Thế giới tiểu thuyết Hồ Trường An

Ông tên thật Nguyễn ViếtQuang. Sinh ngày 11-11-1938 tại xóm Thiềng Đức, làng Long Đức Đông, tỉnh VĩnhLong; nguyên quán làng Hương Thủy, Thừa Thiên. Năm 1967, đang học Dược khoa Đại họcSài Gòn bị động viên,khoá 26 trường Sĩ quan Trừ-Bị Thủ Đức. Biến cố 30-4-1975 xảy ra khi ông đanglàm sĩ quan Thông tin Báo chí của Quân Đoàn III tại Biên Hòa.

Định cư tại Pháp năm 1977;từ 1981 cư ngụ tại tỉnh Troyes, vùng Champagne. Tổng thư ký toà soạn các tập san Quê Mẹ (Pháp, 1977-1981), Làng Văn (Canada,1987-1997) và cộng tác với nhiều tạp chí hải ngoại. Tác phẩm đã xuất-bản ở hảingoại khoảng 60 tác phẩm gồm 23 truyện dài, 11 tập truyện ngắn, 22 tác phẩmbiên khảo và 2 tập thơ.

Hồ Trường An qua hơn 20 tácphẩm biên khảo và ký sự, nhận định văn học nghệ thuật - một kỷ lục ở hải ngoại,đã chứng tỏ đi xa và chi ly trong nhận xét, phê-bình dù chủ quan dễ nhận ra. Cóthể nói Hồ Trường An là chủ soái của thể-loại này. Từ trước 1975 dưới nhiều búthiệu, ông đã điểm sách và tổng kết tình hình văn-học cuối nhiều năm cho cáctạp-chí Tin Sách, Văn Học, … Ra hải-ngoại ông đã viết về khá nhiều nhàvăn thơ và xuất-bản thành tập ông thường gọi là “ký sự văn-học” và có ngườiđược ông viết đi ký lại hơn một lần. Nói chung các ký sự của ông giúp độc-giảbiết nhiều khía cạnh cuộc đời và sáng-tác của nhiều văn-nghệ sĩ, tuy vậy sự lựachọn của ông có thể dễ dãi khi viết về những vị đời văn ngắn ngủi hoặc chưađược biết đến. Trong một số các truyện dài ngắn, Hồ Trường An cũng đưa hình ảnh,hành trạng cùng tác phẩm của một số nhà văn thơ dưới một số tên khác, đủ để gâythích thú, tò mò đồng thời khiến cho các truyện thêm thành công và có độc giả.

HồTrường An có thể xem như là nhà văn của “miệt vườn” chân quê lẫn kiểucách, mộc mạc và kiêu kỳ. Ông gọi các tác phẩm là “truyện dài đồng quê”. Nhữngchuyện về con người, phong tục, sinh hoạt ngày trước được nhớ lại và hiện lêntrang chữ như những bức tranh cố hoàn chỉnh, như bài ca vọng cổ đủ 6 câu. Tronghành trình đi tìm thời gian đã mất, ông chứng tỏ có một trí nhớ đặc-biệt vềngười và biến cố, nhưng khi trình bày, mô tả, ông đã hoa hoè biến thành mộtthực thể mới: Nam-kỳ chân quê của Hồ Trường An! Ngôn-ngữ nói mà dài dòng nhưcủa ca ngâm, ca hát!

Bàithơ Khai Từ Cho Một Quyển Sách mở đầu “truyện dài đồng quê” Lớp Sóng PhếHưng cũng là sáng tác dài hơi đầu tay của Hồ Trường An, có thể xem như tâmtình, ý nguyện của ông trao đặt khi sáng tác:

“Đã mất trong khung trời ký ức
Bóng hình thân mến một miền quê
Đường xa còn đợi chân lưu lạc
Đất cũ dường như khép lối về.

Quê cách trùng dương, khuất khói sương
Bên kia chung cuộc: tháng năm buồn
Trải dài lịch sử bao hưng phế
Đất nghẹt oán thù, ngập máu sương.

Ngẫm lại từng ngày thân chiến bại
Mà nghe hờn oán dậy đêm đêm
Phương trừi lận đận, không đôi lứa
Giấc mộng ngày xa cũng úa mềm.

Bỗng tiếng thổ ngơi xưa nhắn nhủ,
Trong chiều hoang vắng, giữa lòng đêm:
Từng phen gục ngã, từng phen chết
Xin ngẩng đầu lên, hãy đứng lên...”

Hãy nhớ mảnh ao, dòng nước mát
Hãy yêu vườn rộng, rẫy xanh tươi
Có nghe vết cháy hồn đau cũ
Ngời vết soi trang điểm cuộc đời?

Tươi mãi trong lòng bóng khóm tre
Vàng hanh kỷ niệm buổi trưa hè
Ngát thơm ký ức mùa xôi cốm
Sớm nắng còn say lắng tiếng ve

Nuôi mãi niềm tin qua đất cũ
Để còn gốc rễ bám quê hương
Ngẩng đầu, thế kỷ huy hoàng đón,
Dẫu đã chồn chân mấy dặm đường”
(bản 1988, tr. 13-14)

Quahơn 30 sáng-tác đã xuất bản, chuyện miệt vườn với Hồ Trường An đã là một trườngthiên tiểu thuyết, trong đó các nhân vật và các tác phẩm tiếp nối nhau, cácchuyện tình, ghen tương và những khung cảnh gia đình miệt quê cũng như tỉnh lỵ,thủ đô. Ông chứng tỏ đã sống và biết nhiều, hơn nữa sinh trưởng trong một giađình văn nghệ – thân sinh là nhà thơ Mặc Khải (Nguyễn Viết Khải), tác giả SôngNước Cổ Chiên, Phấn Nội Hương Đồng,...; một người Cô là thi sĩ Phương Đàivà chị là nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ (Nguyễn Thị Băng Lĩnh). Ngoài ra, đờilính, đam mê phim ảnh, sân khấu và làm văn nghệ của ông trước 1975 đã giúp ôngkhông ít trong việc sáng tác và biên khảo, chủ yếu từ khi sống tị nạn ở Pháp.

Từ những tác phẩm đầu tayLớp Sóng Phế Hưng, Phấn Bướm, Hợp Lưu, Nửa Chợ Nửa Quê,Đêm Chong Đèn, Lúa Tiêu Ruộng Biền, Ngát Hương Mật Ong, Bãi Gió Cồn Trăng,... đến những tiểu thuyết saunày như Mùa Thục Nữ Vu Quy, Trang Trại ThầnTiên, Vùng Thôn Trang Diễm Ảo, Chân Trời Mộng Đẹp, Tình Sen Ý Huệ và các tập truyện ngắn Tạp Chủng, ChuyệnMiệt Vườn, Chuyện Quê Nam,..., Hồ Trường An đưa người đọc trở về và sốnglại với miền đất đồng bằng sông Cửu Long như Mỹ Tho, Trung Lương, Vĩnh Long,Rạch Giá, ..., với đủ hạng người, dânquê, nửa quê nửa thành thị, người Minh Hương, dân ruộng rẫy, thương hồ, trốnnợ, đào kép cải lương, trẻ già, ... chung đụng trong một không khí mát lành củađồng quê mà cũng hâm hấp dục tình, tự nhiên như thời tiết, như con nước phù sa,... Người đọc cũng được nhìn thấy sinh hoạt thường ngày và những cảnh đẹp miền quê, những căn nhà lợp bằng lá dừa nước, những mảnh đờisống của các thập niên 1940 đến 1970 cũng như thời thuộc Pháp.

Ngoàira ông cũng có sáng-tác truyện miền Đông Nam phần cũng như miền Trung - như TrăngXanh Bên Trời Huế, Trở Lại Bến Thùy Dương và trong truyện dài Ngát Hương Mật Ong qua nhân vật “bànội”, ông đưa vào món ăn, phong tục, tập quán của người Huế “chung đụng” vớingười miền Nam như thế nào...

