Nguyễn Văn Sâm
Thế kỷ 19 có một sự cộng tác đặc biệt của một số người ở Chợ Lớn và các nhà khắc ván ở vùng Phật Trấn (Quảng Đông, Trung Quốc) để thực hiện việc in và phát hành sâu rộng những tác phẩm Việt Nam viết bằng chữ Nôm. Số tác phẩm này nhiều và quan trọng vì thời gian hoạt động của nhà khắc ván, nhà phát hành nói trên gần như kéo dài cả trăm năm. Nếu có thể làm một việc kiểm kê những tác phẩm ở trong trường hợp nầy còn sót lại cho đến ngày nay biết đâu chừng ta sẽ ngạc nhiên mà thấy rằng đó là một gia tài văn hóa quý báu của người Việt. Quý giá nhưng từ lâu chìm trong lãng quên vì không biết hay chưa biết hết, chỉ thấy được những gì còn sót lại và phỏng đoán mà thôi. Lý do cũng dễ hiểu, vì thời gian binh lửa kéo dài, vì người cựu học trong Nam không nhiều, vì các tờ báo Nam Phong, Đông Dương, Tri Tân được thiết lập ở Bắc cho nên việc nghiên cứu của những cơ quan nầy bị giới hạn nhiều, vì các hội Trí Tri, Nghiên Cứu Đông Dương, Đô Thành Hiếu Cổ đều có trụ sở ở miền ngoài. Lý do gì đi nữa thì các tác phẩm đó gần như mai một và chúng ta biết thật ít về chúng. Nhiều trường hợp nghe tên tác phẩm mà rất ít trường hợp thấy chính ngay tác phẩm, nghĩa là chính bản Nôm còn xót lại, ít nhứt là bản chánh nằm trong thư viện lớn nào đó và ta chỉ được tiếp xúc với bản sao của cơ quan nầy mà thôi.
Tôi gần đây có cơ may thấy được một vài do nguồn tài liệu ở Pháp và được Giáo Sư Nguyễn Khắc Kham cho sao lại vài quyển trong tủ sách riêng của Thầy cũng như may mắn thủ đắc được một vài quyển chưa bao giờ được công bố nên thấy mình có bổn phận nên giới thiệu với học giới những gì tôi có thể làm được.
Thường thì tác phẩm cần được phiên âm cẩn thận trước khi suy nghĩ về những vấn đề đặt ra trong đó. Sự phiên âm rất cần thiết vì sẽ có dịp đem tác phẩm tới mắt đa số quần chúng Việt Nam hay học giới nghiên cứu Việt Nam mà có thể đọc được quốc ngữ. Trong khi phiên âm phiên giả học được nhiều điều bổ ích liên quan đến chữ Nôm và tiếng Việt. Phiên cũng là cách đọc thật kỹ tác phẩm, cân nhắc từng chữ dùng của người xưa, gặp chữ lạ lại tự hỏi để tìm tòi về nghĩa do đó sự phiên âm của chúng tôi cũng là sự học hỏi cần thiết về những vấn đề liên quan đến quốc văn. Sự đọc sai, có thể có, tuy rằng chúng tôi đã cố gắng đến tối đa. Sai vì sức học chưa tới, nghiên cứu chưa đủ, nhưng nghĩ rằng ai cũng có thể sai, tôi mạnh dạn tiến vào công cuộc nhàm chán này. Sự phiên âm tạo nên tranh biện với những nhà Nôm học hay ngữ học càng có nhiều khả năng hơn. Chuyện đó phải xảy ra thôi, nhưng khi phiên âm tôi đã cân nhắc thật kỹ mỗi khi đưa ra chữ mình phiên âm, không bao giờ để sự cẩu thả, qua mắt người hay sự cầu kỳ thúc đẩy. Mong phần lớn chữ mình phiên ân được công nhận và những tranh biện chỉ thực sự xảy ra vì chân lý cần được làm sáng tỏ đối với những chữ quá mắc mà thôi.
Tuồng Kim Long Xích Phụng và những gì sẽ được phiên âm sau nầy được thực hiện trong tinh thần đó.
Theo chỗ chúng tôi đoán định, đây là một tuồng như kiểu tuồng San Hậu, nghĩa là không dựa trên truyện Tàu mà do người đặt tuồng mô phỏng chỗ nầy một chút, chỗ kia một chút để viết nên.
Tuồng gồm ba hồi, mỗi hồi có nhiều lớp – hay phân hồi – không nhứt thiết phải là một cảnh. Bản Nôm không chia hồi cảnh, tôi tạm chia để người đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện.
- Thời thái bình, Tống Minh Quân Lãnh San du ngoạn,
- Gặp Minh Châu, phải lòng, phong Thứ Hậu.
- Minh Châu lên đường vào cung.
- Nhận búa thần, Châu Võ Sĩ chờ thời giúp nước.
- Thứ Hậu mộng thấy hoài thai Kim Long, Xích Phụng.
- Ôm đố kỵ, Chánh Cung bày mưu độc.
- Chốn Bàn Khê, Bửu Lâm Sanh cùng Thị Lang kết bạn.
- Câu sông Vị, Thọ Lão Ông vớt hai cháu Kim Long Xích Phụng.
- Thứ Hậu nguyền cùng hoa cỏ và bầu vú sữa.
- Tiên Ông hạ trần truyền văn võ cho Hoàng Tử.
Hồi Một: Thâm Cung Bí Sử (1–10)
- Kim Long lên đường tìm sư học đạo.
- Chốn núi rừng, Võ Sĩ, Lâm Sanh kết nghĩa.
- Minh Quân chứng kiến điềm bế nhị tu hoa.
- Thành nhơn chi mỹ, Kim Long Xích Phụng tìm cha mẹ.
- Trình áo thơ, Kim Long Xích Phụng gặp người thân
- Kim Long Xích Phụng trùng phùng cha mẹ.
- Thọ Lão Ông vui thú điền viên.
- Mộng cướp ngôi, Lân Hầu thông đồng cùng Phiên quốc.
Hồi Hai: Long Phụng Thành Nhơn (11–18)
- Thọ Lão Ông vui cảnh đoàn viên.
- Nối kết với Lân Hầu, Phiên quân khuấy loạn biên thùy.
- Nơi biên địa Ngự Đệ bị Phiên binh vây khổn.
