Nhà thơ Nguyên Sa

Nguyễn Vy Khanh

Tên thật Trần Bích Lan, sinh tại Hà-Nội ngày 1-3-1932 vàmất ngày 18-4-1998 tại Quận Cam, CA. Tác-phẩm trước 1975: Thơ: Thơ (SángTạo, 1957, 57 tr.), Những Năm Sáu Mươi (Trình Bầy, 1971); Truyệnngắn: Mây Bay Đi (Trí Dũng, 1967), Gõ Đầu Trẻ (Ngôn-Ngữ, 1972);Truyện dài Vài Ngày Làm Việc Tại Chung Sự Vụ (Trình Bầy) và bút ký ĐôngDu Ký (Nguyệt san Nhân Văn, 1972); Nhận định, tiểu luận: Quan Điểm Văn Học Và Triết Học (Nam Sơn,1960; mục Nhận định hiện tượng luận về sự sáng tạo), Một Bông HồngCho Văn Nghệ (Trình Bầy, 1967), Descartes Nhìn Từ Phương Đông (TrìnhBầy, 1969), Một Mình Một Ngựa(Nguyệt san Nhân Văn, 1971).... [Ngoài ra, thời đầu, Nguyên Sa có tập thơ Hy Vọng do Hội Văn nghệ Việt Nam Hải-ngoạixuất bản tại Paris “kỷ niệm đêm văn-nghệ Paris 23-12-1954”, gồm 9 bài thơ, cóbìa và in ronéo tặng bạn hữu].

Hoạt Động Văn Nghệ

Tạp chí Sáng Tạosố 1 xuất hiện tại Sài-Gòn tháng 10-1956 ra được 31 số, ngưng từ tháng 9-1959 đếntháng 7-1960 tiếp tục bộ mới nhưng cũng chỉ ra thêm được 7 số. Sáng-tạo ra đờivới cái gọi là ý thức văn nghệ mới và làm mới văn học cho thời đó. Tạp chí SángTạo muốn làm đại diện cho nền nghệ thuật mới được gọi là “nghệ thuật hôm nay”.Tạp chí Sáng Tạo đã là chỗ quần tụ của Mai Thảo và Nguyên Sa, nhưng haiông là hai mẫu người nghệ sĩ tương phản nhau: một người sống hết mình cho vănnghệ và bạn bè đến độ khó chấp nhận người khác đến cuối đời vẫn sống độc thân,một người sống cho gia đình đến nỗi không ăn nhà hàng và thời trai trẻ có điphòng trà thì cũng xin kiếu bạn về sớm. Và hai ông đã có những bất đồng ý kiếnvăn nghệ và có thể cả về hoại động báo chí. Nhưng họ tôn trọng nhau và tôn trọngquan điểm của nhau. Hơn nữa, ngay cái gọi là “chủ trương văn nghệ” có tính cáchsáng tạo cũng như chủ trương “thơ hôm nay”, “thơ tự do”, những “thànhviên” (đúng ra là cộng tác viên) của tạp-chí “Sáng tạo” đã hơn một lần trái nghịchnếu không muốn nói mâu thuẫn nhau. Một cuộc “nói chuyện về thơ bây giờ” trên SángTạo bộ mới số 2 (8-1960), Cung Trầm Tưởng, Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Lê HuyOanh, Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Thái Tuấn, Tô Thùy Yên và TrầnThanh Hiệp đã cho thấy nhiều con đường song hành. Nếu về lý thuyết làm mới vănnghệ, Nguyên Sa không hoàn toàn đồng quan điểm với nhiều người như Mai Thảo, TrầnThanh Hiệp, thì về lý thuyết thơ “hôm nay”, ông cũng không cùng tần số vớiThanh Tâm Tuyền[1], và thơNguyên Sa cũng đi con đường riêng. Với Nguyên Sa, thơ tự do là thơ phá thể[2],trong khi Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn, “thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể,thơ hôm nay là thơ tự do” mà cao điểm sẽ là thơ văn xuôi[3].Trần Thanh Hiệp, một lý thuyết gia khác của nhóm Sáng Tạo thì lại cho rằng: “Lốithơ phá thể thành hình với Thế Lữ và hiện nay rất thịnh hành chỉ là một chấp nốicủa nhiều nhịp điệu cũ. Nó không thể được ngộ nhận là thơ tự do bởi lẽ nó chưathoát ly khỏi những cùm xích của lối ‘thơ mới’ nay đã thành cũ”[4].

Mai Thảo và Nguyên Sa khác biệt nhau vì mỗi ông đại diệncho một khuynh hướng và hành trang trí thức khác nhau. Mai Thảo từng theo khángchiến, đã di cư từ Hà Nội vào Nam và tiếp tục chống Cộng với kinh nghiệm củamình và theo trào lưu chính trị của miền Nam thời đó. Trong khi đó, Nguyên Sa,cũng như Nguyễn Văn Trung, Trịnh Viết Thành, Nguyễn Khắc Hoạch,... du học ở Âuchâu về, từ một Âu châu vừa ra khỏi kinh hoàng của đệ nhị thế chiến và đang hốihả sống cho hôm nay, một Âu châu “trí thức” theo mốt hiện sinh, quán rượu và lốisống buông thả trước những “buồn nôn” và “phi lý” của cuộc đời. Văn nghệ mới khởitừ những Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir,... là một văn nghệcó tính chất triết lý và “gần” con người, xa thần quyền. Nguyên Sa tốt nghiệp cửnhân triết đại học Sorbonne về nước đầu năm 1956 là về Sài-Gòn - Sài-Gòn đó vừara khỏi trận chiến tranh Đông dương thứ nhất. Thời đó còn có nhóm “Bách Khoa”lúc đầu là nơi tụ tập những người kháng chiến cũ như Huỳnh Văn Lang, Nguiễn NguÍ, Phạm Ngọc Thảo,..., nhóm “Nhân Loại” của những người miền Nam tiếp tục ... “khángchiến thành” xoay ra chống chính quyền miền Nam, sau báo đình bản và nhiều ngườivô bưng theo cộng sản như Lý Văn Sâm, Trang Thế Hy, Lê Vĩnh Hoà hoặc tiếp tục nằmvùng như Vũ Hạnh, Sơn Nam. Ngoài ra đối với giới làm văn nghệ từ đất văn vậtvào, Nguyễn Đức Quỳnh đã một thời ảnh hưởng một số trí thức, văn nghệ sĩ và “lýthuyết gia” văn nghệ trong số có những thành viên của Sáng-Tạo; bên cạnh còn cónhóm Quan Điểm. Nguyên Sa không ở trong số đó. Nhưng sống và hoạt động ở miềnNam thời đệ nhất cộng hòa, mấy ai ra ngoài được tầm ảnh hưởng của chế độ lúc bấygiờ đã biết tầm quan trọng của văn nghệ đối với chính trị - nói như Nguyên Sa, “cácchính quyền dĩ vãng đã nhiều lần đến với văn nghệ”, họ “còn hơn là những cái tát đe dọa của sự độctài. Không theo đường lối, thì phong tỏa kinh tế, đi nông trường”[5].