Hơn 20 truyện dài, nhưngchỉ có một số là đáng kể. Chúng tôi thử đi vào một vài truyện có thể xem làtiêu biểu và đặc sắc. Lớp Sóng Phế Hưng là“truyện dài đồng quê” đầu tay, sớm tuyệt bản khi in roneo lần thứ nhất năm1983, Hồ Trường An đã cho báo Xây Dựng ở Houston, Texasđăng lại từng kỳ năm sau, 1984, và được Tủ Sách Cành Nam tái bản năm 1988. Lớp Sóng Phế Hưng đáp ứng được sự mongđợi của người đọc từ khi một số truyện ngắn của ông vừa xuất hiện đã gây ấntượng và đáp ứng một số nhu cầu thương nhớ xứ sở quê nhà của người Việt lưuvong. Các truyện này gợi lại khung cảnh thôn quê lục-tỉnh rađến giữa Paris xứ người - như trong truyện Tên, Thứ, Hỗn Danh thú vị – chuyện cậuBa Thiềng Đức gặp lại người cùng quê giữa lòng Paris hoa lệ! Truyện dài CònTuôn Mạch Đời viết về nếp sống người Việt ở Paris xứ người khó khăn về hộinhập và ý chí bảo tồn phong hóa dân tộc. Các truyện ngắn Bà Già Trầu Cảm Kháivà Giấc Mộng Bà Già Trầu - trong tập Gả Thiếp Về Vườn, ông kể chuyện mộtbà già quê mùa chất phác sống tị nạn ở Pháp – cũng vì truyện này (và LớpSóng Phế Hưng) mà Hồ Trường An có biệt danh “Bà Già Trầu”. Bà già này haythan thở với chị Tám: “Chèn ơi, chị Tám! Không hiểu mồ mả ông nội của haicon Ngọc có bị trâu dẫm, bò đạp, heo chó phóng uế hay không mà mả bị động khiếnlũ cháu gái mất nết hư thân. Con Giên tuy không dám loã thể trên sân khấu nhưngnó chế ra cái áo giống như cái áo lá, để chừa một khoảng bụng lòi cái lỗ rúnthật sâu đựng cỡ một muổng cà phê nước mắm. Cái quần của nó thiệt lạ đời:xì-líp không ra xì-líp, quần cụt không ra quần cụt. Quần bằng nhung đen, thêucon dơi bằng kim tuyến ngay chỗ giữa cặp đùi. Quên nữa, cái áo hở bụng của nócũng bằng nhung đen, ôm tròn cặp vú, thêu từng vòng tròn ở chỗ lồi của vú. Mènơi, áo quần mà thêu kiểu đó có khác nào réo gọi khán giả rằng: “Mấy người hãycoi đây!”. Ngộ hén! Ca sĩ trình diễn là để mời khán giả thưởng thức giọng hátchớ có lý đâu mời họ nhìn và tưởng tượng mấy thứ bửu bối của đờn bà nằm dướicon dơi và những vòng tròn thêu kim tuyến đó!

Con Giên vừaỏng ẹo bước ra, lũ choai choai thôi huýt sáo, rít tu hít từng tràng dài. Tuinhục nhã biết để đâu cho hết, chị Tám! Khi hát nó ưa xoay lưng lắc lắc cái môngthiếu điều dện vô mặt khán giả. Rồi khi quay mặt lại là nó nẩy người lên, chànghảng chê hê coi thiệt là tục tĩu, vô phép tắc. Vậy mà lũ trẻ coi bộ thích lắm,hoan nghinh như sấm. Tui và bà bạn già bỏ ra về, ở coi cho hết chương trìnhcàng thêm nhục!...”.

Lớp Sóng Phế Hưng xảy ra ở một địa danh quê mùa thuộc Hậu giang.vùng Hóc Hỏa, quận Hỏa Lựu, tỉnh Rạch Giá “đất Hóc Hỏa nầy, dân tứ xứ, cùngkẻ lang bạt kỳ hồ tới đây, mạnh ai nấy đốn rừng tràm , khẩn đất cho mình. Ngườinào siêng thì có nhiều đất. Ngoài ra đều là rừng tràm dầy bịt, ngăn một phầnnào gió biển thổi về. Qua thời gác kèo nuôi ong lấy mật, họ trồng khoai; giờ đâyhọ trồng lúa. Trái với người Tàu thích du canh; người Việt lại thích định cư.Dân chúng phần nhiều thất học. Cuộc sống của họ lam lũ, tăm tối, quanh quẩntrong chốn bùn lầy nước đọng, chưa hề nghe nói tới xe ô tô, xe lửa, đèn điện,nước đá, cà phê, sữa hộp...”.

Câu chuyện xoay quanh đờisống của một gia đình có 5 người con đang đến tuổi dậy thì (Hai Cường, Ba Kiểm,Tư Diễm, Năm Nhan, Út Biên) và bà Bếp Luông, một bà mẹ quê góa phụ cứ phàn nàn “Thằnglớn thì vào Sóc để ve vãn mấy con đầu gà đít vịt [gái Miên], hai đứa con gáilớn mượn cớ đi đây đi đó để bẹo dạng bẹo hình với tụi con trai. Người ta cóphước đẻ con nhờ con cậy, còn tui nghiệp dầy đức mỏng, đẻ ba thứ sấu bắt hùmtha, chằn ăn trăn quấn. Phải dè, tui đẻ ra hột gà hột vịt, luộc ăn còn bổ ích hơn…”(tr. 15)

Người dân quê ở đây đàn ông thì nếp sống thường tứ chiếng, thương hồ; đàn bà thìhay ngồi lê đôi mách và chửi lộn – họ quen chửilộn có vần có điệu, tuy bản chất chân thật. Những lời rủa sả chửi bới thô lỗ,ngọt ngào, có vần có điệu có cung có giọng, nghe thì thô lỗ nhưng nghe sâu vàomới thấy ngọt ngào. Làm như không chửi bới thì họ ăn com không ngon miệng -tiếng chửi rủa thô lỗ bị chê là “như chằn tinh, gấu ngựa” như nhân vật SáuQuyên góa chồng mà Hai Cường theo chọc và cuối cùng lấy anh ta và cùng có haiđứa cháu nội sinh đôi đưa về xin được má chồng cho phép cưới hỏi:

- “Mầydám nói vậy hả thằng Thiên Lôi? Qua đây mặc sức mà bồng, mà hun. Mầy mà khôngqua thì tao vác dao qua liền”.

-“Đồ ănnói luông tuồng,đồ trời đánh thánh đâm! Ma Da không rút mầy dưới đáy sông thìquỷ La Sát bắt mầy xé téc hai. Gặp mặt mầy là tao có nước trào máu họng” (tr.29).

Như bàBếp Luông la hai cô con gái Ba Kiểm và Tư Diễm:

- “Haicon đĩ Hà Bá nầy tới bây giờ sao chưa chịu ngủ để sáng mai đi buôn đi bán vậyhả?

Hai Cường đêm đêm nhớ tưởngSáu Quyên: “Chàng ao ước được ôm Sáu Quyên một lần để nựng cái cầm xinh xinhcủa chị, để cắn lên đôi môi mỗi khi hé ra là có tiếng chửi bới và rủa sả đó.

Lúc mười chín tuổi, đã mộtthời Hai Cường yêu cô Chín Điều ở ngoài Vàm. Nhưng thuở đó,chàng cảm thấy mìnhcần phải yêu. Yêu là nhu cầu tình cảm của người con trai mới lớn. Nhưng khi gặpCấm Dục rồi chàng mới biết trước đó mình lầm và mình chưa thật sự bước vào vòngyêu đương. Chín Điều không phải là kẻ mà chàng yêu với tất cả tâm hồn.

Đêm nay, không biết tại saochàng lại ít nghĩ về Cấm Dục mà lại nghĩ nhiều về Sáu Quyên? Mình có yêu chị takhông? Hay chỉ vì ánh trăng ở đây ve vuốt quá,mông lung quá,làm chàng nghĩ tớicảnh vai kề má tựa với bất cứ cô gái, đàn bà nào xấp xỉ tuổi chàng” (tr. 47)

Sáu Quyên, “từ Vịnh TràBay, chị ta trôi nổi qua đây lập quán,như trốn tránh một kỷ niệm nào đó. Chị tachăm chỉ làm ăn,chăm sóc nhà cửa,chăm sóc quần áo,tóc tai. Chị ta tuy đẹp thuaBa Kiểm và Tư Diểm, nhưng chị biết cách chưng diện, lúc nào cũng đi guốc, biếtxức dầu bông lài, biết cười duyên,biết liếc truyền ý, biết nhấn vuốt giọng nóiđể giọng đôi lúc mơn trớn, đôi lúc như than vãn. Lại nữa, chị có dáng đi uyểnchuyển, khêu gợi. Đã bao lần nhìn trộm chị, chàng cảm thấy thân thể mình bứtrứt, lòng dạ mình bâng khuâng,khó diễn tả”.

HaiCường si chị Sáu Quyên, “Trai đa tình nào cũng mê đàn bà góa ráo trọi. Đànbà góa như cá nấu canh. Đã có bỏ hành,còn thêm tiêu ớt”.

Đối đáp cưa cẩm:

Hai Cường gọi:

-Sáu Quyên!

Sáu Quyên tru tréo:

-Ai cho phép mầy hài têntao ra vậy? Nhờ mầy mà thiên hạ biết tên tao đó mà.

-Sáu Quyên,chị đừng có dốilòng chị nữa.Hai đứa mình mê nhau. Ở đời,thiếu gì trai tơ mà mê cảm,mê điên gáigóa. Chị coi,hồi xưa, bác Bảy Hương trai là trai mới lớn lấy bác Bảy Hương gáilà gái một con. Đàn bà goá ví như cây đờn kìm, có khảy nhiều lần thì tiếng càngthanh tao. Chị coi, vậy mà hai bác cũng gầy dựng nên cửa nên nhà.