- Chốn ải đầu, Lâm Sanh cứu Tử Hoàng.
- Minh quân thăng hà, Kỳ Hương phò Thứ Hậu đào sanh.
- Chốn ải đầu, Lâm Sanh cứu Tử Hoàng.
- Nơi biên thùy, Châu Võ Sĩ phò nguy Ngự Đệ.
- Tất cả đoàn viên, phất cờ dựng nghiệp.
- Phe Tử Hoàng đại định, nhóm Lân Hầu tiêu vong.
- Châu Võ Sĩ lên đường trấn nhậm ải xa.
Hồi Ba: Chánh Biến và Binh Biến (19–28)
Ta thấy hai hồi 1 và 2 là nói chuyện về Kim Long Xích Phượng, từ lúc người mẹ trẻ của chúng vào cung tới lúc hạ sanh hai trẻ... qua nhiều biến động như bị thả trôi sông, may mắn đươc ông ngoại vớt lên nuôi nấng, cho đi học tới khi thành tài mới cho về kinh thành tìm nguồn cộti mình và được người trong thân tộc nhìn nhận đó là Hoàng Tử và Công chúa... Nghĩa là đoàn tụ.
Hồi 2 kết thúc, cũng là kết thúc cuộc lưu lạc của Kim Long và Xích Phượng.
Nhưng tác giả không dừng tác phẩm mình ở đó mà viết thêm Hồi 3, tức là chính biến cùng binh biến trong triều đình: Vua thăng hà, Lân Hầu cướp ngôi. Thứ Hậu và hai con chạy loạn... Được các nghĩa sĩ ủng hộ, đoàn quân xoán ngôi, sau khi Phiên bang, nước mà Lân Hầu liên kết để củng cố thực lực bị đánh bại tan tác và tan rã và phe Tử Hoàng lên ngôi đại định.
Vậy tuồng Kim Long Xích Phượng như là gồm hai phần rõ rệt, do tác giả không thể nào bỏ qua cái xấu của Chánh Hậu nên viết thêm phần hai có những thất bại của người anh của Chánh Hậu kẻ chánh trong cuộc nịnh xáng (nịnh xoán ngôi).
Như là muốn đưa ra cho khán giả bài học ở đời về luật nhơn quả:
- Người ngay mắc nạn rồi tai nạn cũng qua.
- Kẻ xấu có thể thắng thế nhứt thời cuối cùng cũng tiêu vong.
Văn chương của xứ biên địa Nam Kỳ Lục Tỉnh gồm đủ mọi thề loại như Truyện thơ, thơ tuồng, tuồng hát bội, bài ca tài tử, tuồng cải lương, kịch đều đi theo hướng trên. Điều nầy đã un đúc nên tâm hồn bình dị và nhơn nghĩa của người dân ở đây... cho tới năm 1975!
⁂
Về kỹ thuật thì tuồng nầy văn chương suôn sẻ, dễ hiều. Đối xứng đều đúng luật. Một vài từ xưa như ốt (chắc), già (chết), no nao (chừng nào, bao giờ) và vài cách nói xưa của ngôn từ thế kỷ 19 chúng tôi đã giải thích ở phần chú giải. Bạn đọc có thể hiểu rõ hơn bản văn khi đọc chậm chậm để thưởng thức một kịch bản giá trị của người xưa mà chúng tôi may mắn lắm mới có đươc bản Nôm để phiên âm...
Nguyễn Văn Sâm, khởi thảo TX 1995, viết lại, CA, 2024
TUỒNG KIM LONG XÍCH PHƯỢNG
⁂
Hồi 1: THÂM CUNG BÍ SỬ
(lớp 1-10)
──────
1. Thời thái bình, Tống Minh Quân lãnh sơn du ngoạn.
[Thị Lang[1]]: (KL–1)
Rồng chầu Càn ngũ, phượng ứng Ly tam.
Trên ra nhơn vững đặt tám phương, dưới tắm đức gội nhuần trăm họ.
Giúp Tống trào minh chúa[2], quyền Binh Bộ Thị Lang.
Trong trào chánh sự kỷ cang, ngoài lê thứ ngợi danh trung nghĩa.
Lại nói:
Tưởng nghiệp chúa ngày ngày hằng áy-náy, lo Tống trào bữa bữa luống xốn xang.
Cớ chi trên muộn trổ cành vàng, khiến nỗi dưới chẳng an gối ngọc.
Nay tuy đã vững cầm chín vạc, sau không ai nối nghiệp ba giềng.
E khôn thấu lẽ máy thiêng, khó nỗi tường trong ý nhiệm.
Một mình khó biện, hai lẽ khôn toan.
Chỉnh mạo nhập cung loan, đặng ứng hầu phượng các.
Vương:
Thay đời trị nước, hiệu Tống Minh Quân.
Ngoài đặt vững giạu[3] thân, trong lại an gối bính.
Nhơn khi võ tạnh, vừa thuở phong hòa.
Nghe Côn Cương vẻ lạ trăm hoa, nơi Trang Lãnh thú mầu tám tiết.
Binh Bộ!
Truyền Binh Bộ chỉnh tu phủ việt[4], quản tinh binh hộ giá (KL–2) thừa lương.
Ngự Đệ giữ đền vàng, bá quan lui phủ tía.
Thị Lang:
Truyền đội ngũ chỉnh tu nhuệ khí, rao tam quân kiểm điểm mã yên.
Đặng hộ giá thánh hoàng, tựu Côn Sơn nhàn lạc.
Vương:
Hảo a!
Trải dặm cù, qua đỉnh hạc, dương tán phụng, dẩy xe loan.
Tôi chúa hiệp một đoàn, chỉ Lãnh Trang ngàn dặm.
Hát nam:
Trực chỉ Lãnh Trang ngàn dặm,
Mây ken trời dệt gấm màu tươi.
Trăm hoa hớn-hở đua cười,
Thông reo lạc ngựa đá ngồi hình nghê.
Tán:
Nhựt nguyệt phong vân cựu, giang sơn vũ trụ tân.
Dã điểu khinh phiêu vũ, kỳ hoa khí vị xuân.[5]
Hát nam:
Đòi nơi[6] vẻ lạ phong quang,
Địch ve cầm trổi sánh hàng Tiêu Tương.
Thị Lang:
Lửa ô ngời chói-lọi đông phương, hơi nắng hạ nồng-nà[7] hướng Chấn.