Nguyên Sa đã nhiều lần công khai không muốn bị gán nhãn “nhómSáng Tạo”. Thế Phong trong tập Nhà Văn Hậu Chiến 1950-1956 thuộc bộ Lược SửVăn Nghệ Việt Nam tái bản năm 1963 đã kể sau lần xuất bản lần đầu (1959),Nguyên Sa đã gặp ông để cải chính việc đứng chung trong Sáng-Tạo[6].Trong bài “Làm Báo” mở đầu số tháng 1-1975 của tờ Nhà Văn, là tạp chí văn họccuối cùng Nguyên Sa đã đứng chủ trương ở quê nhà, cùng Trần Dạ Từ, Nguyên Sa đãnhắc lại sự rạn nứt đó khi đề cao Mai Thảo đã quyết tâm đứng về phía cái mới, “quyếttâm làm cho Mai Thảo cố giữ mãi cho đến lúc không thể giữ được sự chung đụng củanhững cá tính không thể đứng gần nhau”[7].Về sau ở hải ngoại, Mai Thảo đã xác nhận hoạt động chung với Nguyên Sa chỉ đượchai năm (1956-1958?), đổ vở vì ngộ nhận[8].Tháng 4 năm 1960, Nguyên Sa đã nhận trợ cấp để ra báo Hiện Đại trong 9tháng như chính ông đã kể: “Tôi đã là một nhà văn nhà nước. Năm 1960, tôi nhậntiền viện trợ trong chín tháng ra chín số báo. Sau đó trò chơi chấm dứt. Cùng mộtlúc với tôi, trong khoảng thời gian đó, các tạp chí Sáng Tạo và Thế Kỷ Hai Mươicũng tồn tại nhờ chất dưỡng khí hoá học đó”[…] Chúng ta đều nhớ kỹrằng các chánh quyền dĩ vãng đã nhiều lần đến với văn nghệ. Tiền đây, báo đâylàm đi. Nhiều người trong chúng ta, có tôi, đã nhận tiền trực tiếp hay giántiếp, tiền bao thầu hay tiền bài. Rồi để cho cái tình cảm tội lỗi nằm im,chúng tôi làm láo làm lếu cho tiền bạc không sáng sủa kia được tiêu đi mau lệ,ngõ hầu có thể phân vua với anh em: cho thì lấy mà đốt, trả tiền thì viết nhưngta cứ viết cái lờ mờ chẳng dính dấp gì đến cuộc đời này, cuộc chiến tranh này,chẳng lợi lộc gì cho người chi tiền. Cái lối chơi sỏ của nhà nho các anh còn lạgì. [...] Sự phân hoá trầm trọng hơn: chính quyền và văn nghệ vẫn đứng ở haiphía mặt trời và hơn nữa, người cầm tiền và kẻ không có cơ hội, thằng cầm nhiềuvà tay cầm ít sỉ vả và lườm nguýt lẫn nhau như quân thù quân hằn. [...]Có nóilên được cái yêu và cái ghét đến nơi đến chốn dưới mắt người cầm bút, mới làmcho ta khoẻ địch yếu. Nhưng dưới mắt nhà cầm quyền thì lại không được. Nhữngngười đã đến với văn nghệ có thể có thiện chí lắm, khéo léo lắm. Họ đều nói đạiloại: chúng tôi không làm áp lực nào cả, chỉ giúp đỡ anh em về tinh thần và vậtchất. Tiền đây, báo đây, cầm lấy cho vui vẻ cả. [...] Những cuộc thảo luận bắtđầu như thế lễ phép lắm, đẹp lắm, cần lắm nhưng chưa đủ. [...] Sự lễ phép làmcho nhà văn nghĩ rằng nó nắm từ từ đây. Thuốc độc bọc đường đây. Và cuộc chơi útim cứ thế tiếp diễn: cầm tiền và viết lờ mờ thôi. [...] Chúng ta, văn nghệ vàchính quyền, hãy sỉ vả nhau, đấm đá nhau. Đấm đá và sỉ vả như những chiến hữu[...]Nếu biết rằng thực sự trong cuộc chiến đấu ghê gớm này ngòi bút đã được đặtđúng lỗ châu mai dành riêng cho nó, sẽ chẳng cần đến chuyến máy bay đưa anh emra mặt trận coi chơi. Mặt trận chưa bao giờ không nằm trong mạch máu chúng tôi.Chúng tôi cũng biết nghe tiếng súng, biết khóc, biết đau. Nhưng niềm cô đơn vẫncó. Vẫn không biết đứng vào đâu, vì thường xuyên e ngại bị đặt vào chỗ đứng bấttiện, chỗ đứng của phương tiện chứ không phải của ý thức…”[5]

Nguyên Sa còn làm chủ bút bán nguyệt san Gió Mới(1962) và cộng tác với nhiều tạp chí văn học, chính trị khác như Văn Học, ĐấtNước, Tiếng Nói, Nghiên Cứu Văn Học, Quần Chúng, Nghệ Thuật, v.v. Riêng tờ HiệnĐại từ khi ra mắt lại chứng kiến sự đi xuống của tờ Sáng Tạo[9]có thể không còn thích hợp với người đọc lúc ấy “trí thức” khác hơn chăng! HiệnĐại cũng là nơi khai nở thi ca đặc sắc của Hoàng Anh Tuấn và Nhã Ca!

Trong bài “Mở Cửa” ở trang đầu Hiện Đại số ra mắt,Nguyên Sa đã có nhận định về tình trạng văn nghệ lúc đó: “Văn nghệ trong nhữngngày tháng vừa qua nằm trong một tình trạng buồn. Cuộc sinh hoạt ấy như chợtchìm xuống một vũng sâu có bóng tối dầy và nặng. (...) Tờ báo của cuộc đời vănnghệ 57, 58, 59 đi mất. Những người văn nghệ còn ở đấy nhưng buồn cũng đã ở đấy...”.Làm nhà báo, ông mang tiếng “đi” với chính quyền nhưng tương đối ông là ngườilàm văn nghệ độc lập. Nghiệp làm báo đã từng hại cho nghiệp làm thơ - như thờigian ông làm tờ Hiện Đại ra được 9 số báo: “Nhưng ngay lúc đó, sự khóchịu, sự bất ổn trong tâm hồn đã đến với tôi. Trong suốt chín tháng tôi khônglàm được bài thơ nào ra hồn. Ngòi bút bị tê liệt thật sự. Sự tê liệt đó còn kéodài suốt nhiều năm tháng kế tiếp. Ba người bạn đã an ủi và khuyến khích tôi nhiềuhơn cả trong giai đoạn đó là Trần Dạ Từ, Trần Đức Uyển và Đằng Giao. Anh em nhấtđịnh thúc đẩy tôi làm thơ cho báo Ngàn Khơi. Và chính vì những yêu mến đó, tôiđi qua một tình trạng hồi sinh trở về với thi ca. Vì thế trong ThơNguyên Sa, có bài Cảm Tạ gởi đến ba người bạn đó, những người đã “đưa tôi lên rừngtinh tú, chín từng thơ, mà tôi đã bỏ quên trong giấc ngủ”[10].Sau này trên tờ Tiếng Nói số 1 (4-1966) cùng với Phạm Thái Thủy, NguyênSa cũng đã viết lại kinh nghiệm nhận tiền làm báo đó và cả trong Hồi-Ký xuất-bảnở hải-ngoại.