Sáu Quyên phì cười:

-Ai dạy mầy ăn nói như mấythằng cha o mèo trong tuồng cải lương vậy hả? Hôm nay mầy thấy tao...dễ tánh,mầy gáy lảnh lót quá mà.

-Ai dạy cũng được,miễn làchị thấu cho lòng tui thì thôi.

Sáu Quyên ứ hự,ngồi buồnhiu,nước mắt rưng rưng. Hai Cường tiến lại chị,nắm chặt tay chị,ngó sâu vào mắtchị. Chị hoảng hốt xô chàng ra,nước mắt tuôn như suối.Hai Cường dịu giọng:

-Nếu chị thật bụng thươngtôi,thì mình dắt nhau đi xứ khác làm ăn. Chừng có con cái rồi mình về lạy bàgià chịu lỗi cũng được. Bà già tui tuy hay chửi, hay rủa, nhưng lại dễ tánh,chửi đó rồi quên đó...” (tr. 111-112).

Hai người rủ nhau trốn đisống chung làm ăn ở Vịnh Trà Bay. Vài năm sau họ trở về xin bà Bếp Luông thathứ và nhận dâu, nhận cháu:

“Chàng quì xuống lạy. CònSáu Quyên thì ngồi bẹp xuống đất vừa lạy,vừa khóc rống,miệng xổ một hơi:

-Lạy má, xin má thương anhHai,thương hai đứa cháu mà cho phép tụi con về đây phụng dưõng má, để má hủ hỉvới hai thằng cháu nội. Tụi con đã ăn ở quấy,làm má rầu buồn, tức giận nên ngàyđêm tụi con ăn năn, đau đớn lung lắm. Má mà không thương thì vợ chồng con biếtnương tựa vào đâu? Tụi con về đây hủ hỉ với má để chuộc tội bất hiếu.

Bà Bếp Luông nạt:

-Thôi đi cô. Ai dám nhận côlà dâu chớ? Cô là oan gia của tui,tui sợ cô lắm mà. Thằng con tui hiếu hạnh,côdụ dỗ nó làm nó mang tiếng bất hiếu.Nay cô còn bày chước gì nữa đây? Tui mời côđứng dậy để tui lạy cô,xin cô đừng theo tui báo oán nợ tiền kiếp giữ cô với tuinữa.Thấy mặt cô là tui sợ rợn tóc gáy,muốn ngã lăn ra chết giấc.Cô không đi,tuila làng cho cô coi...

Bà Bảy Hương nói:

-Thôi mà chị. Bề nào tụi nócũng đã ăn ở có hai mặt con rồi. Chị nhận lời nó đi, uống miếng rượu, ăn miếngtrầu cho vợ chồng nó mừng. Tuy tụi nó không đợi cưới hỏi, lại chim chuột ngangxương. Nhưng tụi nó ăn nên làm ra,xu tiền rủng rẻng, gẫm lại bằng mười cái thứcó cưới hỏi rỡ ràng, mà vợ chồng xung khắc, mần ăn tàn mạt. Chị nghe lời tui,uống miếng rượu, ăn miếng trầu cho thấm miệng, rồi nựng cháu.Hơi đâu mà giậncho tổn sức, để sức mà hun hai thằng cháu nội có hơn không” (tr.145).

Nhờ bà Bảy Hương can ngănmà bà má nguôi ngoai và nhờ đó mà cả nhà vui vầy trở lại.

Phấn Bướm kể chuyện một gia đìnhphải bỏ nhà hương hỏa ở Vĩnh Long dọn về làng Đạo Thạnh gần Ngã Ba Trung Lương(Mỹ Tho) lập nghiệp; vào thập niên bốn mươi, năm mươivà cuộc kháng chiến chống Pháp. Người dân thời đó chưa bị lối sống Tây phươngvật chất sau này ảnh hưởng khiến phải mất đi những nét riêng. Con người ta sốnghòa đồng với thiên nhiên, hàng xóm; nhà thì mái lợp bằng lá dừa nước bên những “bãidừa nước được gọi là xẻo lá, doi lá”. Về vùng kinh rạch đó, bà má sanh thêmđược ba cô gái đặt tên là Lệ Phỉ, Diễm Lăng, Mỹ Cần - sau Phương Tần sanh trướcở Vĩnh Long. “Bốn chị em đều có tên bốn thứ rau để kỷ niệm thời má sửa sangvườn tược và gây dựng sở rầy. Tần, Cần, Lăng là rau ở quê hương. Ba bảo ‘Lăng’tức là củ ấu, còn ‘Phỉ’ là một loài rau thanh đạm ở bên Tàu” (tr. 5). Nhà không con trainên nhận Cảnh nuôi trong nhà. Các nhân vật của Phấn Bướm lớn lên, đi họclên và đường tình trươn tru có mà khủng hoảng cũng có. Phương Tần đính hôn vớiCảnh, Mỹ Cần mê Cảnh và gặp Hạo Minh. Diễm Lăng cũng mê Cảnh, lại bồi hồi khingắm Tùng ngủ trưa.

Nhưng rồichiến tranh khắp Đông Dương. Người cha bị ép vô bưng Giáp Nước của Việt Minh,má con có lúc vào “ở chơi” cả tháng. Tình cảnh nhà sa sút như trong thơ PhươngTần viết cho Cảnh: “gia đình em đã gặp tai nạn mấy năm nay. Ruộng đất củaông nội em bị Việt Minh sung công. Bác Hai em yểu mệnh, ba em bị giam cầm...”(tr. 231).

Lệ Phỉ luônmơ mộng trở về mái nhà xưa nhưng tạm theo nghiệp hát. Mỹ Cần viết văn đăng báo “NgàyXanh”. Diễm Lăng thêu thùa - như chị Phương Tần nay sống với Cảnh ở Xóm Tre. Tất cả bị thời cuộc bứng khỏinhà hương hỏa rồi cả vùng “xẻo lá, doi lá”!

Ngát HươngMật Ong: Hồ Trường An đưa độc giả trở lại quê nhà Vĩnh Long củaông. Ông kể chuyện “ba cô Phương [Đạm Phương, Hằng Phương, Thấm Phương], bacậu Ngọc [Tường Ngọc, Lương Ngọc, Tuấn Ngọc], hai cô Minh [Bình Minh, TuyếtMinh] và Hạo Minh bắt đầu trưởng thành vào lúc cuộc chiến giữa Pháp và ViệtMinh gần tàn, ở một nơi xa tầm ác hiểm của chiến tranh. Đó là vùng ngoại ô tỉnhVĩnh Long, nằm bên hữu ngạn con rạch Long Hồ gần vàm sông Cổ Chiên” (tr. 174).

Chuyện của họ, và người cha với ba bà vợcộng thêm chị vú tằng tịu nhưng không có con tự bỏ đi tu sau khi gả em gái útcủa mình làm dì ghẻ đám trẻ nói trên và sinh thêm hai người con khác – ThấmPhương và Tuấn. Chuyện có nét đơn thuần cũng như đầy rắc rối, cốt nói lên hươngthơm mật ong thường trực quẩn quanh chốn đồng quê nhưng mấy ai dễ nhận ra. Tênvà cảm tình hay ghét bỏ bắt nguồn từ các tên gọi, người thích hương bông này kẻthích mùi hay màu bông kia. Nhân vật Mãn Đường Kiều - giang hồ, sành đời và từnăm 14 tuổi “tôi đã bị cánh tay chủ nghĩa trói buộc. Tôi được phekháng chiến gài vào công-tác dân vận nội-thành”, được đưa vào như nhân tố kích thích các nhân vật kháccùng diễn tiến câu chuyện. Cô này mê trồng hoa, cây kiểng cũng như rau cỏ, vàcó kinh nghiệm: “Kỳ lạ, vào những hôm trời nóng như hôm nay, tôi có cảmtưởng mỗi bông hoa tiết ra một ít mật. Hương mật ong trộn với hương thơm riêngbiệt của từng loại hoa. Nhưng mình phải lắng sâu vào không khí, vào hương thơm,nhất là lúc yêu đời, mình mới cảm nhận được mùi mật ong...

Tường Ngọchít hít không khí vào lồng phổi rồi nhăn mặt:

- Tôi...không cảm nhận được hương mật ong như bồ nói.

Mãn ĐườngKiều nắm lấy tay Tường Ngọc:

- Làm sao bồcảm nhận được? Vì trong giây phút nầy, tâm hồn bồ còn dư sót hương vị mật đắngcủa cuộc đời.

- Tôi sẽ bắt chước bồ

- ?

- Tức là phảilắng sâu vào không khí, vào hương thơm để tìm hương mật ong...” (tr. 114).