Xin thánh hoàng ngự tiến, đặng thần hạ giục yên.
Tới Trang Lãnh nghỉ chơn, sẽ kiếm nơi tạm trú. (KL–2b)
──────
2. Gặp Minh Châu, phải lòng, phong Thứ Hậu.
Thọ Lão:
Bạch Lãnh Sơn quê ngụ, chữ đặt Thọ Lão ông.
Vợ đà sớm vắng chín sông, lão hỡi còn nương một gậy.
Mất ba thảo thiệt sanh phận gái, lỗi mười ơn chẳng đặng chút trai.
Tư dung hình liễu xương mai, nhan sắc mắt sao da tuyết.
Tuổi ba sáu[8] còn gài cửa nguyệt, duyên mười hai chưa bén hương trời.
Tủi phận già tóc hạc điểm da mồi, cảm tình trẻ chơn le hằng lẫy-đẫy[9].
Minh Châu:
Ơn cha mẹ ơn tày phú tái, nghĩa làm con nghĩa báo sanh thành.
Con gian nan con hỡi tuổi xanh, cha lận đận cha đà đầu bạc.
Để mặc trẻ sớm nhấm rau chiều mớ ốc[10], vui mình già dạo non thánh tắm ao tiên.
Cũng có ngày thương hải biến tang điền, cũng có thuở tang điền vi thương hải.
Thọ Lão:
Con trẻ lời phân giải, già lớn đặng xét suy.
Khóc măng nằm giá trước khác chi, trộm quít ôm mồ nay mới hản.
Sấu địa khai hoa (KL–3a) vãn, bần cùng phát phước trì.
Con đành lòng hái trái dưng lê, cha toại chí non thông đỉnh quế.
Quân nhơn:
Lão phu mau tiếp lễ, ra mừng lịnh Minh Quân.
Nhơn dạo chơi vừa thuở nắng nung, nên vào ẩn tạm cơn gió mát.
Thọ Lão:
Đình tiền phủ phục, đường hạ khấu đầu.
Thánh hoàng tựu giải lao, ngu phu cam thất lễ.
Vương:
Xem lão phu niên kỷ, chừng tác đã tòng tâm.
Như hà thê tử đắc lưỡng thâm, thử ý gia tề giai tứ cố?
Thọ Lão:
Tạn mặt rồng dám tỏ, chút lòng kiến xin bày.
Chẳn mười thu vợ đã chơi mây, dư sáu kỷ con hằng chải gió[11].
Hôm mai nơi lều cỏ, cui-cút chốn cửa gai.
Tên Minh Châu tác dưới đôi mươi, phận nhi nữ tuổi vừa ba sáu.
Tháng ngày nương náu, khuya sớm cút-cui[12].
Ngu phu dám cạn lời, tâu nhơn quân tỏ dạ.
Vương:
Sách có chữ vô nam dụng nữ, (KL–3b)[13] thế lời rằng gái cũng như trai.
Miễn cho vẹn vẽ sắc tài, thời cũng đặng hưởng nhờ quyền quý.
Thị Lang:
Lão trượng sao lẫn ý, già lớn đã khuất tình.
Lời lão tâu sao hỡi giấu hình, ẩn mặt trẻ chẳng cho ra mắt.
Thọ Lão:
Thượng quan đừng quở phạt, để mặc lão liệu toan.
Lại nói:
Con!
Cha lách mình tới trước hàng loan, con nối gót cho gần mắt phượng.
Lại nói:
Thú quê tôi thường dụng, non núi bữa hằng quen.
Dưng ba dĩa khoai lang cùng một be[14] trà cúc.
Miễn chấp già bất pháp, vật tương kiến Tống trào.
Đỡ cơn tướng hổ vi lao, ngõ thuở mình rồng giải khát.
Minh Châu:
Dưới thềm rêu bồ-bặc[15], bên giá ngự làn-đan[16].
Cúi trông đức chí tôn, đoái phận hèn nhi nữ.
Vương:
Xưa thánh đạt kim sanh Lệ Thủy, nay hản tường ngọc xuất Côn Sơn.
Mắt sao mày nguyệt vẻ rỡ-ràng, (KL–4a) má phấn môi son giồi đẹp-đẽ.
Có chữ lương duyên do túc đế, định Minh Châu Thứ Hậu quyền phong.
Truyền bá quan phản mã hồi cung, kỳ tam nhựt loan xa nghinh giá.
Thọ Lão, Minh Châu:
Xét phận thú quê sơn dã, lạm nhờ trướng phụng màn loan.
Muôn trông đức Thánh hoàng, y kỳ lai tiếp giá.
Thị Lang:
Lịnh truyền võ bá, kiểm điểm mã yên.
Hộ giá lại kim chương, dẩy xe hồi công phủ.
──────
3. Minh Châu lên đường vào cung.
Thọ Lão:
Chữ cấu ác ác ngộ, câu tích thiện thiện hoàn,[17]
Sách đặt hẵn nhằm, thế rằng vốn quả.
Lại nói:
Ấu nhi đừng chạnh dạ, mà lão phụ động lòng.
Dựa hơi rồng rạng tiết tông môn, kề gối phụng thơm danh lão phụ.
Minh Châu:
Tủi là tủi chia lìa một thuở, lo là lo hiu-quạnh ngàn ngày.
Nay ấu nhi an phận xanh mày, thương lão phụ thân đơn bạc tóc.
Khuya sớm lấy ai săn sóc, hôm mai không (KL–4b) kẻ dưỡng nuôi.
Hổ cùng vật cùng người, ẻ[18] khôn lui khôn tới.
Thọ Lão:
Con trẻ chưa túc lý, cha già lọ chánh kinh.
Tam cương chép sử xanh, tứ đức ghi thẻ bạc.
Trai giữ quân thần làm trước, cương phụ tử ấy sau.
Gái thời cương phu phụ làm đầu, câu hiếu phụ cũng không đặng trước.
Con còn biết một, cha rõ đặng mười.
Miễn cho con dựa bén hương trời, mựa lo lão ngồi kề mặt đất.
Khá điểm trang nhan sắc, mau y phục sửa sang.
Đã tới ngày minh đế nghinh hôn, chử lời hẹn lão lo tiếp giá.
Quân báo:
Dám trình nơi đường hạ, có sứ tựu nghinh hôn.