Nguyên Sa liên hệ mật thiết với một số nhân-vật quan-trọngcủa chính quyền thời đó dù chẳng bao giờ ông viết lại, ngoại trừ một vài đoạntrong bộ truyện dài Giấc Mơ. Tập đoàn cộng sản Hà Nội và những người “nằmvùng” như Lữ Phương, đã kết án Mai Thảo và Nguyên Sa làm CIA. Họ quan trọng hóaquá đáng cái gọi là “công tác”, “tay sai” của hai ông cũng như nhiều văn nghệsĩ miền Nam khác vì “tự kỷ ám thị” và suy luận hơn là bằng chứng cụ thể. Trong HaiMươi Năm Văn Học Miền Nam, Võ Phiến có kể lại chuyện nhà văn Hà Thúc Sinh bịtra vấn, kiểm thảo nặng nề vì thấy ông sĩ quan hải quân trẻ tuổi mà đã có nhiềutác phẩm được xuất bản trước 1975[11].Xét người nhận tiền làm báo hay ra sách, nên xét nội dung tác phẩm và thành quả,công trình đóng góp hay tác hại cho nền văn nghệ nói chung. Tệ hại là ở những tậpđoàn hay cá nhân vừa nhận tiền vừa nhận chỉ thị và làm “xơ cứng” cả một nền vănnghệ như Hà Nội và văn học trước 1975 của họ!

Trong giới làm văn làm báo ở miền Nam giai đoạn1954-1975, Nguyên Sa là người nỗi tiếng khó bị “bắt nạt”. Ông lên tiếng mạnh bạo,nói thẳng khi cần, khiến đối thủ hết phản ứng; và cũng là người đứng đầu cơquan văn nghệ khi cần cũng dám nói thật nhận trợ cấp của chính quyền để làmbáo. Bút chiến nhanh, gọn và trả đũa tới cùng. Khi tờ Văn Đàn của nhómTinh Việt Văn Đoàn của Phạm Đình Khiêm và Phạm Đình Tân tấn công nêu đích danhbạn ông là Nguyễn Văn Trung giới thiệu cổ động thuyết hiện sinh làm bại hoạivăn hóa dân tộc nhất là qua loạt bài đăng trên Hiện Đại, Nguyên Sa đã tậntình bênh vực Nguyễn Văn Trung, khiến sau đó Văn Đàn cũng không tiếp tục!Cùng với Duyên Anh, Nguyên Sa đã bất đồng nhiều với tổng thư ký tạp chí Văn TrầnPhong Giao.

Chính Mai Thảo trong bài đã dẫn cũng nhìn nhận Nguyên Sacó cá tính: “Một con đưòng tách rời, biệt lập, đôi khi nhà thơ phải đóng vaiđầu đàn nhưng vẫn từ một tần số riêng, cùng tên một giòng trường giang một thời,nhưng cái phong cách trước sau vẫn là một mình một cõi. Cá tính ấy cũng giảithích cho những phản ứng của Nguyên Sa trong đời sống, trước kẻ khác. Điểm này,áo lụa Hà Đông là hình một con mèo nằm lim dim, bất động. Hiền từ, như ngủ.Nhưng coi chừng, bị va chạm là móng vuốt tức khắc”[8].

Về lý luận văn nghệ, Nguyên Sa chủ trương nghệ thuậtphải hay và không làm văn nghệ theo phe nhóm hẹp hòi hay “múa gậy vườn hoang”như ông viết trong Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ. Ông cũng đã có lần nhìn lạiquãng đường văn nghệ thời vừa qua đó, và đã kết tội đó là một “nền vănchương trú ẩn”, theo đuôi. Trong bài “Rời bỏ nền văn-chương trú ẩn” trên ĐấtNước (số 2, 12-1967), ông kết tội những người làm văn nghệ thời Sáng Tạotrong đó có ông, đã phủ nhận văn học “lãng mạn” của tiền chiến “một cách mù mờ”.Ông cho rằng chủ trương văn nghệ mới của Sáng-Tạo đã “vội vã, làm giản lượcnhãn quan phán xét, làm phủ nhận thiếu vững chắc”. Theo ông, các nhà văn thờiSáng Tạo “chỉ chê văn chương lãng mạn. Tức là chúng tôi có thể làm vănchương hiện sinh. Chúng tôi có thể làm văn nghệ dấn thân. Chúng tôi có thể làmtiểu thuyết mới”. Tuy nhiên “đó là sự buồn bã ghê gớm của thế hệ nămmươi sáu mươi. Tiền chiến buồn bã bao nhiêu thì chúng ta buồn bã bấy nhiêu. Bởivì những động đá trú ẩn. Tiền chiến và năm mươi sáu mươi vẫn là những nền vănnghệ trú ẩn trong những động đá kiên cố. Vẫn là những nền văn nghệ bình an và kỹlưỡng”“chúng ta chỉ yêu mến cái mới đã được chấp nhận. Chúng ta chỉsáng tạo trong khuôn khổ (...) làm mới trong kích thước của cái mới đã đượcmang lại bởi những người làm văn học nghệ thuật không phải là chính mình. (...)Ta chỉ là những người học trò tốt” bắt chước hiện sinh và hiện thực xã hội.Nguyên Sa và một số giáo-sư, trí thức của tờ Đất Nước đi đến quyết định “Nhớnrồi. Hãy rời bỏ những vùng trú ấn cũ. Hãy rời bỏ những động đá cần thiết chomùa Đông nhưng tù hãm lắm, tê liệt lắm” để “dấn thân”, “dân tộc” “Hãy khởiđi về trước mặt. Đi đâu? Chưa biết. Đó là cuộc phiêu lưu. Có thể trước mặtsẽ là sự khám phá thần thánh. Có thể là sự gục ngã. Gục ngã vì dại khờ. Gục ngãvì điên loạn. Nhưng trong văn nghệ, cũng như trong tình ái, chẳng thà gục ngãtrong dại khờ còn hơn sống mãi trong khôn ngoan. Chết ở chân trời thử thách, chếttrong cuộc phiêu lưu còn hơn sống mãi tầm gửi trong động đá trú ẩn êm ấm”[12].Một Nguyên Sa lúc nào cũng chối bỏ một đoạn đường đã qua trước khi dấn bước đitiếp, không quanh co. Một Nguyên Sa trí thức dấn thân, lúc nào cũng muốn đứngthẳng, không giả hình! [Sau này Nguyên Sa nhắc lại quan điểm của ông trong tập Hồi-Ký:“Tôi cũng nhớ ngay lúcđó, khi đọc bài văn nói về văn chương viễn mơ của Mai Thảo, một năm trước, tôithấy văn chương viễn mơ không phải là mục tiêu mà tôi nhắm tới, văn chương viễnmơ không phải là tôi… Tôi mơ hồ cảm thấy làm thơ mà cứ phải dấn thân triền miênthì mệt quá… Tôi mơ hồ cảm thấy tôi không muốn trở thành một nhà thơ dấn thân.Tôi cũng mơ hồ cảm thấy tôi không phải là một đệ tử trung thành của nghệ thuậtvị nghệ thuật. Tôi là một người làm thơ tình mà vẫn xúc động trước những khổđau của quê hương, dân tộc tôi”[13].