Tường Ngọcthành công làm nghệ sĩ sân khấu nhưng lại làm “đĩ đực” cho các bà thừa tiềnrững mỡ, anh và Mãn Đường Kiều vẫn yêu mê nhau có lẽ vì cả hai phải sống nhiềumặt. Cô Kiều cuối cùng mở mắt về kháng chiến khi nhận thư tuyệt mệnh cha côviết trước khi tự sát bảo phải tránh xa “lũ cuồng tín” Việt Cộng. Đạm Phươngtheo đuổi ca hát, yêu và được Thẩm Kỳ tỏ tình. “Đạm Phương tóc xõa như gáiHuế, mặc áo xanh, tai đeo bông nạm kim cương, cườm tay đeo vòng ngọc thạch.Hằng Phương mặc áo màu hoàng yến, cổ áo gài con bướm bạc, tay đeo vàng, bôngtai cũng nạm kim cương. Mèn ơi, Hằng Phương sao hồi nào đẹp chói lên, má hồng,da mịn, mắt đen và sáng loang loáng. Bên cạnh nét tươi thắm đoan trang của chị,vẻ rạo rực, nồng nàn của Hằng Phương nổi bật lên...” (tr. 304). Hằng Phươngtheo đuổi nghiệp văn vào cái thời tiểu thuyết tâm lý xã hội, kiếm hiệp, sáchbáo, truyện và phim ảnh tràn ngập nơi đô thị; người yêu là Huy Đán theo tập kếtvề Bắc.

Hạo Minh tự chuốc mặc cảm tội lỗi lánh mặtThấm Phương chỉ vì nghe lời bạn rủ rê “đi hành lạc ở một căn nhà thổ xóm LòTương gần Cầu Lộ (…) Chàng biết mùi gái từ hôm đó (…) Chàng đang sức lớn, thểxác cường tráng. Những lúc động tình, chàng cũng nghĩ về Thấm Phương. Nhưng cáihôm viếng xóm Lò Tương đó, trong lúc nằm trên giường với người đàn bà lạ mặt ,rõ ràng chàng quên mất Thấm Phương. Cái hành động “tội lỗi” đó, khi ôn lại, ácnghiệt thay, chàng vẫn thấy thích thú, thân xác bừng nóng bởi ngọn lửa nhục cảmđê mê”. Hành động chàng nghĩ là phản bội đó, Thấm Phương lại xemlà … chuyện nhỏ: “Tưởng chuyện gì! Thì ra … là vậy (). Anh ngốc nầy sao ưa vẽ ác mộng để rồi chuivào quá!” (tr… 306, 307). Và họ lấy nhau, nàng “vẫn còn là một xử nữ”.

Hơn một lần,tác giả đã để các nhân vật kéo nhau ra vườn tìm hương hoa: “Khu vườn sautrận mưa như mới hẳn, lá bóng loáng. Những cành mận đơm hoa trắng nõn. Câychiết, cây điều bừng nở lá non màu nâu ửng hồng. Cây đọt lụa điểm lá non màulục nõn. Chuối xoè túm lá rộng bản, dưới gốc những chồi chuối con lớn cỡ chàyđâm tiêu. Ổi cũng đơm hoa trắng. Hương hoa ổi trộn với hương hoa mận thơm dìudịu. Hai thứ hương nầy chỉ tỏa nồng vào sau cơn mưa hay lúc hừng sáng, khi thờitiết mát dịu...” (tr. 281).

“Những câytrứng cá đơm đầy trái chín mọng và đỏ như san hô. Những cây mận sai trái; mậnhồng đào tô né hồng vui tươi và xán lạn trên nền lá lục sẫm, mận trắng như đúcbằng sáp ong, mận xanh như những khối ngọc thạch được đẽo gọt khéo léo. Chengiữa những trái mận non là những chùm hoa trắng tỏa hương thơm ngát” (tr. 329).

Bình thường người ta nghĩ hương cuốn theochiều gió hoặc chờ đợi hương bay tỏangược chiều, ít ai chịu khó lắng đọng để hưởng mùi hương nhất là thứ hươngquyện mật ong. Cũng vậy, lối vào ra luôn ở cùng chỗ; chính con người ta quênlối hoặc đường đi đầy cỏ dại – như lời một bà tu hành tướng hao hao một bà bàkhách mà Tuyết Minh đã quen, báo mộng cho nàng.

Truyện ngưng khi Pháp phải rời Đông Dương,mở màn cho chế độ đệ nhất Cộng hòa, các giáo phái lần lượt phân rã hoặc về vớichính phủ quốc gia. Và tương lai hãy còn ở trước mặt với đám trẻ: “Một cơn gióthổi tới phơi phới. Những khóm thổ lan và cẩm nhung mềm mại rung rinh. Tronghồn mọi người như choáng rợp những cánh diều bay lồng lộng, đuôi diều uốn lượnuyển chuyển trên nền trời xanh mây trắng” (tr. 334).

Nói chung, các “truyện dàiđồng quê” với đề tài phong tục, văn hóa miền đất mới của Hồ Trường An có đặcthù của riêng ông, ở cách kể chuyện khá sống động, ở ngôn từ đối đáp, ở cảnhtình, diễn biến – khi đọc truyện ông, nếu đọc lớn tiếng và phát âm giọng miệtvườn nhà quê thì càng hấp dẫn (mà các băng đọc truyện chỉ làm được phần nào)!Truyện đồng quê miền Nam lục tỉnh của ông đã rời xa những Hồ Biểu Chánh, NguyễnChánh Sắt, Phi Vân ở kỹ thuật truyện, ở miêu tả tỉ mỉ, và hình ảnh, ngôn ngữ sửdụng,… cũng như khai thác tối đa tiếng nói thường ngày, bình dân, của con ngườiở vùng đất mới, đã tạp chủng, pha trộn. Đa phần trong hơn 20 “truyện dài đồngquê” có thể gộp chung và xem như là “đại trường thiên tiểu thuyểt” hay những “truyệndài đồng quê” nhiều tập – hay “siêu liên văn bản” nói theo thời gần đây. Tuyvậy, đọc Hồ Trường An dễ thấy cái hoa hòe trãi rộng của ông cókhi làm người đọc bối rối, lạc lỏng, không phải như trong câu chuyện dài tìnhtiết của Xuân Vũ, hay dài cố ý của phim bộ, mà là ở chi tiết, hình dung từ, cáitrang điểm thêm khi đã đủ tươm tất, nhất là khi độc giả xem các tập truyện gầnnhau!

TruyệnHồ Trường An có những đặc biệt bất ngờ như lời tả “Chị Marie có tấm nhan sắctrung bình, có cái thân hình cao lớn bốc lửa, có cái miệng tục tĩu duyêndáng”.

Có lẽvì cái miệng vậy cho nên chị Marie lấy Tây này thường “rên la thống thiết” khiến“ông thợ câu neo xuống gần đó câu tôm, hoặc mấy cô đi gánh nước từ cầu nhủi sáthông nhà chị” đều nghe rõ:

“-Thằng chó đẻ, mày đâm, mày ngoáy tao. Quỉ ơi, tao sung sướng mà chết đây!

- Ôngbà ông vải ơi, thằng thiên lôi này giết tôi đây!

-Thằng khốn nạn, muốn giết tao thì đâm tao lút cán đi. Cứ nhấp nhứ hoài làm taomuốn phát điên. Tiên nhơn tổ đường ơi, thằng mắc dịch này bày vẽ nhiều trò dễghét quá!

Tómlại, đây là hạng đờn bà dở... chịu khoái lạc” (Mùa Thục Nữ Vu Quy)

Cách đặt tên nhân vật lạilà một đặc điểm khác của ông. Trong vài tác phẩm, tên đặt cho nhân vật quá đẹpkhông hợp với hoàn cảnh địa lý thôn quê thường dùng tên cục mịch hơn, “dân gian”hơn. Chỉ lấy thí dụ cuốn Phấn Bướm,nhân vật nào là Diễm Lăng, Lệ Phỉ, Phương Tần, Mỹ Cần, mà ngay thú vật, bồ câuđược gọi là Xuyết Cẩm, Ánh Tuyết, Như Băng, Hoàng Hạc, ngựa thì Đạm Lớn, ĐạmNhỏ, Bích, Huyền Ô, ...