Tin gia lão đặng tường, còn dừng nơi môn ngoại.
Lão Thọ:
Nghe tin truyền hơ-hãi, miễn chấp lão khiên trì.
Xin thỉnh tựu an nghi, sẽ bày lời tiếp giá.
Sứ thần:
Nay thánh hoàng sắc hạ, rước phụ tử hồi trào.
Sẽ ân tứ gia phong, đặng (KL–5a) hưởng nhờ lộc nước.
Dầu gia lão chẳng an quyền tước, lãnh kim ngân trăm nén vàng ròng.
Ngõ đền nghĩa vun trồng, phỉ đáp tình dưỡng lão.
Thọ Lão:
Sứ thần có hồi trào dự cáo, rằng lão phu lạm bái hoàng ân.
Như sắc phong thời lão xin dưng, còn vàng bạc thời già xin lãnh.
Ơn trên lượng thánh, vạn vọng chí tôn.
Biển dầu cạn non dầu mòn, nghĩa dễ phai tình dễ lạt.
Sứ thần:
Rợp che tán phụng, áp bố hàng loan.
Hiệp vầy tôi chúa một đoàn, ngõ đặng hồi trào yết thánh.
Minh Châu:
Ơn cúc dục ghi lòng khắn-khắn, nghĩa sanh thành tạc dạ khăng-khăng.
Một lạy cha ở lại lãnh trang, cho con trẻ ngàn trùng kinh địa.
Hát nam:
Con trẻ ngàn trùng kinh địa,
Cúi đầu từ giọt lệ tuôn rơi.
Riêng than phận gái mười hai,
Mất trong ba thảo lỗi ngoài mười ơn.
Cho hay là nỗi cơ doan,
Vinh hoa phận trẻ, 5b tân toan thân già.
Côn cương bặt dấu dặm hoa,
Xa xa lố thấy chương tòa trung đô.
──────
4. Nhận búa thần, Châu Võ Sĩ chờ thời giúp nước.
Châu Võ Sĩ:
Non Hoa Nhạc nhàn cư, mỗ tánh Châu Võ Sĩ.
Hai thân đã sớm dời đỉnh Dĩ[19], một mình còn ở chốn thảo lư.
Như tôi:
Võ chờ thời nhảy ngựa cướp cờ, văn đợi thuở bảng rồng giựt thẻ.
Vậy mới dần-dà nơi nước trí, khiến nên thơ-thẩn chốn non nhơn.
Sớm Cam La sớm đặng cũng thơm, muộn Khương Tử muộn thời cũng tốt.
Dun cơn gió mát, vừa thuở tuyết êm.
Tùy thân đao giắt cung mang, bạt bộ truy cầm bổ thú.
Hát khách:
Hoành hành bạt bộ đáo Hoa Sơn,
Điểu thú nan đào nhứt tiển xoang.
Bách phát thần cung hề vị ngộ,
Hà thời như ý đắc phương danh[20]?
Lại nói:
Kỳ ta!
Hốt kiến vị tường, dị sự thạch thần đương lộ.
Điểu tích dầu trở đáng, dương trường mỗ tìm đường.
Điều vô cớ vô can, theo mà ngăn mà đón.
Loài (KL–6a) yêu ma làm hổn, người chánh trực sao không kiêng?
Ấy nói thiệt:
Như lánh ta thời đó đặng tuyền, bằng đón mỗ thời ngươi lâm hại.
Đã cạn lời phân giải, cứ quyết dạ trở đương mà thôi!
Triển thần lực phấn dương, đả thạch thần mạn ý.
Lại nói:
Hốt quan thử lý, kỳ sự dị nhiên.
Kim phủ hiện nhãn tiền, thạch thần vô hình tại.
Vọng không bách bái, cảm đức tôn linh.
Khất miễn tội tiểu sinh, phàm tục cam thất lễ.
Lại nói:
Chẳng qua thiên ý, khiến nỗi nhơn quy.
Khoái khoái dã kỳ thì, hoan hoan tai thử ý.
Trước sau xem thấy, trong có chữ đề.
Thần phủ khiếu chí thời, ngộ quân thần hội khế.[21]
Hiệp nhiên ngô ý, hão dã ngã tâm.
Cấp bản phủ khinh khinh, chỉ Hoa Sơn bộ bộ.
Hát khách:
Bộ bộ hoành hành nhạn dược phi,
Mang mang trực vọng thố đề qui.
Trung thần trí mệnh tâm nan cách,
Kiệt lực sự quân chí bất di.
──────
5. Thứ Hậu mộng thấy hoài thai Kim Long, Xích Phụng.
Minh Châu: (KL–6b)
Từ chân noi ngàn dặm kinh kỳ, kể đã chẳn ba trăng đài các.
Sợ nỗi cành thông lêu[22] trái bạc, lo vì cây ngọc muộn bông vàng.
Trời đã trổ minh hoàng, đất không roi ấu chúa.
Luận nghị làm chi nữa, thiên cơ ốt[23] chẳng cùng.
Âu trở lại hoa phòng, đặng nghỉ an giấc điệp.
(Chiêm bao thấy long phụng....)
Lại nói:
Tỉnh giấc hoè mờ-mệt, định phách quế mơ-màng,
Nhơn tam canh mộng ứng dị tường, thấy lưỡng vật châu thân mãn hãn.
Phải vào tâu đại lượng, cho hản lẽ kiết hung.
Thể nữ con kíp nổi đăng lung[24], đặng bà tới cung trung mật nghị.
Vương:
Thay Tống triều nghiệp trị, nối Minh vận giang san.
Giữ giềng trời đặt vững âu vàng, cầm mối nước vỗ an con đỏ.
Lo nỗi gót lân muộn trổ, hiềm vì đuôi phụng vắng sanh.
Nên thốn-thức năm canh, mảng lo âu một sự.
Minh Châu:
Cúi tâu trước ngự, ngữa dộng bên ngai.
Thuở tam canh tỉnh giấc kim giai 7a, thấy lưỡng vật ứng điềm dị sự.
Long phi phụng vũ, vân tế phong xuy.
Bèn thấu nhập thể y, phút châu thân mãn hãn.
Lời phàm dám tạn, lượng thánh nghiệm tường.
Trong hung cát hai đường, một tấm lòng lo sợ.
