là một bà bác độ chừng hơn năm mươi, quả phụ của một thầy giáo. Nhà rân ráclắm, trước kia nghe đâu có mở tiệm cầm đồ, thầy giáo mất, bà bác cho học sinh ởtrọ để vui cửa vui nhà. Bà sắp xếp cho tôi ăn riêng theo khẩu phần và giá biểucủa giáo sư. Ðộ một thời gian, sau khi đã quen với đám học trò cùng nhà, thấycác em ăn uống kham khổ tôi nghĩ rằng ăn chung với tụi nó tốt hơn. Kết cuộc lànhiều bữa tôi đói, phải ra chợ ăn thêm vì sức học trò ăn quá mạnh, loáng mộtcái trên mâm đã không còn gì. Cũng nhờ ăn chung mà tôi chơi thân với những đứahọc trò lớp Ðệ Nhứt, khoảng cách giữa thầy trò chỉ vài ba tuổi thôi. Chúng rànhsáu câu mọi chuyện xảy ra trong vùng. Chúng nhứt quỷ nhì ma, biết nhà nào cócon gái xuân thì, biết trái cây bà bác cúng rồi để đâu, biết thức ăn nào còn đểdành lại. Một bữa kia vào lúc bảy giờ tối văng vẳng đưa tới nhà trọ tiếng kènđám ma tò te từ xóm bà giám thị Ðẹp. Tôi đưa mắt hỏi thằng Thượng, nó trả lờitrong tiếng thở dài, thầy Th. đó. 'ng bị bắn sẻ trên đường về trường. Rồi nó kểtiếp, ổng đi tác chiến đâu chừng được một năm, mới có giấy biệt phái về lạinhiệm sở cũ, vừa bàn giao đại đội đi về thì bị. Tài xế cũng không biết, chỉthấy ông gục đầu qua một bên rất lâu, tưởng là ổng ngủ. Tội nghiệp cô Th. cònrất trẻ, con của cô thầy đâu chừng hai tuổi thôi.

Tôirùng mình, trong túi tôi hai ngày nay có tờ giấy kêu trình diện Bộ Quốc Phòngdo Chuẩn Tướng Giám Ðốc Nha Ðộng Viên họ Bùi ký. Tôi chưa biết phải đối phócách nào với lịnh gọi. Tờ giấy bây giờ nghe như đương vương mấy ngón tay móngdài ra cào cào bắp vế tôi nói rằng mình có mặt. Ðêm hôm đó và liên tiếp hai bangày sau tiếng kèn u uất kia là nỗi ám ảnh không rời. Tôi chưa từng biết Th.,đám tang anh tôi cũng không đi dự, thế mà lòng nghe xót xa cho anh, cho nhữngngười cùng trang lứa. Chắc anh khi cầm tờ giấy biệt phái đã xây biết bao nhiêumộng, đã vẽ ra nhiều chuyện mình phải làm cho tương lai. Thùy vô tử nhưng đâylà lần đầu tiên tôi nghe chi tiết về cái chết của một đồng nghiệp bất hạnh.Tiếng kèn và tấm giấy gọi nhập ngũ đã tạo cho tôi nhiều ác mộng. Tội nghiệp chongười hay nghĩ đến chuyện có thể xảy ra cho mình trong tương lai? Không có thìgiờ phân tích lòng mình, tôi chỉ biết rằng mình sợ trò chơi binh nghiệp ngay từkhi nghe chuyện bất tường xảy ra vào Giờ Thứ Hai Mươi Lăm của Th.