Tả sắc đẹp, nào “dung nhan tuy không lộng lạc hực hỡ đến độ huê nhườngnguyệt thẹn, song cũng duyên dáng, mặn mòi lắm”, so sánh “Cặp mắt cô Ba sángngời loang loáng ánh thu ba thì mắt cô Năm là cặp mắt lá răm và xếch như mắtphụng, êm dịu tỏa ánh hiền từ”, … Một người như bà út Túy Huệ “đã 42 tuổi,nhưng còn non nheo nhẻo như đờn bà 30 tuổi. Cho nên bà út ăn diện theo gái tânthời, tóc chải chín lượn, mười mồng trên đầu rồi bới cái bí bo dẹp dẹp tròntròn như cái bánh tiêu sau ót. Hễ bước ra khỏi nhà là bà tô son giồi phấn hựchỡ, mặc áo dài bợ ngực bó eo, đeo nữ trang rườm rà choáng lộn”. Một chị tênMarie Phô Mai “mặc chiếc áo bà ba bằng mousseline đen in bông huệ hường vàhuệ vàng, quần sa teng tuyết nhung đen. Tóc chị cuốn tay rế, giắt lược đồi mồicó nạm trân châu ở sống lưng. Tai chị đeo bông hột xoàn, cổ đeo xâu trân châu,đôi cườm tay lồng trong đôi vòng huyết ngọc”, …

Hồ Trường Ancó khá nhiều nhân vật viết văn, viết báo, như trong các truyện dài Vùng ThônTrang Diễm Ảo, Trang Trại Thần Tiên, Ngát Hương Mật Ong,...

Tên món ăn dù không caolương mỹ vị vẫn được tác giả âu yếm bác-học đặt tên! Mỗi khi tả món ăn thườngHồ Trường An khá chi tiết: “Cô Ba Diệm Quang trổtài làm bánh nướng như bánh nem, bánh con đuông, bánh gai, bánh phục linh, bánhpetite madeleine có thể để dành lâu khi đựng trong những ngăn quả sơn son thếpvàng. Bánh men cô lớn cỡ khu tô được bắt bông đường màu tím, màu hường trongkhóm lá lục thấy đẹp nên không ai nỡ ăn. Bánh phục linh của cô trắng như phấn,mịn như thạch cao được in trong khuôn gỗ nên có hình vuông, hình quả chám viềnrăng cưa và nổi bông mai, bông cúc, bông sen, bông huệ. Bánh gai và bánh conđuông của cô nướng chín vàng ấm áp, không một vết cháy. Còn bánh petitemadeleine của cô xốp như bông đá, cũng không có vệt cháy vì nướng già lửa...”(Mùa Thục Nữ Vu Quy)

Trong tác phẩm của ông cónhững biến cố lịch sử, xã hội trải dài từ thời Nam-kỳ Pháp thuộc đến trước1975, nhưng thường là đời sống bình nhật, quê có, tỉnh có, sang có, hèn có, cókẻ phong lưu trí thức cũng như sa cơ mạt vận, ... với những tiếng nói lanhlảnh, ngọt ngào, kiêu kỳ, hèn hạ, và cả những tiếng chửi có vần du dương, dàiđến bất tận, người nghe thích khoái nhưng cũng có khi đau điếng gây hận thù đếnmấy đời...

Có một số từngữ và tiếng nói dân giả, đồng quê ít thấy dùng thời sau này như “lu câm”[mờ?], “vụt chặc, lanh chanh”, trái “lôm chôm” [chôm chôm], “lá lưỡicọp”, kết quả thi cử “xệ xuống”, “thằng nghiệt súc, thằng dâmtặc”, “non nheo nhẻo”, v.v. Những cây cỏ, món ăn lạ đối với dân thànhthị (và hải ngoại) như bồn bồn nhổ về làm dưa (LSPH), trái phù quân (NHMO), ...

Trích đoạn tiếng thankhóc của một cặp thương hồ ở một truyện ngắn:

“- Hồi đó tui biểu anhđi tập hát cải lương, anh không nghe; anh nghe lời ông bầu gánh Rương Đen, đitheo nghề hát bội. Giờ đây hát bội hết thời, không ai thèm coi. Gánh Rương Đenrã tại chợ Lách, may mà tui còn chút đỉnh tiền mua chiếc ghe để về đây vớt phânthiên hạ. Vớt ba cái thúi tha hoài, rồi chẳng biết ngày nào về quê quán đây!Năm cùng tháng tận rồi mà mình chưa mua được chai rượu, con vịt để dành ăn Tết.

Tiếng người đàn ông lènhè:

- Tao biểu mày nín. Sốtao là số bần cùng, dẫu có đi theo cải lương, thì cái giọng thùng thiếc bể chắcgì tao được làm kép chánh đâu. Nghề hát bội là nghề ông cha tao nuôi các cô,các chú, anh chị em tao đã hai đời rồi, lẽ nào tao phụ nó? Bộ mày tưởng hễ ai đi hát cải lương rồi cũng ngang hàngvới Bảy Nhiêu, Năm Châu, Tư Út hết hay sao? Có nhiều gánh cải lương đi hát ởmiễu đình, gặp lúc trời mưa thưa khách thì sáng hôm sau họ đi bắt cóc nấu cháo.

- Thịt cóc coi vậy mà thơmtho, nói cho anh biết.

- Ấy, mìnhvới cứt sanh nhai chớ có ăn cứt đâu nà. Dầu sao đi nữa, mình cũng đắp đổi quangày nhờ nghề vớt hạ tiện này. Mày chê nó thì mày ngu như ăn cứt...” (Bèo Bọt, Tạp Chủng,tr. 18).

Tính dục trong các truyện của Hồ Trường An có khithường trực, như cái bản năng, có khi lại như là tác động của tiềm thức, củaquá khứ. Nói chung đó là cái gì tự nhiên, bộc phát, không dồn nén, không “đạođức giả”, như hơi thở, như ăn uống, như cái thú sống ở đời. Đặt trong khungcảnh đồng quê ngày trước – mà nay đã trở nên lạ lẫm một cách kỳ thú!

Chuyện giáo dục sinh lý và công dung ngônhạnh cho con gái sắp về nhà chồng được ông viết hẳn một truyện dài - Mùa Thục Nữ Vu Quy, đặcbiệt về chữ dùng và cách dạy. Bà út Túy Huệ dạy cháu Năm Thể Tần [giả bộ chưabiết gì]:

“- Chị Hội Đồng đã ngỏ ý cô dạy haicháu chuyện giao hoan hiệp cẩn để hai cháu biết cách chiều chuộng chồng. Chỉphàn nàn rằng con Ba vốn không được thâm trầm kín đáo. Hễ ai rờ nhẹ nó, nó cũngnhảy thót lên la oải oải. Vào đêm tân hôn, thằng Thế Mạnh mà xung bức phá trinhnó, nó chịu đau không nổi hét rùm lên thì thiên hạ sẽ cười cho sượng mặt. Rồiđó, khi mà vợ chồng nó mặn chuyện ái ân rồi, giữa lúc loan điên phụng đảo biếtđâu nó sẽ không tự chế nổi cái gay gắt của lạc thú. Đáng lẽ nó ngậm miệng sòkhép miệng hến để tận hưởng khoái lạc thì nó lại ré lên nói sảng quàng, rên rỉhuyên náo, người ngoài mà hay được chắc chồng nó sẽ đội quần thiên hạ. Hai côcháu nhà này giống tánh nhau, vốn dở chịu đựng. Mấy chuyện mà cô nói vừa rồi,thiệt ra là chuyện cô đã từng làm, từng trải quạ Cho nên cô phải khuyên nhủ conBa lẫn con Năm nên tránh là hơn. (…) Cô chỉ khuyên bây một điều: đờnbà con gái phải giữ vẻ thâm trầm, không nên bộc lộ tình cảm sa đà quá trớn nhưcô chầu xưa. Đờn bà mà sướng rên, khổ rên, ngạc nhiên rên, hoảng sợ rên là thứđờn bà bộc tuệch như cái nhà trống trước hở sau, làm sao mà giữ gìn của cải,cầm chơn được chồng, dưỡng nuôi được con cái? Chèn ơi, cứ coi con Ba ăn xoàitượng chấm mắm ruốc giã tỏi ớt! Lúc khoái khẩu nó rên rỉ suýt soa, khi cắn nhằmmiếng ớt quá cay, nó rít the thé làm như lưỡi nó rát phỏng thiếu điều thụt tuốtvô trong cuống họng. Mai kia mốt nọ, nó sẽ gặp nhiều chuyện mà nó chưa từng nếmqua, nó sẽ phóng thanh rùm beng, chắc lưỡi hít hà, suýt soa ỏm tỏi, ai mà chịunổi?”

Nhân vật nữ trong truyện này vô địch vềchuyện “nói tục, nói trây” và “ăn nói trặc trẹo”! Đến đoạn kết thì quả là quá … lành: “Hạnhphước vốn có thiên hình vạn trạng bộ mặt. Nhưng với tấm lòng thành thiệt, thìchúng ta cũng có thể tìm gặp cái chơn hạnh phước. Đừng có mang mặt nạ đạo đức,đừng có hổ thẹn không đúng chỗ, thì cái chơn hạnh phước kia đến với chúng tamau lẹ”.