Khi Nguyên Sa viết những dòng trên là lúc văn chương “chínhtrị” của những Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, v.v. khôngcòn đánh động được người đọc, làm như đã xong nhiệm vụ những năm đầu xây đựng nềntảng của một miền Nam không cộng sản. Thời gian sau đó cũng đã trả lời một cáchoái ăm rằng văn chương hướng về dân tộc và tôn giáo sẽ là một thất bại khác -ít ra đã không tạo được những cây bút nổi tiếng như vào thời cuối thập niên1950 và đầu thập niên 1960. Có thể đó là một phần lý do khiến ông đã phải thantừ tháng 1-1975, trong bài khai trương tờ Nhà Văn: “Tôi không thể làm tạp chí văn chương được nữa. Tuổi tạp chí của tôi hếtrồi. Tôi bắt đầu già rồi. (...) Vả chăng, văn chương báo chí lúc này, trong cơntan rã cùng cực này, vào lúc những đám mây đen đã bắt đầu hiện ra khắp bốn phía,tất cả rồi ra cũng chỉ là phù vân”[14].

Nguyên Sa, Nhà ThơCủa Tình Yêu

Nguyên Sa là bút hiệu, mà nhà thơ đã có lần khiêm tốn cắtnghĩa “vốn dĩ chỉ là hạt cát”[15].Ông tên thật Trần Bích Lan và sinh ngày 1-3-1932 tại Hà Nội. Bắt đầu làm thơkhi đang du học ở Pháp; về nước, những bài thơ về Paris đăng báo Người Việt củasinh viên di cư rồi trên tạp chí Sáng Tạo đã làm ông nổi danh. Tập ThơNguyên Sa tập 1 xuất bản vào năm 1959 và tái bản nhiều lần đã xác định địavị vững vàng của ông trên thi đàn văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975. Giáo sưTriết trung học Chu Văn An rồi hiệu trưởng trung học tư thục Văn Học, năm 1966,ông nhập ngũ khóa 24 Thủ Đức. Ra trường, ông phục vụ tại trường Quốc gia nghĩatử. Nguyên Sa được mời làm phụ khảo Triết ở đại học Văn khoa Sài-Gòn nhưng saumột niên học, ông đã dứt khoát từ chức trước những chống đối của đồng nghiệp nhắmvị khoa trưởng là bạn của ông từ thời du học Âu châu.

Từ những năm 1960, thơ Nguyên Sa đã bớt xuất hiện đều,thơ tình yêu lại càng ít hơn. Có thể cắt nghĩa một phần “Nga”, nguồn cảm hứng của“tình nhân” Trần Bích Lan đã thành người phối ngẫu của ông. Ra khỏi nước, thơNguyên Sa sau 1975 đã không còn nguyên chất trữ tình và độc đáo của thơ ông thậpniên 1950. Nguyên Sa làm nhiều hơn thơ lục bát và bảy chữ dù vẫn làm thơ tự do.Nhiều bài rất đạt. Đời sống lưu đầy, bạn hữu và thực tế cuộc đời đã lẫn vào thơNguyên Sa, dĩ nhiên là bình thường, nhưng sẽ không là đối tượng chính của bàiviết. Chúng tôi muốn nói đến tình yêu trong thơ của Nguyên Sa, nhất là ở giaiđoạn Thơ Nguyên Sa tập 1. Phần lớn các bài thơ trong tập này ca tụngtình yêu và Nguyên Sa đã được xem là “thi sĩ của tình yêu” cùng chiếu với XuânDiệu, Nguyễn Bính, T.T.Kh,... ; một “Xuân Diệu” hậu chiến. Thật ra, so NguyênSa với Xuân Diệu cũng không ổn. Chính Nguyên Sa đã xác nhận thơ ông “khôngphải là yêu cái Đẹp tổng quát, không phải là yêu Đời nhưng yêu một người cố định,một người thực”. Người đó là Nga, tức bà Nguyên Sa. Bài thơ Nga nỗi tiếngkhi đăng báo đã được gửi cho bè bạn “thay cho thiệp báo hỷ”. Tình yêu củaNguyên Sa rõ nét, đặc thù, cá nhân, có hình dáng, chân dung, trong khi đó tìnhyêu Xuân Diệu tổng quát hơn, tình yêu chung chung, đúng ra là của lòng trai mớilớn, mở ra, với đam mê cùng tận. Tình yêu trong thơ Nguyên Sa là một tình yêuphức tạp, đa dạng nhưng lả lướt, như trái tim người trẻ tuổi thấm nhuần hai vănhóa sống vào buổi giao thời của những năm cuối thập niên 1940 và đầu 1950.

Thơ tình yêu của Nguyên Sa là một thứ tình yêu thuần chất,trữ tình tại chỗ, thường nhật, hiện sinh. Khác thơ tình hiếm hoi của Thanh TâmTuyền, thơ Nguyên Sa không làm ra để gây băn khoăn hay suy nghĩ. Thanh Tâm Tuyềnphải lo cho sứ mạng văn nghệ do đó bỏ quên tình yêu (“Tôi không ngợi ca tìnhyêu, tôi nguyền rủa tình yêu (...) Thơ hôm nay không cần đến Tình Ái và khiTình Ái đến với thơ hôm nay cùng với vẻ tiều tuỵ khốn khổ chịu đựng hất hủi nhưcả một cuộc đời…”)[16].Trong bài “Nỗi buồn thơ hôm nay”, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn khi ông hạ giá tìnhyêu: “tình ái cũng bị dùng làm phương tiện khám phá đời sống, khai quật ý thức...”.Do đó, cũng như các “nhà thơ hôm nay” của hai thập niên 1950 và 1960, Nguyên Sathực sự chống trữ tình và lãng mạn, chống cả tình ái theo nghĩa thường vì theoông, lãng mạn là “sự xúc động quá mãnh liệt, sự trữ tình bi thảm hoá”[14].Yêu nhưng không lãng mạn, cả không thác loạn của thơ tiền chiến. Tình với ngônngữ mới, cung cách mới, thơ mộng nhớ nhung mới và khác, thực tế hơn, thành thậthơn!