Chúmuốn nghe nữa? — Ðược. Tôi có một đứa học trò ưa cùng tôi bàn luận chuyện vănchương thi phú. Ðệ Ngũ thôi, nhưng nó thuộc thơ văn nhiều hơn tôi tưởng. Lắmlúc nhận xét của nó quá khích đến lạ lùng. Thằng Thiện bữa nọ đưa tôi tập thơTừ Ấy in trong vùng Giải Phóng ở Bến Tre. Tập thơ khổ nhỏ, in đẹp, giấy trắngtốt. Tôi cầm mà tay run run. Không phải đùa, lớn chuyện rồi đây. Thằng Thiệntheo bên nầy hay bên kia mình đều kẹt cứng. Khuyên bỏ hay khuyên giữ tập thơđều khó, đều có thể có phản ứng ngược. Tôi hỏi ở đâu em có, nó trả lời là củaanh em, anh ấy lớn hơn em một tuổi, thi vô Ðệ Thất không đậu, ở nhà. Bây giờanh ấy theo phe bên kia. Vùng xôi đậu mười bốn mười lăm là phải theo họ haychạy ra thành phố. Ảnh chọn ở lại vì em còn mẹ già và hai em gái nhỏ. Thỉnhthoảng tối ảnh còn được về nhà thăm má em giúp bửa củi, đắp mương, đào ao, đậplúa. Ði lính Cộng Hòa không biết bao giờ mới được thăm gia đình. Tôi nói nhưngmà Thiện đừng cầm tập thơ đó khơi khơi như vậy, nguy hiểm cho em. Nó là một thứquốc cấm. Thà em hiểu, em chọn phe thì có lý, đàng nầy em chỉ thích thơ và tòmò muốn biết nội dung trong đó. Cái hại không bù với cái lợi trong trường hợpnầy. Thằng Thiện thở dài, xếp tập thơ lại, đút túi. Từ đó nó không bàn gì đếnchuyện thơ phú với tôi nữa. Tôi quên đi Từ Ấy, chỉ nhớ đến chuyện hai anh emThiện. Rồi đây sẽ có lúc hai đứa cầm súng bắn nhau mà mọi sự bắt đầu bằngchuyện thi đậu hay thi rớt vào Ðệ Thất của trường tôi đang theo dạy. Ước gìtrường tôi có đủ chỗ học cho tất cả học sinh vào Ðệ Thất. Ước gì đất nước chúngta không có những vùng xôi đậu. Chú hỏi về sau hả? Thằng Thiện tôi gặp lại ởSàigòn sau đó, đang theo học trường Chiến Tranh Chánh Trị. Nó nhắc đến nhữngđứa học trò cùng trọ với chúng tôi bây giờ hầu hết đã thành nhân chi mỹ bằngmột giọng thiệt vui. Tụi em gặp nhau là nhắc tới thầy hoài, nhắc tới sư tổ nữa.Tôi chận ngang, nói rằng mình hãnh diện khi thấy các em thành tài, đất nướcmình nghèo, quê hương mình chìm trong đại nạn chiến tranh nhưng trường học đãlàm tròn nhiệm vụ đào tạo, và học sinh đã sống xứng đáng đời học sinh. Chú biếtkhông, không gì thiệt thòi cho trẻ em bằng cắp sách đến trường mà không tinnhững gì thầy cô giảng. Không gì dễ làm hư trẻ em bằng sự đối nghịch giữatrường học và trường đời. Chú có thể chê thế hệ tôi có nhiều cái bê bối nhưngchú không thể chê tình thầy trò và sự giáo dục mà các em đón nhận của thờinầy...

Tôitừ giả nhà trọ để khỏi đi sâu vào những chuyện khó xử về sau, chuyển tới ởchung trong chuồng cu phía sau trường với người thầy cũ mà học trò tôi thườnggọi là sư tổ. Như đã nói với chú, chiều chiều tôi cùng với một anh bạn giáo sưgốc võ sĩ cùng hộ tống thầy mình ra ngồi sau chợ, nhâm nhi ly rượu thuốc đểquên đời và bàn chuyện lớn. Tôi thật sự làm quen với các đồng nghiệp là lúcnầy. Anh Lê, Toán Lý, cờ hạng cao, anh Quách, vua cờ, Giám học Lâm vui tánh,anh Ðại, Sử Ðịa, bạn học với tôi, anh Sáng râu, triết gia, tuyên bố không thèmcưới vợ. Anh Phẩm Bá, Pháp văn, nhiều tham vọng, anh Tam, Triết, vận động hănghái để có Ðại Học Tiền Giang, anh Nghĩa Trung, Vạn Vật đang chuyển sang Luật...Còn biết bao nhiêu người khác nữa không thể kể hết như các anh Mai, Thứ, Kiến,Long, Nhơn, Thế V... Tất cả đều dễ thương với bạn bè và hết lòng với đám mônsinh, lúc nào cũng muốn học trò mình thành đạt, đem lại rạng rỡ cho trường. Saunầy trong dòng đời xuôi ngược, có dịp gặp lại họ hay không tôi đều có hình ảnhtốt về những con người tận tụy đó, những con người một lòng đem đời mình đấpxây cho thế hệ sau. Giờ đây tất cả đã tan tác bốn phương, người chết, ngườibệnh, người nghèo, người lưu lạc nhưng tôi biết chắc rằng ngày xưa họ đã làmquá hơn nhiệm vụ của mình mà không đòi hỏi một sự báo đền nào...