Trong Chân Trời Mộng Đẹp, tác giả viết về những kiếm tìmhạnh phúc, dĩ nhiên không thể bỏ ra ngoài chuyện gối chăn. Trọng Khang và NgọcHảo lấy nhau rồi xa nhau rồi tìm lại nhau qua thú vui nhục dục tìm thấy trởlại: “Ngay đêm ân ái lần đầu tiên trong cuộc tái ngộ, chàng có cảm tưởng mìnhđộng phòng với một Ngọc Hảo nào khác. Cái thể xác tươi rộ lên của nàng trướckhi đi vào thời kỳ lệch lạc và bệu nhão theo tuổi tác sao mà kích thích chàngmột cách bất ngờ! Chàng ôm nàng thật chặt, thọc sâu vào nàng như đi vào mộtthiên đường vừa khám phá, chàng nhún nhẩy cọ mài vào vùng nhạy cảm với khoáilạc của nàng một cách miệt mài để tìm lại những mảnh vụn ký ức về thú giao hợpvào thuở cả hai đi hưởng tuần trăng mật ở Vũng Tàu. Lúc chàng tưới tẩm chan hòavào nàng, chàng có cảm tưởng mình rót vào nàng những sinh lực tươi mới và rótvào nàng một niềm phục vụ tha thiết về mầm mống hạnh phúc bắt đầu hồi sinh ởtrong nàng. Cuộc ân ái đêm hôm đó làm cho cả hai có cảm tưởng là cùng ban ânsủng cho nhau để vớt vát lại những ngày hạnh phúc đã lỡ đánh mất. Khi tan cuộc,chàng còn nằm trên thân thể nàng một lúc và khi cả hai nằm nghiêng thì chàngvẫn còn ôm nàng, vùi mặt mình vào tảng ngực mềm mát của nàng để gây lại nguồnlử nhục cảm mới và bắt đầu cuộc làm tình kế tiếp...” (tr. 70).

Bãi Gió Cồn Trăng là “truyệndài đồng quê” nhiều về những câu chuyện tình dục “tạp pí lù” nhất: trăng gió,ngoại tình, khổ dâm, dâm dục thả dàn đủ cả, từ thằng ngu cu đen, bác sĩ, quanchức đến bà này con kia, ta có, tây có, thoải mái với đủ hạng người trong xãhội thời thực dân:

Cô Ba ngoe ngoảy bỏ vào buồng dành chocô. Nơi đây nệm drap trắng tinh, thoảng mùi long não. Cô cởi áo dài máng lênmóc rồi vào giừng nằm nghỉ. Cô tính nằm chơi, ai dè ngủ hồi nào không hay. Bỗngmột chiếc cằm lám nhám gốc râu chạm vào đôi má mịn màng của cô, rồi cặp môi ấmáp đè lên cặp môi cô. Cô mở mắt ra thì thấy Thierry đang nằm bên cô, thân thểkhông mảnh vải che. Cô siết chặt tấm thân hắn, làm bội hỏi:

- Ai? Ai vậy?

Tên Pháp kiều rên rỉ:

- Kiếm được dịp tốt để đến đây khóquá! Anh nhớ em lắm!

Hắn hun hít cô, rồi cả hai nhẩn nhavuốt ve nhau cho đến lúc tên gian phu không chịu nổi lửa dục nữa, bắt đầu giaohoan với cô. Cô nhắm nghiền mắt hửng ứng, quên phứt đi tấm vách có một lỗ nhỏđể cặp mắt cô Sáu Bạch Huệ theo dõi, chờ lúc họ mê man nhục dục sẽ ra tay”.

Bangbiện Hưỡn như tên gọi, suốt ngày chỉ có mỗi bận tâm bệnh hoạn “làm thế nàoăn nằm với vợ Cai tuần Hạp, tá điền của ông. Chị đang có chửa bốn tháng. Ôngchỉ cần ăn mằm với chị vài lần rồi sẽ trả chị ta về với chồng, để ông kiếm mộtmụ đờn bà có chửa khác … Ông chỉ thích ăn nằm với đàn bà chửa từ ba tháng tớinăm tháng. Cái thai lớn vừa phải thì ông ham nhưng cái bụng bự chang bang củađàn bà mang bầu từ bảy tháng sắp lên thì ông không hứng thú chút nào .... Ôngthích thông dông với thứ đàn bà chửa nhưng chồng còn sống hơn. Đờn bà góa cóchửa không kích thích ông nhiều bằng. Theo ông, còn gì thích cho bằng vừa trángmen đứa hài nhi vừa cặm một cặp sừng cong vút lên đầu thăng tía bạc phước củaông”. Hắn gạ gẫm để “núp gò mối đâm heo”, sau thím Bảy Bảnh là lén lút vớivợ Cai tuần Hạp đang mang thai, cuối cùng bị hồn ma cô Út Thoại Huê trừng phạt:

Ôngồm chầm lấy chị ta, vuốt ve cái bụng chửa lùm lùm của chị, hun hít. Mà ủa lạn,sao mình mẩy chị ta lạnh ngắt. Ông hỏi:

- Saomình mẩy em như ướp nước đá vậy?

Vợ Caituần Hạp háy ông bằng cặp mắt có đuôi:

- Thìem phải tắm rửa sạch sẽ để tiếp ông. Ngặt vì lóng rầy em yếu trong người, gặpnước lạnh về chiều nên da thịt mới như vậy. Ông úm em một đỗi thì em ấm lạiliền!

Ôngtiếp tục hun hít, ấp ủ người đàn bà. Quả nhiên da thịt chị ấm lại dần. Nhưngkhi ông muốn bóc hết lớp quần áo che thân chị thì chị đề nghị:

-Ngoài sau vườn em có một cây rơm, chỗ đó quanh năm suốt tháng chẳng ai laivãng. Đêm nay có trăng, tụi mình ra đó gẫm có thú vị hơn không?

ÔngBang biện Hưỡn khoái quá, gật gù khen ngợi:

-Thiệt qua không ngờ em... cao kiến như vầy, hiểu chuyện phong lưu tao nhã lắm.Vậy thì mình cùng đi!

Cả haisóng bước ra ngoài nhà sau. Quả thiệt có cây rơm bên cạnh cái ao. Ven ao là câygừa, Đom đóm bám vào từng chiếc là, ánh sáng chớp tắt liên hồi. Trăng bây giờlên cao, thu nhỏ lại, sáng như phiến gương làu làu nước thủy. Quanh ao tiếngvạt sành kêu râm ran. Chốc chốc có tiếng cá ăn móng.

ÔngBang biện Hưỡn bước cạnh người đờn bà, chốc chốc lại quay qua nhìn chị cườimơn. Bỗng ông lạnh mình. Ô hay! Người đàn bà đi cạnh ông rõ ràng là cô Út ThoạiHuê. Ông buốt miệng kêu: “Trời ơi!” rồi đưa tay dụi mắt. À thì ra ông nhìn lầm,vợ Cai tuần Hạp chớ không ai khác. Người đờn bà gặng ông:

- Ủa,sao ông kêu trời vậy?

ÔngBang biện Hưỡn nói lảng:

-Không, có gì đâu! Tại qua thấy em đẹp nên buột miệng vậy mà!

Vợ Caituần nhìn ông đăm đăm như thôi miên:

-Thiệt không đó? Hay ông tưởng em là cô nào khác?

ÔngBang biện cười dã lã:

- Thôimà em, em nói chi chuyện tầm phào cho mất vui!

Ngườiđờn bà khi tới gốc cây rơm, nằm dài ra, giọng ỏn ẻn thẽo thợt:

- Mìnhơi, em đây nè. Mình có chiên xào, kho nấu em cách nào, em cũng vui lòng hết.

Chịlột hết quần áo ông, ôm sát vào người chị rồi bất ngờ siết thiệt chặt làm ngựcông muốn vỡ vụn. Chị ta cười hăng hắc, sắc lạnh như từng gáo nước dội lên mặt,lên sống lưng ông. Ông Bang biện sững sờ nhìn chị. Trời ơi, rõ ràng là Út ThoạiHuê đây mà! Quả nhiên người đờn bà the thé:

- Conquỉ dâm dục, con quỉ súc sanh từng làm nhơ các thai phụ để họ phải chịu nhụcnhã vì ô danh xủ tiết! Cả nhà Cai tuần Hạp đã vì mầy mà lìa quê lìa quán, đemthân cầu thực xứ người! Bọn họ đi Bạc Liêu từ hai hôm rồi, tao phải giả dạngchị vợ để răn dạy mầy!

Nóitới đây, cô Út Thoại Huê thổi một làn hơi lạnh buốt lên mặt ông bang biện Hưỡnkhiến ông lịm đi.

Sánghôm sau, mấy người đờn bà hái rau dại trong xóm phát giác ông Bang biện Hưỡnnằm im lìm bên mộ cô Út Thoại Huê, liền tri hô lên. Mấy lực điền xúm lại, lấychiếu đắp lên thân thể trần truồng của ông, rồi hơ lửa cạo gió, xức dầu...Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, ông bắt đầu thở thoi thóp”.

