Tuồng Nôm ba hồi Từ Thắng (2)

Nguyễn Văn Sâm phiên âm chú giải
Nguyễn Hiền Tâm đính chánh
Tuấn Khanh - Anh Tú biên tập

Hồi 1, Phần 2, Lớp 4-6.

Tổng quan:

Tuồng nầy, bản viết tay từ trước tới giờ nằm trong cơ quan EFEO Paris (thường gọi là Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp), lâu nay chưa ai đem ra giới thiệu, chúng tôi sao lại từ hơn chục năm trước, 2005, giờ phiên âm, trình làng trên fb của mình, coi như là lần đầu tiên học giới biết về nó. Tuồng gồm ba hồi, kết cấu không có gì đặc sắc lắm, gần giống như những tuồng Nôm khác nhưng ít tình tiết hơn, nhứt là hồi ba. Tuy nhiên, những đoạn vãn trong nầy rất hay nếu người nghe biết chút ít chữ Hán để hiểu. Đại khái đề cao sự tín thành trong tình bạn, nết chung thủy trong tình yêu, lòng trung quân ái quốc với tư cách là người tài khi đất nước cần.

Trên fb, cũng như trên những trang mạng thân hữu, bài không được quá dài, chúng tôi chia Hồi Thứ Nhứt ra làm ba phần và upload lên từ từ tùy theo hoàn cảnh. (NVS, April 8, 2022)

Phần 1. Lớp 1-3: Hai hàn sĩ bạn thân nghèo, vừa đi khuyên giáo vừa học hành, lạc vào hoa viên một vịquan lớn. Công Nương Thanh Hương thử tài coi phải là hàn sĩ hay không bằng cách bắt mỗi người làm một bài thơ. Phạm Kim làm thơ lẳng lơ bị chê, Hoàng Vân làm thơ tỏ ý cao sâu nên được khen, được để ý và hai người được tặng hai lượng bạc giúp ngặt.

Phần 2. Lớp 4-6: Đại quan về bắt gặp hai hàn sĩ trong vườn, xét trong mình họ thấy có vàng nhà mình nên bắt về tội trộm. Ngục thất đương có một ngục sĩ là Từ Thắng, người nầy rất cảm tình với hai người tù mới. Trong lúc đó thì công nương Thanh Hương đau lòng vì chuyện xảy ra nên bàn với tì nữ cách giúp hai hàn sĩ. Họ tổ chức phát chẩn mỗi ngày nên Phạm Kim và Hoàng Vân đỡ ngặt trong chốn lao tù, nhờ hề đồng của họ đi lãnh đồ cứu trợ.



Lớp 4. Giữ tiền tặng, Hai hàn sĩ bị bắt, Hoàng Vân, tự nhận mình trộm vàng để giữ tiếng cho người.

Thượng Khanh:

Nhàn việc thôi chầu Thiên tử, Truyền quân trở lại bổn dinh.

Lại nói:

Chúng nhơn dân[1] đột nhập hoa đình, [4a], Sao tác tệ vào nơi cấm viện?
Lộn lạo ếch mong trèo giếng. Bên tường khỉ dám dòm nhà.
Truyền quân nhân xét quả sẽ tra, Vào dinh thất chẳng dâm thời đạo[2].

Lính Sầm:

Quả một đảng những loài gian giảo, Xét trong mình hai nén tinh ngân.
Lời dám thưa ông, Nội tang tôi lãnh.

Trần Nguyên:

Họ Tống chữ đề đành rành[3], Bạc này vốn của ai cho?
Giấu ắt mỗ gia tru, Bày ngay thời dung thứ.