Vậy thì Nguyên Sa sống và đã ca tụng tình yêu như thếnào? Tình yêu có thể bắt đầu bằng mong nhớ, đợi chờ và những lời trách móc tựnhiên:

“Có phải em về đêm nay?
Trên con đường thời gian trắc trở
để lòng anh đèn khuya cửa ngõ
ngọn đèn dầu lụi bấc mắt long lanh

(...) Em đừng trách anh để lòng mình tủi cực
dến ngại ngùng dù nắng dù mưa
sao em không về / để dù nắng dù mưa
dù trong thời gian có sắc mầu của những thiên đàng đổ vỡ
anh vẫn chùm chăn kín cổ / ngủ say mềm
vì lòng anh (em đã biết)
có bao giờ thèm khát vô biên
có bao giờ anh mong đừng chết - đủ để làm thơ
nên tất cả chỉ là yêu em
và làm thơ cho đến chết

(...) Có phải em sẽ về / dù bầu trời ẩm đục
hay bầu trời trang điểm bằng mây
anh sẽ trải tóc em bằng năm ngón tay
trong những chiều gió thổi”
(Có Phải Em Về Đêm Nay)

Cáibuồn xa người yêu, lại đợi chờ:

“Em đến chưa? Sao đêm chợt vắng
Cả cuộc đời xáo động cũng hao đi
Những ngón tay dần chuyển đến hôn mê
Và tà áo phủ chân trời trước mặt”
(Người Em Sống Trong Cô Độc)

Haynhững mối tình đầu đời, thơ ngây. Chàng tỏ tình, lời hãy tràn đầy cảm xúc:

“Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa
Những lúc em cười trong đêm khuya
Lấy ai nhìn những đường răng em trắng
Đôi mắt sáng là hành tinh lóng lánh
Lúc sương mờ ai thở để sương tan
Ai cầm tay cho đỏ má em hồng
Ai thở nhẹ cho mây vào trong tóc (...)”

(Cần Thiết)

Tìnhđầu học trò và người yêu ở tuổi mười ba:

“Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng?
Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngạt ngào... tôi ở lại đây
Như một buổi hiên nhà nàng dịu sáng
Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám
Tuổi của nàng, tôi nhớ chỉ mười ba
Tôi phải van lơn, ngoan nhé, đừng ngờ...
Tôi phải dỗ như là ... tôi đã nhớn

(...) Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực cho vừa màu áo tím...”

(Tuổi Mười Ba)

Khi đã được gần, đã đính hôn, rung cảm vẫn mạnh:

“Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển!
Tại sao Nga ơi, tại sao...
Đôi mắt em nghẹn như sát từng lần vỏ hến
Nói cho anh đi, Nga ơi...
(em làm ơn chóng chóng)
Lại bên anh đi - bằng một lối rõ thật gần

(...) Và cười đi em ơi,
Cười như sáng hôm qua,/ như sáng hôm kia...

(...) Em nhớ không, đã có một lần anh van em
Đã có một lần lâu hơn cả ngày xưa...
Em sợ thời gian buồn như mọt nhấm từng câu thơ
Em sợ thời gian ác như lửa thiêu từng thanh củi

(...) Em sợ những đường tầu vướng víu như chỉ tay
Không dám chọn lấy một ga hò hẹn...”

(Nga)

“Em”thời nay thành “con chó ốm, con mèo ngái ngủ” và “ mắt cá ươn”; không còn là “mắtxanh là bóng dừa hoang dại” (Đinh Hùng), “em đi áo mỏng phô hờn tủi” (QuangDũng). Tóc của “em” chỉ là “tóc ngắn” (ALHĐ). Tình yêu đến với nhà thơ như mộthạnh phúc, một tròn đầy với những cảm xúc thật với da thịt cũng như trong tâm hồn.Tình yêu hôm nay hay tình đầu Hà Nội nhắc nhở?

“Nắng Sài-Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu

(...) Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh mào áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng”

(Áo Lụa Hà Đông)

Yêucho nên hay phải van xin, kể lể:

“... Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến
Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa
Hãy gửi cho nhau từng hơi thở mùa thu
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ
Và hãy nói năng những lời vô nghĩa
Hãy cười bằng mắt, ngủ bằng vai
Hãy để môi rót rượu vào môi
Hãy cầm tay bằng ngón tay bấn loạn...”

(Tháng Sáu Trời Mưa)

Tán tỉnhngười yêu với ngôn ngữ mới của trai hiện sinh:

“Sự thực là đôi mắt em đẹp vô cùng
Tôi ném - không phải là nhìn - ném vào mắt em
Sự ngưỡng mộ, sự thèm khát, sự ước ao dã thú
Nghĩa là sự đam mê to và sâu như ban đêm (...)”

(Đạn Đạo)

Hay “kháchsáo” trân trọng “mời” dự cuộc phiêu lưu tình ái:

“Tôi trân trọng mời em dự chuyến tàu tình ái. Trong một phút, một giây, cuộc hành trình sẽ mở. Tôi mời em. Trân trọng mời em cùng đi, cùng khai mạc cuộc đời.
Tôi mời em vứt bỏ lại đằng sau những kinh thành buồn bã với phong tục, thói lề, bạc vàng giả dối: muốn làm người yêu thì phải đỗ Tú tài.
Tôi mời em đi ngay. Không cần lấy vé. Không cần phải đợi chờ vì điều kiện du hành là những ngón tay lồng vào nhau và tâm hồn đừng đơn chiếc. (...) Em đến ngay đi.
Em đến ngay cho cuộc hành trình được mở. Gió được nổi lên từ mớ tóc phiêu bồng, thuyền dong thả từ đường môi óng ả. Và ngực căng buồm, mắt trông tìm vội vã:
Tôi đi vào kiều diễm của thân em”

(Mời)

Chữnghĩa con tim, lúc sắp ly biệt:

“Mai tôi ra đi chắc trời mưa
Tôi chắc trời mưa mau
Mưa thì mưa, chắc tôi không bước vội
Nhưng chậm thế nào thì cũng phải xa nhau...”

(Paris)

Lạicó khi nhà thơ dùng nghi vấn để bày tỏ, giữa một Paris trong giờ tiễn biệt:

“Người về đêm nay hay đêm mai
Người sắp đi chưa hay đi rồi
Muôn vì hành tinh rung nhè nhẹ
Hay ly rượu tàn run trên môi
Người về trên một giòng sông xanh
Trên một con tàu hay một ga mông mênh
Sao người không chọn giòng sông vắng nước
Hay nước không nguồn cho sông đi quanh?

(...) Nhưng người về đâu, người về đâu
Để nước sông Seine bỡ ngỡ chảy qua cầu...

(...) Tôi muốn hỏi thầm người rất nhẹ
Tôi đưa người hay tôi đưa tôi?”