CậuHai Luyện, con trai ông ta cũng dâm dục không thua, nhưng lại “ưa phá trinh con gái hơn. Cậu chỉ giốngtánh cha thích ăn nằm với đàn bà có chồng. Thím Bảy trắng trẻo, mình dây, cặpgiò dài, cặp mông tròn hoay, bộ ngực cao và săn chắc, cặp mắt thiệt lẳng, cặpmôi thiệt tươi. Uổng cho thím lấy nhắm ông chồng thiệt thà, chỉ biết lo làm ăn,lo cưng vợ mà không biết đua đòi cách sống hào huê.

CậuHai Luyện gặp thím như mèo gặp mỡ, như rồng gặp nây, chinh phục thím tuy khókhăn nhưng rồi nước chảy hoài thì đá cũng hao mòn.

(...) Cậu Hai Luyện đi chùa Sơn Thắng để ve vãn cáccô đi chùa dưng hương ngầy rằm, tình cờ gặp chỗ dung thân mới của vợ chồngngười tá điền cũ. Nhờ ở trong quán tối ngày nên da dẻ thím Bả hồng hào. Tuythím mặc quần áo vải bô, hai bàn chơn to phè nhưng cậu đã thấy trong cái đẹpthiên chơn ấy một ngọn lửa kích dục hào hứng. Cậu tìm cách ve vãn, hứa cho thímmột chiếc vòng cẩm thạch và một sợi dây chuyền vàng. Chiếc vòng tặng chỉ làchiếc vòng mã não tuy xanh lặt lìa nhưng ửng ánh vàng nghệ. Còn sợi dây chuyềntặng bằng vàng tám, miếng mề đay hình trái tim nhỏ xíu chớ không phải là sợidây chuyền bằng vàng mưới, miếng mề đay lớn cỡ đồng xu lá bài in hình chữ phướcnhư thím hằng ao ước.

Tuynhiên, người đàn bà quê mùa kia một khi đã sa chơn vào chuyện phong tình nguyệttrái rồi thì đâm ra ghiền cái mùi đờn ông thị thành. Chồng thím dù có tinh lựanhư sói cọp nhưng vẫn là kẻ quê mùa, không rành chuyện gối chăn. Khi cậu HaiLuyện ngỏ ý đưa thím cho cha cậu hú hí một đêm thì thím làm mặt giận. Ông Bangbiện tuổi tuy năm mười mà da mặc chưa dùn, thân vóc còn dẻo, tóc chỉ điểm vàisợi hoa râm. Vả lại mặt mày ông cũng khá khôi ngô. Đã lỡ hư thì thím cho hưluôn. Khi ông Bang biện nhét vào tay ghím chiếc cà rá cẩm thạch cắt hình hộtdưa thì thím chịu tiếp ông ở cái tổ quỉ của cậu Hai bên cầu Kinh Cụt..

Saukhi hú hí đã đời với thím Bảy Hành, hai cha con theo đuổi mục đích riêng. CậuHai Luyện chuẩn bị đi Mỹ An để đo đất và cậu đã sai thằng tớ trai tâm phúc tênYêm dò la kiếm gái trinh, mặt xinh đẹp để cậu dụ dỗ. Còn ông Bang biện Hưỡn thìmuốn mua bộ divan bằng gỗ cảm lai đã giồi bóng lộn. Bộ divan đó mà đặt trongcái tổ quỉ của thằng con trời biển của ông, để ông đưa vợ Cai tuần Hạp lên nằmvà “núp gò mối đâm heo” thì thập phần khoái lạc!...”.

Chanào con nấy, tha hồ lộng hành, kể cả cùng người đàn bà đã có chồng! Dân quê còntin là ma quỷ, thủy quái cũng… dâm không thua gì mấy “dâm tặc” ở những vùng hẻolánh:

“Bà Năm Tảo bảo:

- Có kiêng có cữ thì việc dữ hóa lành.Đất nước mình mới khẩn huâng lập ấp mấy trăn năm nay nên có đủ thứ yêu tinh, maquỉ, tà quái. Làm gái xinh tốt càng phải giữ kỹ hơn. Bây mặc quần áo trắng đứngbên mé nước thì bọn Giang long, Hà bá, Thủy quan, Thủy quái thấy đít, ngực,hông, nách bây ráo trọi, tránh sao “họ” khỏi động lòng dâm dục, phựt ngọn lửatình. Cho nên có đi xuồng, đi ghe, đi dạo trên bờ sông nhớ bận quần áo màu sậm,nhứt là nên bận đồ đen cho chắc ăn, vì màu đen có thể che mắt “họ”.

Ông Năm Tảo thêm vô:

- Tụi con gái chớ nên soi kiếng chảiđầu ban đêm. Bởi mặt kiếng lánh như mặc nước lúc lặng sóng nên “họ” thường ẩntrong mặt kiếng ban đêm vì ban đêm thuộc giờ âm, giờ của cõi âm, giờ của dướinước lên trần tác oai tác quái”.

Dâm dục “thái quá” cũng là lý do để bị “mộcđè”, như chuyện cậu Hai Luyện với cô Bảy Cẩm Thạch - “vốn là nhơn tình cũ củacậu, từ khi hóa [goá] chồng cứ thậm thụt ăn nằm với cậu hoài”:

Sau hai hiệp mây giăng mù mịt mưa rớtdầm dề, cô Bảy Cẩm Thạch vụt cảm thấy bào xào xao xuyến với một cảm giác khóhiều. Cô vụt chổi dậy mặc quần áo và bảo tình nhơn:

- Không hiểu tại sao em hồi họp quá,chắc ở tiệm có chuyện gì xảy ra. Thôi để em về. Tối nếu anh rảnh, tới tìm em.

Cậu Hai Luyện vẫn nằm dài thây trênchiếc divan cẩm lai. Cậu thấm mệt vì hai keo ân ái nên chỉ muốn nằm một mình ởđây đánh một giấc trưa, không có con đờn bà nào lằng nhằng vương vấn bên cạnhcậu. Cậu liền nói đẩy đưa:

- Ừ, nếu em cảm thấy bất an thì cứ về.

Mí mặt cậu nặng chĩu. Con lười biếngbạc nhược làm thể xác cậu mềm nhũn. Cô Bảy Cẩm Thạch liếc qua cậu, kín đáo trềmôi nguýt háy rồi mở bóp lấy hộp phấn hồng tô lên má, lấy thỏi son thoa cặpmôi. Khi cô trang điểm xong thì cậu Hai Luyện đã ngáy lảnh lót. Xời ơi, đờn ônggì mà... thiếu tế nhị. Nó chơi mình xong là lăn kình ra ngủ, không biết ve vuốtmình, không biết ngọt bùi gì ráo! Nó coi mình như con điếm, một món đồ chơikhông bằng. Chiều nay mà nó xách đít tới tiệm may, tui sẽ đạp đít nó đuổi racửa rồi hốt gạo muối vãi vô nó như đuổi phong long, đuổi tà.

Cô Bảy Cẩm Thạch vùng vằng mở cửa bướcra ngoài, cuộc bộ một khúc đường mới tìm được xe lôi để về nhà.

Trong tổ quỉ, cậu Hai luyện chìm tronggiấc ngủ nặng như chì. Tay chơn cậu như đóng đinh vào mặt gỗ. ngực cậu nặngchĩu nhưng cận vẫn ý thức được cậu đang bị mộc đè, chỉ cần có người khua độngbên tai là cậu sẽ ra khỏi cơn nửa mê nửa tỉnh đó. Bồng một khuôn mặt đờn bà giànua xấu xí nhăn nheo gớm ghiếc áp gần mặt cậu. Mụ hét:

- Quân dâm dục dắt gái về đây xỏ lỗlàm dơ nhớp thân tao. Tao sẽ vả cho mày trẹo quai hàm.

Cậu Hai Luyện hét lên và tỉnh dậy,nghe đau buốt cả hàm. Cậu bước lại kiếng soi mặt thì thấy một bên cằm mình sưngvù và đỏ ửng, nhưng may miệng cậu không méo và quai hòm không trẹo”.

Cô nhân tình Bảy Cẩm Thạch cũng mơ bị bà …hành cho mà phát bịnh:

“Trong chiêm bao em thấy một mụ giàcùng hung cực ác đến hăm he em rằng: “Mầy và thằng quỉ dâm cục kia dám lên thântao bày chuyện gió trăng, tao sẽ hành cho mầy bị huyết trắng hoặc sa tử cungcho đã tức”. Khi tỉnh dậy, em ớn lạnh khắp mình mẩy, sẵn cảm gió say nắng, emphát bịnh rồi anh ạ”.