Vương:
Thiệt vầy quốc gia miên tộ, ắt là đặng lẽ trinh tường.
Đòi lương y điều trị lương phương, bổ chi thể kẻo lòng lo sợ.
Thứ Hậu đừng khủng cụ, mà hao tổn tinh thần.
Khá vào chốn gác lân, đặng dưỡng an vóc ngọc.
Lại nói:
Hoạn quan mau nhặt xúc, đòi Binh Bộ Thị Lang.
Vào ứng hậu kim chương, đặng giảng đàm tư ý.
Thị Lang:
Trên đòi vào mật nghị, dưới tôi tựu trướng hoa.
Giữa trời nam chúa sánh sơn hà, tung hô vọng thánh hoàng vạn tuế, vạn vạn tuế...
Vương:
Mời lão quan an vị, đặng trẫm sẽ trần tình.
Nhơn đêm nay vừa thuở tam canh, Thứ Hậu thấy ứng điềm lưỡng vật.
Long phi phụng vũ (KL–7b), vân tế phong xuy,
Bèn đột nhập thể y, phút châu thân mãn hãn.
Ngươi tua chiết đoán, đặng trẫm chiểu tường.
Cho biết mộng giả chơn, cho biết điềm tà chánh.
Thị Lang:
Trông trên lượng thánh, xét dưới lời phàm.
Thiệt triệu ứng Tống bang, điềm kết thai Thứ Hậu.
Long phi phụng đảo, nhứt nữ nhứt nam,
Quả điềm hiện kiết tường, định quốc gia đại lợi.
Như phong xuy vu ngoại, cùng võ tế ư trung.
E thửa ngọc ô trần, vì đúng trong vân vụ.
Rồi đột nhập thể y ám hộ, khác nào như nguyệt chiếu phúc bồn.
Cứ kinh Dịch mà bàn, nội phát ứng tà thừa tại ngoại.
Hào động song chẳng ngại, vì hãn xuất châu thân.
Cư trần bất nhiễm trần, hữu biến nhi vô biến.[25]
Vương:
Như vậy vững bền bốn biển, càng thêm thạnh trị chín châu.
Hẵn điềm trời trổ đặng hai sao, thiệt tôi chúa lâu dài một hội.
Trẫm lui vào cung nội, lão quan lại dinh
──────
6. Ôm đố kỵ, Chánh Cung bày mưu độc.
Xuân Nương: (KL–8a)
Ngôi Chánh Hậu cửu trùng, Trịnh Xuân Nương chữ đặt.
Một anh đã phẩm cao quyền trật, ba em thêm chức trọng trào đình.
Đã phỉ thửa duyên lành, lại thơm danh tông tổ.
Lại nói:
Nghe thánh thượng cùng quan Binh Bộ, dạo Côn Sơn đặng ả Minh Châu.
Điều vô cớ ở đâu, tới thừa-ưa[26] mà gặp.
Mới đem về lớt-lớt, bụng chửa đã lè-lè.
Ấp yêu chẳng kiêng vì, nghén chửa thêm bất pháp.
Gẫm thôi chua chát, tưởng lại đắng cay.
Các con!
Luận một đó một đây, luận ai hơn ai sút?
Thể nữ:
Dám bẩm bà, như người ấy:
Tóc mây dài đuột-đuột, da trắng đỏ au-au.
Con mắt sáng như sao, lông mày cong vòng nguyệt.
Mười ngón tay mủi viết, hai môi đỏ như son.
Gò má tợ đào non, bàn chưn như hoa nở.
Vạn dân thiên hạ, ngoại quận nội trào,
Ai ai cũng phải đầu, một bà tôi không dám.
Xuân Nương:
Lời hãy còn lánh đón, (KL–8b) nói chửa đặng thẳng ngay.
Tao hỏi là hỏi:
Luận một đó một đây, định ai hơn ai sút?
Thể Nữ:
Vị Chánh Cung ngôi trước, quyền Thứ Hậu phẩm sau.
Chánh lớn đặng ngôi cao, Thứ nhỏ sau phải sút.
Quế gừng cũng một, tình tánh cay nồng.
Nếu chiết định cho công, họa đầu tôi bịt sắt!
Xuân Nương:
Xưa ốc ngỡ trong tay kể chắc, ai ngờ nay chưn hỏng thời đã rồi.
Biết mưu chi trẩy nhánh dứt chồi, sau mới đặng ba giềng chín vạc.
Lại nói:
Thể nữ!
Kíp mau đem bút mực, đặng bà tả tờ mây.
Thể nữ con vưng lịnh mựa chầy, bà ký tín giao cho huynh trưởng.
Sự đà liệu lượng, việc ấy đã xong.
Trong thơ khá khán tường, phép làm cho cẩn thận.
Trịnh Lân Hầu:
Khuôn phò Tống vận, mỗ Trịnh Lân Hầu.
Giang san chí dốc góp thâu, xã tắc chờ thời cử thố.
Một em gái Chánh Cung Minh Chúa, ba em trai nha trảo Tống gia. (KL–9a)
Trong tay lo sẵn giềng ba, để dạ dành thâu vạc chín.
Thể nữ:
Chúng tôi người nội viện, thể nữ lịnh Chánh Cung.
Dạy đem bức thơ phong, trình đại quan khai khán.
Sự bà toan liệu, việc ấy đã an.
Xem thơ rõ cơ quan, việc làm cho cẩn thận.
Lân Hầu:
Khán liễu tâm hoan bất tận, quan tường đại tiếu vô cùng.
Cơ mưu quả thâm thâm, kế trung chân diệu diệu.
Con!
Nghe lời ông dặn bảo, can chi đó mà lo.
Cứ lời dạy trong thơ, tới kỳ dùng đã sẵn.
──────
7. Chốn Bàn Khê, Bửu Lâm Sanh cùng Thị Lang kết bạn.
Bửu Lâm Sanh:
Thạch Bàn Khê hằng sản, Đường đệ đã vắng cành
Tôi tánh Bửu Lâm Sanh., cội huyên còn am lá.
Văn chín đấu kinh lân mã sử, võ năm xe điểu trận xà đồ.
Vân tòng long năng chữ ngay vua, phong tòng hổ ôm tình con thảo.
Một mẹ tuổi cao nên bận-bịu, ba giềng vạc cả biếng đua bơi.