(Tiễn Biệt)

Mớihay không thì cũng tình ái đấy và lãng mạn đấy thôi! Năm 1949, 1950, “đèn vàng”,“ga nhỏ” có thể là những sự vật và cảnh vật thường nhật, “hiện sinh”, thay thếnhững ước lệ “trăng, sao, núi sông, mây, tuyết trắng, cò,...” của văn chươnglãng mạn cổ điển. “Rót rượu vào môi”, “biến cuộc đời thành những tối tân hôn”,mới và táo bạo nhưng vẫn là những lãng mạn, trữ tình! Cái đẹp “hôm nay” là cáiđẹp bình thường trước mặt, chạm tay được, nhưng hay bị thơ văn bỏ quên. Vả lại,Paris lúc bấy giờ còn mới lạ với người thưởng thức văn nghệ Việt Nam: tả ngạnsông Seine, vườn Luxembourg mùa Xuân mùa Thu, sân trường đại học Sorbonne, khuSaint-Michel, những quán cà phê sinh viên và nghệ sĩ đầy khói thuốc ở QuartierLatin, là thơ Jacques Prévert, Guillaume Apollinaire, những người con gái mắtxanh màu da trời, v.v.

“Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sống trắng
Là áo sương mù hay áo em? (...)”
(Paris Có Gì Lạ Không Em?)

Thơtự do của Nguyên Sa có tiết tấu và nhạc điệu đặc biệt chưa thấy trước đó.Nguyên Sa lại có tài sử-dụng nhiều hình ảnh mới và lạ. Nào “chải tóc em bằngnăm ngón tay”, nào “lệ trắng gạo mềm” (TSSTE), “da em trắng anh chẳng cần ánhsáng / tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân” (TGTM), “tóc màu củi chưa đun”(TSSTE), miệng “chim sẻ” (TMB), áo “sương mù” (PCGLKE?, “bàn tay chim khuyên”(Nga) hay “sương gió trầm tư thêu thùa má ướt”, v.v.

“... Người về đâu giữa đêm khuya dìu dặt
Hơi thở thiên thần trong tóc ẩm hương xưa
Người đi về trời nắng hay mưa
Sao để sương gió trầm tư thêu thùa má ướt...”

(Đẹp)

Muốn“phá thể” và “tự do” nhưng thơ Nguyên Sa có lời và chất nhạc rất nhẹ nhàng, rấtViệt Nam. Ông vẫn sử-dụng lại những ước lệ của thi ca cổ điển như “thuyền ghé bến”,tay “lá sen”, mắt “một vừng trăng sáng”, hay của thơ mới như “gió heo may”.Thành ra Nguyên Sa có những câu thơ mà ngôn từ như có âm hưởng ca dao dù đã đượctân hóa theo thời đại:

“... Paris có gì lạ không em?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn biết lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen...”
(Paris Có Gì Lạ Không Em?)

“Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn...”

(Áo Lụa Hà Đông)

“...Anh nhớ sông có nguyệt lạ lùng
Có trời lau lách chỗ hư không
Anh tìm âu yếm trong đôi mắt
Thấy cả vô cùng dưới đáy sông...”

(Em Gầy Như Liễu Trong Thơ Cổ)

“(...) Tôi không biết rằng lạ hay quen
Chỉ biết em mang theo Nghê Thường
Cho nên cặp mắt mờ hư ảo
Cả bốn phương trời chỉ có em”

(Tương Tư)

“Người yêu của tôi ơi
tóc em là một cung điện mà hoàng đế là bóng tối
trán em là một mớ hoa bay
đầu em là một rừng cây sống đầy chim chóc ngủ mơ
vú em là những ổ ong trắng trên nhành của người em
thân thể em đối với tôi là tháng tư
trong nách là sự đến gần của mùa xuân
đùi em là những con bạch mã cột vào chiếc ngự xa của những vì vua chúa...”.

Cóthể hình ảnh cũ nhưng ý mới, có khi táo bạo. Về hình thức, thơ Nguyên Sa có nhiềubài vẫn có vần có nhịp khúc:

“Tôi đã gặp em từ bao giờ
Kể từ nguyệt bạch xuống đêm khuya
Kể từ gió thổi trong vừng tóc
Hay lúc thu về cánh nhạn kia?
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?(...)”

(Tương Tư)

Haylời thường, dung dị, của đời sống thường ngày:

“... Tôi sẽ thăm em
Để những mớ tóc màu củi chưa đun
Màu gỗ chưa ai ghép làm thuyền
Lùa vào nhau nhóm lửa
...Tôi sẽ sang thăm em
- Ngay ngày hôm nay - / Chờ ngày mai sẽ trễ
Chúng mình sẽ xa nhau / Chúng mình sẽ thù nhau
Chúng mình sẽ nhìn nhau bằng đôi mắt người đàn bà có tuổi”

(Tôi Sẽ Sang Thăm Em)

“Trên bàn tay năm ngón / Có ngón dài ngón ngắn
Có ngón chỉ đường đi / Có ngón tay đeo nhẫn
(...) Ngón tay thử coóc-sê / Ngón tay cài khuy áo
Em còn ngón tay nào / Để giữ lấy tay anh?”

(Năm Ngón Tay)

Từbài thơ này, nhà thơ có thêm biệt hiệu “năm ngón tay táy máy”!

NguyênSa còn có những bài thơ ca tụng tình bạn như Thằng Sỹ Chết, Cầu Siêu Cho NguyễnQuan Đại Chết Ở Khe Sanh, v.v., nhưng nỗi bật nhất vẫn là bài Đám Tang NguyễnDuy Diễn:

“Diễn đã chết, Diễn đã chết
Chúng tôi nhảy múa hò reo

(...) Thế là nó thoát, thế là nó thoát
Cuồng lưu dằn vặt đã trôi qua
Khỏi phải nghĩ, khỏi lo âu, sợ hãi
Sự thật có phải bao giờ cũng tối như đêm
Tình ái có phải suốt đời là canh bạc lận
Lịch sử, rút lại, có phải là thằng mù sờ soạng...”

Thờisự cũng chiếm chỗ quan trọng không kém trong thơ ông:

“Cắt cho ta, hãy cắt cho ta
Cắt cho ta sợi dài / Cắt cho ta sợi ngắn
Cắt cái sợi ăn gian

(...) Sợi xích chiến xa, sợi giây thòng lọng
Sợi hưu chiến mỏng manh, sợi hận thù buộc chặt

(...) Sợi Hà Nội khóc trong mưa
Sợi Sài-Gòn buồn trong nắng

(...) Sợi rỗng như khẩu hiệu / Sợi nhọn như lưỡi lê
(...) Sợi nhố nhăng như cuộc đời
Sợi ngu si như lịch sử (…)”

(Cắt Tóc Ăn Tết)

“Ta là người ta vẫn tự do
Người con gái ta yêu vẫn là Hoàng hậu
Dao cứa cổ vẫn mở đường cho máu chảy”

(Tự Do)

Saunày, trong Hồi Ký xuất bản năm 1998, Nguyên Sa nhắc lại chuyện bàn vềThơ cho số báo Văn Học đặc biệt về Nguyên Sa và xác nhận: “Tôinhớ điều tôi tin tưởng là vần của thơ không phải chỉ là vần của hai chữ ở vịtrí cố định. Vần thơ là một hiện tượng cơ cấu, là sự phối âm của toàn thể chữtrong đoạn thơ hay bài thơ. Cơ cấu âm thanh phối hợp làm cho những chữ bắt vầnvới nhau có những âm hưởng mới lạ, làm cho vần chính xác bỗng nhiên sâu lắnghơn, làm cho những vần lơi trở thành êm ái...”[17].Thơ tự do của Nguyên Sa dễ cảm xúc, dễ thụ nhận và không bí hiểm như thơ ThanhTâm Tuyền. Dùng thể tự do với nhiều hình ảnh mới và cách dùng chữ bất ngờ, bénnhạy... chứng tỏ Nguyên Sa đã nắm vững quy luật của ngôn ngữ, của tiếng Việt.