Hoàng Vân:

Gã ấy Phạm Kim là chữ, Tôi nay danh gọi Hoàng Vân.
Bạn cùng nhau rất đỗi cơ hàn, Nhà thiếu bữa phải đi khuyến giáo.
Lạc vào nơi cấm liễu, Chẳng biết thói nguyệt hoa.
Nhìn trước sau vắng vẻ người ta, Bạc hai nén tôi bèn trộm lấy.
Cực nên hoá dại, Khó phải lòng tham.
Bắt tha mặc lượng Đại quan, Lầm lỗi đã cam tiểu sĩ. [4b]

Trần Nguyên:

Lời không giấu, lẽ đà quả lẽ, Nói bày ngay, tang hẳn quả tang.
Ngày trước ta mất bốn nén vàng[4], Vì chúng gã muốn sanh thói bạc.
Chữ rằng thiện ác, Lai báo nhãn tiền.
Bắt Hoàng Vân cùng gã Phạm Kim, Giam ngục nội cùng ngươi Từ Thắng[5]. Hạ.

Lớp 5. Trong tù, hai nho sĩ gặp Từ Thắng.

Tổng[6]:

Việc quan như lửa đốt, Phận giữ lấy dầu đèn.
Tù quả tang mặc sức ta hành, Có thác nữa khỏi lo thường mạng[7].

Phạm Kim[8]:

Dường chim phải ná, Tợ cá mắc câu.
Bởi vì ai, gánh nặng về đâu? Oan khiên mỗ họa rơi khôn gỡ.

Hoàng Vân,

Mang ơn một bữa, Chịu nhục ngàn năm.
Thà mạng này cam chịu đã xong, Như để vậy hoạ lây thục nữ.

Phạm Kim:

Đến đỗi này còn giấu, Nóng tôi phải nói ra.
Tội ấy ở người ta, Mình khi không chịu lấy.

Hoàng Vân: [5a]

Nỡ khiến nhớ thù quên nghĩa, Bao đành báo oán vong ân.
Phật tám nàn, Phật cũng chẳng hờn, Người ba vạ chạy đâu khỏi ách.
Toan gỡ cho khỏi lỗi, Sao phải đấng người lành.
Mình này cam chịu đã đành. Đi nỡ trở đen làm bạc.

Từ Thắng:

Thấy nói sực cười nên sặc, Nghe rằng tấc dạ xốn xang.
Người vô can chịu tội nên thương, Kẻ bất nghĩa bạc tình như thị[9].
Ờ thay mà chịu, Mắc chốn lao tù.
Phải chi gặp thuở hưng Chu, Tài cũng phen ngươi Y Doãn.

Tổng:

Chú Thắng đừng hống tống[10], Hay nói việc vô can.
Có tiền lưng đưa sắm dầu đèn[11], Trời đã tối nói chi cho dài chuyện.

Từ Thắng:

Người ta cực nên người ta phải lâm luỵ mần rứa, tiền bạc có ở mô, mà chú hỏi hả chú?
Rán sành không ra mỡ, Đánh khảo chẳng còn da.
Tưởng thân người chẳng khác thân ta, Xin các việc dầu đèn mỗ chịu[12]. [5b]

Hề đồng của Hoàng Vân:

Sá chi tớ chứa chan mày liễu, Cám thương thầy quặn thắt ruột tằm.
Không thích thân ai khứng viếng thăm, Trong lao lý lấy chi nuôi dưỡng.
Sau trước những quân cùng lính, Trong ngoài toàn kẻ lạ lùng.
Đã mang giam chấp gông cùm, Lại bắt dầu đèn đánh khảo.
Phải chi cho tôi chịu, Thời tôi cũng chịu thay.
Tớ xin ra ngoài chợ ăn mày, Kiếm cơm gạo đem về đỡ ngặt. hạ!

Lớp 6. Công nương Thanh Hương tìm cách giúp người.

Thanh Hương:

Những ước chu toàn nghĩa cả, Hay đâu chàng mắc lấy tai[13].
Lòng thương ai dám tỏ cùng ai, Có một tớ phải rằng cùng tớ[14].
Ta khỏi mang tiếng xấu, Chàng luống chịu danh nhơ[15].
Biết lấy ai thăm viếng sớm trưa, Những cam chịu đói cơm thiếu bữa.
Chữ hồ bi thố tử, Câu vị kỷ ái nhân.
Đã làm ơn chẳng đặng trọn ơn, Không gây oán liền mang lấy oán. [6a]
Cực nỗi thiếp khôn che lỗ miệng, Mưu chi chàng, thầy tớ no lòng[16].
Ví dầu chàng hồn xuống chín sông, Thiếp cũng nguyện phách về Thập điện[17].