Trệu cay nuốt đắng nghĩa nào phai, cắn cỏ ngậm châu (KL–9b) tình dễ lạt.
Mảng còn bàn bạc, phút xế ác vàng.
Phải giữ chữ thần khan, dám quên câu mộ tỉnh!
Từ Nương:
Chốn Bàn Khê dưỡng tánh, thiếp biểu tự Từ Nương.
Chồng đà sớm tách âm cung, mình hỡi gởi thân dương lộ.
Lại nói:
Con trẻ sao không ôn cố, rèn mình mới đặng tri tân.
Họa một mai gặp hội phong vân, ắt ngàn thuở thơm danh quả phụ.
Lâm Sanh:
Khêu đèn thỏ thời, con những xôi kinh nấu sử, rạng lửa ô con thường hái táo dưng lê.
Miễn mẹ già túc thực túc y, con trẻ nguyện thả canh thả học.
Xin mẹ hãy nghỉ an trướng ngọc, đặng cho con thẳng tới sơn đầu.
Hái củi quế đổi gạo châu, trải dặm cù xông đường nhạn.
Hát nam:
Trải dặm cù xông đường nhạn
Cúi đầu từ sơn ngạn dời chơn,
Cho hay vả đạo làm con,
Giữ trong ba thảo cho tròn mười ơn.
Dạ chi sờn dặm ngàn lặn lội,
Nát mình nầy (KL–10a) ngùi đội từ thân
Thị Lang:
Từ ngày vào giải mộng mật cung, đòi bữa luống tư lương lãnh thất.
Mộng ứng nhâm thần đã thiệt, điềm bày sanh sản khó phân.
Đã biết câu cư trần bất nhiễm trần, song nghĩ chữ mạc tín trực trung trực.
Nếu mẹ phụng mắc trong phong tục, ắt con rồng lụy chốn trần ai.
Nội Tống trào ít kẻ cánh vai, ngoài Trịnh thị nhiều người nanh vuốt.
Xét mình lão đầu đà điểm bạc, nhắm không ai tác đặng tuổi xanh.
Dầu một mai xế giạu nghiêng thành, đà không kẻ cật nâng vai đỡ.
Lại nói:
Nghe rằng miền sơn dã, mắng tiếng chốn Bàn Khê.
Có danh sĩ ẩn thời, chưa ra tài tế thế.
Trước là tới du sơn nhạo thủy, sau là đi cầu ngõ tầm hiền. Truyền bộ thần cắp dõi cung tên, đặng cho lão nhặt dong vó ký.
Hát nam:
Cho lão nhặt dong vó ký,
Họa gặp người hiền ngõ phò bang.
Chi nài lặn lội băng ngàn,
Tắm mưa chải gió miễn an dân lành.
Tán:
Thảng khán càn khôn sắc, chức thành cẩm tú vân.
Giang sơn thiên cổ mậu, thảo mộc vạn niên xuân.
Hát nam:
Tách ngàn trùng tấc lòng chi quản,
Máy lo dùng chữa loạn làm an.
Lâm Sanh, hát nam:
Chi nài nẻo tắt đường quanh,
Thảo ngay dốc trọn, để danh muôn đời.
Lại nói:
Ghé cội tùng nương bóng tạm ngồi, sẵn bàn thạch gió đưa nghỉ mát.
(Lâm Sanh xuất tướng tinh, bạch hổ phụ thể).
Thị Lang:
Sắc-sảo mai bông bông bạc, xuê-xoang cúc nhị nhị vàng.
Lượn-lờ cái bướm liệng xênh-xang, tở mở chòm ong bay rập-rộ.
Lại nói:
Thị ác thú thị ác thú, quả độc trùng quả độc trùng!
Xang tay bả thần cung, xạ tiển lai bạch hổ.
Lâm Sanh:
Tinh thần sanh chấn hỏa, bình địa phát phong ba!
Ngươi đã muốn hại ta, ta chẳng vì chưng đó.
Thị Lang:
Khoan đã (KL–11a) khoan đã, phân qua phân qua!
Dễ thơ sanh cừu oán chi ta, ta cũng chẳng thù hiềm chi đó.
Dương cung sắt quyết trừ mãnh hổ, lấp tên vàng không dạ hại ngươi.
Lão phu thiệt bày lời, thơ sanh xin nghiệm lại.
Lâm Sanh:
Đoái thấy phong tư quý thể, nhìn tường diện mạo đoan trang.
Nhơn việc chi tới chốn lâm san, đi ngoạn cảnh hay đi tìm bạn?
Thị Lang:
Giá tấm lòng ngao ngán, vui tìm bạn tự nhiên.
Phò Tống thất Minh Vương, quyền Thị Lang Binh Bộ.
Chẳng hay nhà gã, danh tánh quê hương?
Bản mạt khá phân tường, đặng cho ta tỏ ý!
Lâm Sanh:
Cùng cư dã xứ, vị thức công môn.
Phủ phục vọng cao nhơn, ngu phu cam thất lễ.
Lại nói:
Thạch Bàn Khê hương lý, tôi tánh Bửu Lâm Sanh.
Cha đà sớm tách non xanh, mẹ hỡi còn nương nhà bạc.
Văn sảo-sảo năm xe vừa thuộc, võ dồ-dồ tám trận mới xong.
Chút (KL–11b) còn từ mẫu tại đường, chưa tiện trí thân báo chúa.
Thị Lang:
Tiếc những trang tài ngõ, chẳng ra giúp chúa hiền.
Bạc ba thoi giúp đó làm ơn, ghi ngàn thuở tình đây chớ phụ.
Hễ người trong thủy thổ, phải báo nghĩa quân vương.
Khá quy tập lương sơn, mà chiêu người hiền ngõ.
Đó đành lòng đó, đây giữ dạ đây.
Như nước nhà nguy biến chẳng may, tin với gã đỡ trong ba vạc.
Lâm Sanh:
Cắn cỏ ơn kia dốc tạc, ngậm châu nghĩa nọ lăm đền.
Lạy thượng quan trở lại kinh thành, cho ngu hạ phản hồi bổn quán.
Hát nam:
Ngu hạ phản hồi bổn quán,
Nguyện non mòn biển cạn nào phai.
Thị Lang:
Quả nước trổ hiền tài, thiệt trời sanh giúp thế.
Có bạch hổ ứng tòng phụ thể, lão tưởng độc trùng xạ tiển lâm thân.