Giáosư Triết nhưng thơ ông không nhắm cao siêu triết lý; chỉ là thơ con người vớichữ nghĩa của con tim. Điểm này Nguyên Sa cũng khác Thanh Tâm Tuyền nhiều triếtlý và ý thức. Với Thanh tâm Tuyền, ý thức bao trùm vì nhịp điệu của thơ, củahình ảnh và ý tưởng chuyên chở chỉ là sự thể hiện của nhịp điệu ý thức[3]. ThơNguyên Sa tập đầu và những bài thơ đăng báo thời đi vào văn nghệ của ông cho thấyông có một tâm hồn nhạy cảm của tình yêu, của Tình Yêu viết hoa, phổ biến nhưngkhởi từ tình yêu cá biệt của thi nhân. Thơ ông thời ấy cũng chứng tỏ ông có hẳnmột thẩm mỹ quan riêng, có ngôn từ và cung cách dù vậy căn bản vẫn hãy còn cũ xưa.Triết lý trong thơ ông thời đó cũng có nhưng ít hơn: phận người trong một khônggian bí lối.

“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt
Dăm bảy nụ cười không đủ xoá ưu tư (…)”

(Bây Giờ)

“Tôi viết cho người có đôi môi khô
Vì quen sống giữa trần gian nước mặn

(...) Vì tôi ngại / Khi thời gian không còn chắp nối
Người sẽ ngỡ ngàng / Khi cả những bàn tay hành khất
Mở linh hồn cho lại những yêu thương

(...) Nên tôi van người / Hãy chịu khó đa mang
Không phải tôi sợ những chấn song dài
Hay những nan lòng mắt cáo chắn ngang
Nhưng tôi phải khóc / Khi những mắt người
Đan thành những làn phên mắt cáo (…)”

(Nước Ngọt)

Tìnhyêu ở trong cả thế giới bên kia, nếu sẽ ra đi vẫn không nỡ, con tim hãy còn ở lạitrên trần thế, nên vẫn còn thắc mắc, nhắn nhủ:

“Anh cúi mặt hôn lên lòng đất
Sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng
Mười ngón tay sờ soạng giữa hư không
Đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh
Ở trên ấy mây mùa thu có lạnh
Anh nhìn lên mái cỏ kín chân trời
Em có ngồi mà nghe gió thu phai
Và em có thắp hương bằng mắt sáng? (…)”

(Lúc Chết)

Dĩnhiên, trong số những bài thơ thời “Sáng Tạo” của Nguyên Sa có nhiều bài nặng vềkhai phá hình thức, nghệ thuật vị nghệ thuật, nhưng nay ít ai nhớ đến, như bàiHịch:

“Bằng hơi thở thiên thần, / Bằng giọng nói đam mê
Bằng ngón tay mầu nhiệm
Ta truyền: / Hỡi Sài-Gòn ban đêm mở cửa!
Ta truyền:
Hãy rộng mở bốn cửa thành Đông Tây Nam Bắc để thơ ta ùa vào từ bốn phía chân trời và
thân thể ta vào theo lối mặt trời đi

(...) Sao chỉ về đây nằm gối đầu lên giòng sông lớn, giang tay dài đại lộ mà nghe kinh thành thổi hơi buồn Trompette ban đêm
Nghe đại lộ nối dài bằng giọng hát Bích Chiêu?
Và tiếng ta truyền phụt tắt.
Những xiềng xích quấn lấy thân ta
Trong bóng đêm của tâm hồn nổi loạn”

(Hiện Đại, 4, 7-1960, tr. 3-4).

Thơtự do của Nguyên Sa thời ra đời trên Người ViệtSáng Tạo đãthuyết phục người thưởng thức văn nghệ rằng thơ tự do có thể sống động, rằngthơ tự do cũng có thơ tính. Thơ tự do của Nguyên Sa nhờ giàu nhạc tính, lại đơnsơ, truyền cảm và hãy còn chứa đựng tâm hồn Việt Nam do đó đã sống lâu hơn đếnngày nay và chắc cả sau này, trong khi thơ tự do của nhiều nhà thơ thời ông đãvà đang đi vào quên lãng. Nếu lúc đầu thơ tự do được cổ võ như một vượt thoátkhỏi những bó buộc và giới hạn của luật thơ thì nay bài thơ tự do nào còn giữđược vần và nhạc và hình ảnh lại tiếp tục được yêu thích. Trong trường hợpNguyên Sa, phủ nhận Thơ Mới và tiền chiến đồng thời cổ xúy thơ tự do và phá thể,nay phân tích lại thì Nguyên Sa đã không đi xa trên con đường thơ tự do và vôtình thơ ông lại là gạch nối với thơ tiền chiến và dòng thơ kháng chiến trướcđó. Cho đến khi tạp chí Sáng tạo đình bản hẳn, những nhà lý thuyết cổ võ thơ tựdo của nhóm đã vẫn không thuyết phục thật sự giới thưởng thức văn nghệ. ThanhTâm Tuyền có vẻ là người cuối cùng lên tiếng khi cho rằng người làm thơ tự dovì sống thời gian hôm nay và dùng thanh âm ngôn từ để khám phá chính mình. Đếnnhững bài thơ trên Trình Bầy, Đất Nước, Nghiên Cứu Văn Học,... Nguyên Sadấn thân nhập cuộc, nhập ngũ, tứ thơ và tâm tình đã khác, như một thức tỉnh,nhìn lại và có khi hối tiếc:

“Bây giờ khẩu garant ta mang trên vai
Bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai
Ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế
Ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là một thằng dốt nát
Trong mười mấy năm trời ta làm bao nhiêu tội lỗi
Trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết
Anh em ta và quê-hương ta
Vác những thỏi sắt nặng như thế
Từ bao nhiêu năm nay (...)”
(Xin Lỗi Về Những Nhầm Lẫn Dĩ Vãng)

“Chủ nhật chúng mày vào thăm tao
Nhớ mang cho tao mấy miếng

(...) Miếng văn-nghệ, ôi ngon, thơ tình lả lướt
Miếng nhà in, ôi ngon, tay thợ chữ nét romain
Miếng ngon dạy học ôi ngon
Miếng học trò trêu tao ôi ngon
Ôi ngon miếng bảng đen / Ôi ngon miếng phấn
Miếng mẹ tao lo cho tao ăn ít, miếng vợ tao sỉ vả tao làm biếng, miếng con tao ngồi lên bụng (...)