Xinđọc cho chú một ý thơ mới hiện ra trong trí già nầy. Không phải do sáng tác màlà phóng dịch từ một bài hài cú của Kishu, nhà thơ thiền danh tiếng của NhậtBản:

Bốn mươi năm đây đó,

Về lại trước trường xưa,

Tôi chưa từng đi một bước nào.

Phải,bằng tấm lòng, người ta gắng bó với xứ sở, quê hương hay một địa phương nào đó.Trở về lại nơi chốn kỷ niệm xưa là tiếp nối ngay với thời điểm lúc mình bỏ rađi. Khoảng thời gian tôi không có mặt ở trường nầy bây giờ đây bị xoá tan hoàntoàn trong trí nhớ như là chưa bao giờ hiện hữu. Tĩnh giấc kê vàng đó chú. Tôithấy mình trở lại những tháng ngày trẻ trung đứng trước đám học sinh, chăm chúnghe thầy giảng mặc dầu trong trí họ mới vài phút trước còn đầy những ưu tư vềnghèo túng, quân trường, tình phụ, áp lực của vùng xôi đậu mà họ đang ở.... Chúthấy đó, tôi sẵn sàng mở rộng nội tâm mình ra ráp vào hiện trường nhưng khungcảnh không sẵn sàng. Nét thay đổi vật chất về hình thể ngôi trường, sự dữngdưng của học trò không biết tôi là ai, cái nhìn dò xét của người điều hành khitôi xin phép được một mình đi vòng vòng phía bên trong.... đều là chuyệnthường, chuyện nhỏ, không đáng kể. Ðiều tôi không chịu được là thấy người tađua nhau lấn chiếm, đành đoạn giành giựt đoạt xé từng mãnh thịt xương của ngôitrường. Căn nhà Giám Học không còn nữa, nhiều phần đất chung quanh đã bị tướtlột, bán lại sang qua không biết bao tay người. Chú thấy đó, hàng rào sắt chungquanh trường tượng trưng cho sự bảo vệ học sinh đối với xã hội đảo điên đã bịbứng lên đem đâu mất. Người ta thi nhau đổ rác, phóng uế phía sau nhà mình, cóbiết đâu phía đó quay về các lớp học. Ðau đớn nhứt là diễn trường cho nhữngsinh hoạt phi giáo dục lại xảy ra tại chỗ này. Tất cả đều có từ ôm đi sau. Chú có thấy thiệt là vô lýhay không trong khi thầy cô giảng bài học trò chỉ cần nhìn ra cửa sổ sẽ thấy,sẽ tưởng tượng được rõ ràng cảnh kề vai cọ vế? Vị vĩ nhân mà trường mang tên cónói câu nầy rất tuyệt 'Thà đui mà giữ đạonhà'. Ðạo nhà đây không gì khác hơn là nhân luân đó chú. Bây giờ thì tangthương đến cả từng mảnh nhỏ của ngôi trường vì người ta không làm tròn nhânluân. Chú thấy các thông cáo đóng hàng chục thứ tiền dán trên bảng kia không?Trẻ con làm sao còn tin tưởng được những gì người lớn nói?

Màthôi, kể chuyện cổ tích với chú bao nhiêu đó đã đủ, trách móc rồi cũng dư lời,nói nhiều thêm nước mắt lại đoanh tròng. Già rồi không ai muốn điều đó, trẻ conchung quanh chúng cười cho. Lão đại hồiluôn luôn là phút bẽ bàng. Mục đồng távấn vẫn là cảnh đau lòng đứt ruột. Tôi nói cái gì vậy cà? Thôi! Chú ở lạimà chứng kiến cảnh hí trường thấm thoát. Mai ngày biết đâu sẽ có những thầy,những trò khác về đây ngồi kể chuyện sang đàng với chú như tôi hôm nay. Rán mà nghetâm sự họ với tất cả cõi lòng rộng mở nhe chú!

Câyme to xào xạc cành khi người ngồi dựa gốc nó bây giờ đứng dậy chệnh choạng bướcđi. Dáng ông coi bộ còn mạnh khỏe nhưng sao bước chân lại xiêu xiêu như ngườisay rượu băng xiêng? Lá me vàng úa baylả tả, lượn lờ trong không gian, như xúc động bùi ngùi đưa tiễn, rớt lấm tấmtrên cái đầu bạc trắng của người thầy giáo già mất quê hương và mất luôn cả kỷniệm.


 

Nguyễn Văn Sâm

(Port Arthur, Texas, 31-12-1999)