Máy nhiệm chẳng cho nhằm, tánh linh chàng bắt đặng.
Như gã nầy!
Chưa phải vì vương mạng, thiệt đáng dự (KL–12a) tướng sanh.
Dặn lòng mình lại biết mình, sự đó dễ ai biết đó.
Hạ lịnh truyền bản bộ, mau phản mã hồi dinh.
Hát nam:
Chí lăm giúp rập thánh minh,
Phải liều công lão xông sương băng ngàn.
No-nao vầy hiệp hội lành,
Giúp an chúa thánh, rạng danh tôi hiền.
──────
8. Câu sông Vị, Thọ Lão vớt cứu hai cháu Kim Long Xích Phụng.
Ngự Đệ:
Roi cành vàng Tống vận, quyền Ngự Đệ Minh trào. Trải gan son tiếng dậy chín châu, giồi mật nghĩa danh biêu tám cõi.
Tưởng Tống trào cơ-hội, lo sự nghiệp phân-vân.
Trịnh thị chăng thế trọng binh quyền, Minh hoàng lại chậm roi ấu chúa.
Tưởng giang sơn nọ, xem thế thời nầy.
Thấy nhiều phen kế luận mưu bày, đặng một gã Thị Lang Binh Bộ.
Ngày sáu khắc chẳng an trướng hổ, đêm năm canh trằn-trọc gối loan.
Một mình đã luận lại bàn, hai lẽ khôn toan khó liệu.
Thiên cơ thành vị liễu, nhựt nguyệt hữu doanh hư. Mặc dầu trời bủa lưới thưa, cơn ấy cáo cầy dễ lọt?
Mảng (KL–11b) còn định đoạt[27], phút đã bình minh.
Chỉnh mão nhập long đình, đặng ứng hầu phụng các.
Thứ Hậu:
Từ mộng ứng vào tâu kim khuyết, chịu thai bào điềm ở thiên công.
No-nao[28] thấy mặt con rồng, ngõ kẻo tây lo mẹ phượng.
Lại nói:
Tứ chi chuyển động, ngũ tạng bồi-hồi.
Giữa không vái với đất trời, xin bảo hộ cho toàn mẫu tử.
Bất tỉnh vu nhơn sự, lưỡng nhãn tự tinh di. (KL–1a)
Tài văn ấu tử thinh thinh khốc, tâm nội triền xao đoạn đoạn ly.
Kham thán dã vận thời, thị nhứt triêu hưu hĩ.
Thể nữ:
Mồ hôi rỉ rỉ, lạnh lẽo chơn tay.
Nguy nầy tới chẳng sai, vào bẩm qua Chánh Hậu.
Chánh Cung:
Tâm thần bất định, lãnh tuyệt đê-mê.
Mau mau đổ thuốc kia, chóng chóng vầy lửa nọ.
Thứ Hậu, than:
Hồn phách phiêu phiêu thiên lý lộ, ta hồ yểu yểu nhứt thân ly.
Chánh Cung:
Đem nàng lại phòng vi, đòi lương y điều trị.
(Tráo hài nhi...)
Lại nói:
Kỳ dị kì dị, lạ lùng lạ lùng!
Nhị thú tại sản trung, hắc lang cùng bạch thố.
Truyền phô thể nữ[29], sản vật tương tùy,
Kíp vào chốn đơn trì, đặng tâu qua thiên tử.
Lại nói:
Cúi tâu trước ngự, ngữa dộng bên ngai.
Nay Thứ Hậu mãn thai, tảo thời vừa lâm sản.
Khi ấy khí xung huyết vận, phải dùng thuốc đổ lửa vầy, (KL–1b)
Đỡ nâng lại hiên tây, mới định an phách quế.
Trước mảng lo nỗi mẹ, sau xem lại việc con.
Trong phòng sản thai bàn, thấy hắc lang bạch thố[30].
Lời phàm dám tỏ, lượng thánh đặng tường.
Trong hung cát hai đường, bày thiệt hư một lẽ.
Vương:
Thính thuyết tâm trung hỏa khởi, quan tường nhãn thượng sanh hoa.
Trong đã ứng điềm tà, ngoài lại bàn mộng chánh.
Quan Binh Bộ man tâu lượng thánh, tội nọ đáng gia hình.
Còn Thứ Phi quái sản ư trào đình, tựu giang thượng đồng tương nịch tử.
Ngự Đệ:
Cúi tâu ngọc bệ, ngửa dộng kim giai.
Tại thiên cơ điềm ứng kết thai, như Thứ Hậu muốn chi hung sản.
Xin thánh hoàng xét tưởng, chữ nộ bất lượng chi.
Xin giảm thửa tội kia, kẻo oan chưng mạng nọ.
Còn như quan Binh Bộ, không man tấu thánh hoàng.
Điềm ứng thai Xích Phụng Kim Long, lại sản xuất hắc lang bạch thố.
Trước ứng cầm sau hiện thú, có lưỡng (KL–2a) vật chẳng sai.
Tương ứng nãi tương thai, bất trúng tắc bất viễn.
Xin thánh hoàng xét tưởng, mà thứ tội huân thần.
Đã hản chữ cư trần, lại nhằm câu hữu biến.
Vương:
Nhậm lời tâu Ngự Đệ, xá tội gã Thị Lang.
Thị Lang:
Mông ân đức Thánh hoàng, vọng Minh Quân vạn tuế, vạn vạn tuế.
Vương:
Lấy phép quốc gia luật chế, đày Thứ Hậu sái tảo hoa viên[31].
Còn quái thai đem tại giang biên, tương sản thú đầu vu Vị thủy[32].
Đã hay thiên ý, diệc hữu nhơn tâm.
Trẫm ngự lại hoa phòng, bá quan lui phụng trướng.
Chánh Cung:
Vưng lịnh trên thánh thượng, nhập quái sản tương trung.
Sau trước đã cẩn phong, tới Vị hà nịch tử.
Mựa đừng sơ-sẩy, tua khá quan phòng.
Việc nước chớ thơ-mơ, mà nhơn dân đàm tiếu.
Thể nữ:
Lịnh trên đà dặn bảo, chúng dưới dám thơ-mơ.
Tựu Vị thủy kiến cơ, tới giang tân nịch tử. (KL–2b)
Lân Hầu:
Từ Chánh Hậu thư lai, dĩ an bày mật kế.