Hoangdâm, cho nên Cậu Hai Luyện không ngừng ở đó,”Giao hoan với hạng gái dễ dãinhư cô Bảy Cẩm Thạch làm sao cậu hào hứng cho được! Cậu lại nghĩ tới thím BảyBảnh. Ái ân với đàn bà có chồng bất hạnh kia, điêu đó làm cậu như được dấn thânvào cuộc phiêu lưu mạo hiểm đầy thú vị. Do đó mà thằng Yêm cứ phải làm môi giớiđưa thím Bảy Bảnh lên tổ quỉ của cậu ở cầu Kinh Cụt. Nhưng nếu cậu Hai tạm hàilòng vui thú với vợ người ở tổ quỉ thì tai họa đâu tới nỗi giáng xuống đầu cậunhư một cú sét. Một hôm cậu ngỏ ý với thím Bảy Bảnh:

- Tuiăn nằm với mình ở đây tuy có sướng thiệt, nhưng tui vẫn ao ước ân ái với mìnhtại nhà mình kìa!

ThímBảy Bảnh ngạc nhiên:

- Saolạ vậy? Đường bằng phẳng mà mình không chịu đi, lại chọn đường đầy dẫy chônggai hầm hố làm chi không biết!

CậuHai Luyện cười trơ trẽn:

- Tánhtui kỳ lạ lắm! Hễ gặp chuyện dễ ột tui không nhớ dai. Phải giặp chuyện khó khăn,đòi hỏi lao tâm tổn trí, phải đem mưu mẹo ra đối phó thì tui mới nhớ đời đời.Mình có thiệt bụng yêu thương tui thì nên dàn xếp các nào để tui được hú hí vớimình trên cái giường của mình thì tui mới có hứng”.

Phảingoại tình trên giường ngũ của vợ chồng người ta thì mới hứng thú... bất kểngười đàn bà sau đó bị tai tiếng đủ điều...

Hồ Trường An là một ngườiđồng tính (ông dùng chữ “dị tính luyến ái”) và không che giấu giới tính củamình. Năm 1983, ông cho đăng truỵện dài Hợp Lưu trên tạp chí Văn (nhàVăn Nghệ xuất bản năm 1987) viết về khuynh hướng đồng tính luyến ái của ông.Ông cho biết: “tôi tung ra quyển Hợp Lưu trong đó có nhân vật gay tênQuế phản ảnh đôi chút tâm trạng của tôi. Trước tôi vào năm 1967, bạn tôi tên ÐỗQuế Lâm có viết tiểu thuyết tự truyện có tựa là “Vết Hằn Rướm Máu” do chính chịThụy Vũ tôi viết lời tựa. Sau đó ở hải ngoại vào năm 1979 thằng bạn khác củatôi tên Lucien Trọng, một kỹ sư thủy lâm có viết quyển “L’Enfer Rouge, MonAmour” do Seuil xuất bản. Sau đó nó dịch ra “Hỏa Ngục Ðỏ, Mối Tình Tôi” kể lạimối tình của nó với một chàng trai bụi đời tên Hải trong thời gian hai đứa bịCộng Sản giam cầm. Ðúng như cô Vân nghĩ, hình như những cây bút gay như Ðỗ QuếLâm và Lucien Trọng không dám diễn tả huỵch tẹt như Hồ Trường An, không mô tảcuộc làm tình tỉ mỉ và tới nơi tới chốn như Hồ Trường An. Tôi diễn tả chuyệngiao hợp giữa cậu trai Việt và anh chàng gay quý tộc Pháp khá táo bạo và kháđậm đà...” Chính nữ ca sĩ Quỳnh Giao thuở thập niên 1980 bảo rằng đây là quyểnsách mà Quỳnh Giao thích. Song song cũng có nhiều độc giả chửi tôi khá nặng. Họgọi điện thoại xài xể anh Mai Thảo vốn là người chủ trương tờ tập san vănchương Văn tại sao có thể đăng từng kỳ những chương sách dơ dáy nhớp nhúa củaquyển Hợp Lưu?” (HTA. “Giới Tính Trong Văn Chương Nghệ Thuật”).

Hồ Trường An đặc biệt quan tâm và đề cao sắcđẹp. Các nhân vật nữ đa số danh tính mỹ miều, diễm lệ và thân dáng “sắc nướchương trời”; các nhân vật nam tiêu biểu thường được ông trau chuốt mình vóckhông cường tráng thì cũng hấp dẫn chất người. Trong một phỏng vấn, ông chobiết: “Tôi dệt ra những cảnh giao hợp bỏng cháy, tôi nhập vai vào các nữnhân vật, còn nam nhân vật tuy có tên Việt như Cảnh, Hạo Minh, Tường Ngọc, HuyChâu v.v…, nhưng tôi mường tượng qua các chàng kép có thân vóc cường tráng mỹlệ. Bao giờ cũng vậy, khi viết tiểu thuyết không bao giờ tôi dám giết nhữngnhân vật đẹp trai dù các đương sự cùng hung cực ác đi nữa. Tôi chỉ dám giếtnhững nhân vật già nua từ 80 tuổi trở lên (cho họ chết vì già yếu chớ không dámcho họ chết vì bịnh hoạn). Lại nữa, các nhân vật đẹp trai được tôi xe duyên chỉthắm với những nữ nhân vật nếu không kiều diễm thì cũng duyên dáng mặn mòi. Nếucác cô lỡ có chửa với người chồng bô trai ngó hoài…vẫn thích ngó của họ, thì ởchương áp chót của quyển tiểu thuyết, tôi cho họ xổ bầu đập chum để họ có cáieo thon đẹp, để họ diện áo đẹp đi rước đèn, đi bát phố cùng chồng. Còn nam nhânvật đẹp trai nếu rủi bị bịnh ung thư hay bị bịnh AIDS thì nếu không nhờ thuốcmen hiệu nghiệm thì cũng được Đức Thánh Đồng Trinh Maria của thành phố Lourdeshay Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ dùng phép lạ mà giúp họ lành mạnh” (https://damau.org/974/nha-van-ho-truong-an-song-theo-cai-duc)

Nếu nhìn kỹ, toàn bộ tác phẩm của Hồ Trường An có thể nóicó nhiều phần cái thế giới của cái giống thứ hai (deuxième sexe), có nữtính, ẻo lả, màu hồng; ở những không khí, tâm lý dịu dàng hoặc sôi xục ở bêntrong, ở cái hồn nhiên, thật thà dễ tin người, ở những đam mê đắm đuối khôngthể thắng, ngừng, ở những món ăn, cách ăn cách mặc, ở y phục, ở những dángđiệu, bộ tướng, bộ đi, ở cái không khí đào hát, cải lương, đời như kịch tính, ởcách đặt tên nhân vật, v.v. Tóm, của màu mè, của mùi và lẳng! Khi tả nhữngtiếng hát, có thể “quỉ khốc thần sầu”, có thể vô danh, Hồ Trường An tỏ ra khôngkhác gì một bác sĩ chuyên viên chăm sóc dây gân hay thanh đới, thanh âm củangười ca sĩ! Nếu truyện và thơ Trân Sa toát một “nam-tính” thì toàn thể tácphẩm của Hồ Trường An mang một “nữ-tính” rõ rệt, bao trùm – ít ra là một khônggian lạ lẫm, hấp dẫn người đọc vốn quen thứ văn chương cổ điển, nhà trường, nhẹnhàng!

Hồ Trường An có thể viếtnhanh và ít khi xem lại như ông từng cho biết, nên trong một vài tiểu thuyết đãsai thời gian tính, như khi để một bà già đầu thập niên 1950 lý luận ăn nói nhưsau 1970. Cả về y phục, kiểu cách, ... vì chi tiết, mỹ hóa, kỹ xảo quá có thểkhiến người đọc đâm nghi ngờ đọc tiểu thuyết hơn là chuyện phong tục miệt vườn!Dĩ nhiên, đã là truyện, là tiểu thuyết... và với ngọn bút của ông thì phải hiểuđây là “thế giới văn chương” của Hồ Trường An – kể cả khi ông phóng tác Chiếc Quạt TônNữ (2002) theo cốt chuyện phim The Fan /Chiếc quạt, chuyện của phu nhân Windermere. Nhưng cũng nhờ trí nhớ tốt,trong cả chi tiết, do đó không lạ khi ông là người thành công nhất ở hải ngoại viết về cuộc đời sự nghiệp các danh ca,đào cải lương, tài tử phim ảnh, hoặc giới văn nghệ sĩ, báo chí, v.v. với CõiKý Ức Trăng Xanh, Chân Trời Lam Ngọc, Giai Thoại Hồng, Theo Chân Những TiếngHát , ...! Và rõ rệt là ông chịu ảnh hưởng truyện bình dân Tàu như Phấn-TrangLầu, ... và truyện “nghĩa hiệp”, “ái tình tiểu thuyết” như của Hồ BiểuChánh, Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Phú Đức, ... Cả một truyền thừa nhiều biền ngẫu, nhạc tính! Dĩ nhiên Hồ TrườngAn cũng không thể tránh đưa chuyện tu hành và giáo lý, tư tưởng nhà Phật vàotruyện và tiểu thuyết của ông, như trong tập truyện Đêm Xanh Huyền Hoặc.