Thể nữ:

Hễ nguy thời biến, Túng ắt phải quyền.
Đem gạo tiền giúp kẻ bần nhân, Ra ơn mọn cứu người ràng rạc[18].
Vậy thời chàng đỡ ngặt, Ta há dễ ngồi[19] yên.
Ông dầu hay tiếng ngợi tiếng khen, Người dễ cấm làm nhân làm nghĩa[20].

Thanh Hương:

Mưu nên đệ nhứt, Kế nọ vô song.
Đạo tớ thầy muôn kiếp cậy cùng, Đem tiền gạo giúp người đỡ ngặt.

Thể nữ:

Nào bần nhơn đâu đó, Cùng các gã oan khiên.
Nay Tiểu thư người phát gạo tiền, Mỗi nhựt nhựt thường lai thọ lãnh.

Hề:

Bách bái, bách bái, Thiên ân, thiên ân.
Chúc Tiểu thư trường cửu, Tử tôn đắc an khang. Hạ!

__________

CHÚ THÍCH:

[1] BN ghi dân nhơn.

[2] Chẳng dâm thời đạo 庄滛時盜: (Kẻ lạ vô nhà người khác) Không làm chuyện dâm ô thì cũng là ăn cắp.

[3] Xưa nhà giàu lớn bạc vàng có khắc dấu riêng. Đành rành 停伶: rõ ràng.

[4] Chi tiết nầy lạ và vô ích trong tuồng. Ông Trần Nguyên là người trung nghĩa sao lại nói chi tiết nầy như là một sự vu họa cho người.

[5] Vậy Từ Thắng là một ngục nhơn mà quan lớn cũng biết tiếng!

[6] Cai ngục trưởng.

[7] Tả tâm lý cai ngục. Thời nào cũng bao nhiêu tánh đó thôi.

[8] BN để 4 câu dưới kế đây do hai nhơn vật Hoàng Vân và Trọng Kim cùng nói. Chúng tôi cho là chép sai vị trí nên chia ra cho hai người. Đầu tiên là Trọng Kim phàn nàn rằng mình mắc vạ oan. Kế dó Hoàng Vân an ủi rằng mình mang ơn nên dầu có bị mắc vạ cũng nên gánh chịu để đền ơn bởi vì mình nói ra thì họa đến cho người con gái đã làm ơn cho mình, nàng mang tiếng nhơ.

[9] Một lời nói khen người nọ, chê người kia.

[10] Hống tống 吼𠳼: HTC, la lớn tiếng, nói ồ ào.

[11] Một hình thức tống tiền, hối lộ. Nhưng cũng tội nghiệp cho ông Tồng nầy, một hai tên tù, đòi tiền mua dầu thắp đèn thì có là bao nhiêu đâu!

[12] Từ Thắng là người sảng khoái dầu mình cũng là tù nhơn.

[13] Ý nói mình muốn giúp cho người có tiền ăn học, nhưng đã làm cho người mang họa.

[14] Rằng cùng tớ 浪拱伵: Nói với thể nữ của mình. Rằng 浪: Nói với, nói.

[15] Công nương Thanh Hương hiểu thấu lòng người.

[16] Có cách gì giúp chàng ta mà ta không mang tiếng xấu liễu ngỏ hoa tường.

[17] Nếu chàng chết thì mình cũng không muốn sống: vừa chung tình vừ thấy trách nhiệm của mình trogn vụ tai nạn nầy của chàng Hoàng Vân.

[18] Ràng rạc 𫄈, hay rạc ràng: HTC, chỗ giam cầm.

[19] BN ghi tọa 坐, nghĩ là chữ ngồi 𡎢 viết theo cách đọc nghĩa.

[20] Tớ bày mưu làm nhân giúp người nghèo khổ, luôn tiện giúp nhóm Hoàng Vân mà không ngại bị cha mình quở.