Miếng nhẹ tao cất vào ba lô cho chuyến tập hành quân
Miếng ta tao cầm dưới tay cùng với súng đêm đứng gác
Miếng lả lướt và mấy miếng thơm nuốt trong giờ học tập
Miếng ngọt cho thao trường mồ hôi bới mặn
Miếng bùi cho xạ trường mùi súng đỡ cay
Miếng vọ con tao cất dưới gối nằm
Miếng mắt em soi gương trong giầy đánh bóng (...)”

(Nhìn Thấy Mình Trong Quân Trường)

Cảhai bài vừa trích đều in trong Những Năm Sáu Mươi (Trình Bầy, 1971).

Dùsao đi nữa, cùng với Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa đã đem lại niềm tin nơi thể thơtự do, cả hai ông đã chiếu sáng trên nền trời thi ca Việt Nam hậu chiến.

Suốtcuộc đời, Nguyên Sa đã yêu, đã được yêu và căn bệnh ngặt nghèo đã sớm đưa ông vềvới Chúa ngày 18-4-1998 ở ngoài Việt Nam, nhưng thơ tình ông đã và sẽ vẫn sốngđộng với người yêu thơ và với những tình nhân - ngày nào còn có những người yêunhau! Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, nhà nước cộng sản đã tìm đủ cách cấm đoán,tịch thu và viết sách bêu xấu các nhà làm văn nghệ ở miền Nam cộng hòa trong đódĩ nhiên là có nhà báo nhà văn Nguyên Sa. Tuy nhiên, những Lữ Phương, Phạm VănSĩ, Trần Trọng Đăng Đàn và các nhà “phê bình” của Viện Văn học Hà Nội có tấncông thơ tự do mà họ gọi xiên xỏ là “bí hiểm”, “tắc tị”, “quái thai”, “hỗn tạpnhững rối rắm quái gở” và “dựng lại cái thây ma mà mười lăm năm về trước nhữngngười trong nhóm Xuân thu nhã tập đã nêu lên”[18]nhưng không hề động đến thơ tình của Nguyên Sa vì thơ ông được người “chiến thắng”lén lút tìm đọc thời còn bị cấm và nay đã được in lại trong nước. Gần đây hơn,trong nước đã có những nghiên cứu “cởi trói”, đã có cái nhìn “khách quan” hơndù đứng dưới nhãn quan gọi là ‘khoa học’! Trần Thị Mai Nhi viết về “nhóm Sáng Tạo”đã nhìn nhận họ “muốn có một ‘đường hướng sáng tạo’, muốn là ‘kẻ sáng tạo ngôn ngữ trongthơ ca’ (...). Họ muốn đổi mới niêm luật, cú pháp, chấm câu, từ ngữ trong thơ cả.Rồi việc họ chấp nhận thứ ‘tiếng của vỉa hè’ cũng không hoàn toàn chỉ là một sựlập dị. (...) Đúng thôi, văn học Sài-Gòn gặp văn học phương Tây ở quan niệm thẩmmỹ...”[19].

________

Chú-thích

[1] Từ năm 1965, Thanh Tâm Tuyền đãthú nhận không làm thơ được nữa: “Tự nhiên thấy khó, không dám làm. Vả lại chưatìm được cái gì mới. Tôi thấy thơ bây giờ càng ngày càng thu hẹp lại, rút gọn lạivào trong cái ‘tôi’, để cuối cùng chỉ có mình hiểu được thơ mình”. (Trần Đức Uyển.“Nhìn lại thơ hôm nay” Nghệ Thuật số 12, 12-1965). Sau 1975, từ những trạicải tạo, ông đã làm thơ trở lại và thơ ông từ nay mang âm hưởng thơ Đường vàtriết lý á-đông.

[2] “Kinh nghiệm thi ca”. Sáng Tạo,số 21, 6-1958.

[3] “Nỗi buồn trong thơ hôm nay”.Sáng Tạo, số 31, 9-1959, tr. 1-6.

[4] “Vài điểm gợi ý về thơ tự do”. SángTạo, số 8, 5-1957; in lại trong Tiếp Nối (Sáng Tạo, 1965), tr. 108.

[5] Nguyên Sa. “Tình cảnh nhà văn ViệtNam những năm Năm mươi và Sáu mươi” in Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ (TrìnhBầy, 1967), tr. 34, 36, 37.

[6] Thế Phong. Lược Sử Văn NghệViệt Nam: Nhà Văn Hậu Chiến 1950-1956 (Đại Nam Văn Hiến, tb 1963), tr. 105.

[7] Nhà Văn, số1, 1-1975, tr. 7.

[8] Mai Thảo. “Mầu áo lụa Hà Đôngtrong thơ Nguyên Sa”, tr. 136 in Chân Dung 15 Nhà Văn Nhà ThơViệt Nam (Westminster, CA: Văn Khoa, 1985). Ký Giả báo Ngày Nay (HoustonTX, số 388, 1-5-1998) trong bài “Nhà thơ Nguyên Sa không còn nữa” cho biết lýdo của hiễu lầm đó “qua lời tuyên bố của Nguyên Sa trong cuộc phỏng vấn với nhàbáo Hồ Nam về thơ Tự do”. Nguyên Sa cũng đã kể lại trong Hồi Ký (1998,tr. 188-193).

[9] Tạ Tỵ. Những Khuôn Mặt VănNghệ Đã Đi Qua Đời Tôi (Santa Clara, CA: Thằng Mõ, 1990), tr. 214.

[10] Nguyên Sa. “Khởi đầu những năm bẩymươi”. Đất Nước, số 17, Xuân 1970, tr. 175.

[11] Võ Phiến. Hai Mươi Năm Văn HọcMiền Nam (Westminster, CA: Văn Nghệ, 1986), tr. 34.

[12] Nguyên Sa. “Rời bỏ nền vănchương trú ẩn”. Đất Nước, số 2, 12-1967, tr. 1-15.

[13] Nguyên Sa. Hồi-Ký (Irvine,CA: Đời, 1998), tr. 258-9.

[14] Bđd chú thích 7, tr. 9.

[15] Nguyên Sa: TácGiả Và Tác Phẩm (Irvine, CA: Đời, 1991), tr. 52.

[16] Thanh Tâm Tuyền. Liên, Đêm, MặtTrời Tìm Thấy (1964).

[17] Nguyên Sa. “Luật phản thanh” HồiKý (Irvine CA: Đời, 1998) tr. 37.

[18] Trần Trọng Đăng Đàn. Văn HọcThực Dân Mới Mỹ Ở Miền Nam Những Năm 1954-1975, tập 2 (Hà Nội: Sự Thật,1991), tr. 68, 72.

[19] Trần Thị MaiNhi. Văn Học Hiện Đại Văn Học Việt Nam Giao Lưu Gặp Gỡ (Hà Nội: Văn Học,1994), tr. 135, 136.