Tống trào khác rắn kia không đất, Trịnh gia như hùm nọ thêm vây.
Ngự Đệ cung việt tấu kim giai, đày Thứ Hậu sái hoa viên nội.
Lại khổ gián tâu qua thánh thượng, xá tội chàng Binh Bộ Thị Lang.
Miễn cho ngươi hay gián hay can, giữ cho đặng bền tôi bền chúa.
Giang san lo có thuở, xã tắc hỡi chờ ngày.
Ghé mắt Tào đợi thuở ra tay, khoanh tròng Đổng chờ khi ló mặt.
Thọ Lão:
Lân-la nơi mái bắc, nương-náu chốn tường đông.
Con trẻ từ ấm áp mền rồng, cha già lại thảnh-thơi non hạc.
Lạc đạo an bần hiền thánh trước, cùng cư lậu hạng lão già sau.
Hôm mai vui với gió mây, ngày tháng bạn cùng hoa nguyệt.
Mảng còn bàn bạc, trời xế ác vàng.
Bữa qua đà ngoạn cảnh Côn Cương, hôm nay tới nhàn du Vị thủy[33].
Trối kẻ đua bơi trường phú quý, dầu ai (KL–3a) nong-nả chốn vinh hoa.
Vác câu xuống Vị Hà[34], ngõ cùng cơn gió mát.
Hát nam:
Vác câu xuống cùng cơn gió mát,
Mặc dầu vui gành hạc doi le.
Ngàn xanh dòng biếc đua khoe,
Bãi loan bài dậy, nhạn phê chữ thần.
Lại nói:
Tạm ngồi chốn thạch bàn, thả câu ngâm nhứt luật.
Ngâm:
Vầy vui cùng mát bãi cùng gành,
Sông Vị buông câu hứng gió thanh.
Lại nói:
Hòm chi chi vận đổ vào gành, điều lạ lạ đừa đi chỗ khác.
Phải hòm vàng hòm bạc, lão không muốn không tham.
Chống ra giữa trường giang, còn chi trôi vào bực.
Ngâm:
Sợi chỉ kinh luân phơi đáy biếc,
Ngọn cần thao lược chống dòng xanh.
Lại nói:
Điều nầy cũng ngặt, nào có phải chơi.
Thơ ngâm thơ chẳng đủ bài, câu cá câu không thẳng buổi.
Phen trước đà xua đuổi, phen nầy chớ lân-la.
Hai phen hỡi còn tha, ba phen tao chặt quách.
Ngâm:
(KL–3b) Miếng mồi Khương Thượng đà nên lạ,
Lưỡi bén công hầu chỉn rất xinh.
Lại nói:
Việc nầy ốt gẫm, có lẽ chẳng sai.
Giữa dòng xanh cuộn-cuộn chảy xuôi, sao tiểu quách phăng phăng trôi ngược.
Khôn tường hư thiệt, khó biết giả chơn.
Giả chơn nọ xem tường, kẻo lòng nầy khoăn-khoái.
Lại nói:
Hốt nhiên kiến tại, vị liễu cơ trung.
Kim Long Xích Phượng y phong, ngọc nữ châu nam quý thể.
Dầu chẳng dòng đế vị, thời cũng dự công khanh.
Lá-lay trôi vận vào gành, Lững-đững còn theo bên vực.
Xui tình cưu thước, khiến nỗi tích-linh[35].
Con người thể con mình, đem về làm ông cháu.
──────
9. Thứ Hậu nguyền cùng hoa cỏ và bầu vú sữa.
Thứ Phi, than:
Ngưỡng diện khiếu thiên thiên bất chứng, ta hồ địa hậu địa vô tri.
Kham ta mẫu tử tình phân đoạn, huyết cốt hà phùng vạn tải bi.
Lại nói:
Khả tích dã vận thì, thọ nhứt triêu hoạn nạn.
Nguyện với trời cao xin chứng, vái cùng đất (KL–4a) rộng chiếu tri.
Con thiếp còn sữa nọ xin căng, con thiếp thác vú kia mới óp.
Phép trong nhà nước, há dám trách ai.
Cất gánh nọ lên vai, tới lê viên tưới nước.
Hát nam:
Kíp tới lê viên tưới nước,
Gượng lần lần xiêu trước ngả sau.
Riêng than phận gái lao-đao,
Con không thấy mẹ, mẹ nào thấy con.
Sự nầy mới hỏi vuông tròn,
Đã gây đầm ấm hỡi còn gian nan.
Lại nói:
Lời tỏ với trái bông, chỉ nguyện cùng thảo mộc.
Nay con thiếp dầu chưa sum hiệp, thời trăm hoa bông khóa nhị gài.
Con ta dầu sau đặng sum vầy, thời trăm cụm nhị bông đua nở.
Buồn nói cùng cây cỏ, sầu nầy gởi gió mưa.
Bữa nay gánh đã trưa, ngày mai ta sẽ tưới.
──────
10. Tiên Ông hạ trần truyền văn võ cho Hoàng Tử.
Tiên ông, xướng:
Lộng lạc thừa phong giáng hạ trần,
Dao thân giá võ đổ càn khôn.
Tam phân thế giới tam phân hoạt,
Nhứt thống âm dương phục nhứt trường.
Lại nói: (KL–4b)
Ta tiên nhơn thừa lịnh Ngọc Hoàng, trao quyền phép truyền cho Tống chúa.
Để sau phò Minh tộ, hầu kế trị Tống bang.
Âu tới chốn Vân San, đặng khai trường văn võ.
Hát khách:
Doanh thiên tuyết đạm sái uông uông.
Mãn địa hoa khai thụy khí hương.
Đương kim thử sự nan tri sự,
Thiên hạ thùy nhơn bất thức nhơn?
Lại nói:
Đây đã tới Vân San, tiểu đồng tuân pháp giáo.
Dựng cờ hiệu đại thiên hành đạo, khai nhị trường văn võ bản chương.
Võ bày hoạt cấp tam quan, văn lập văn phòng tứ bửu.
Hễ là giáo đạo, thời phải lưu hành.
Ngõ cho Hoàng Tử nghe danh, ta sẽ võ văn truyền giáo.
Tiểu Đồng:
Thừa tôn sư truyền giáo, y pháp hóa huấn trường.
Hiệp ly còn hỡi chưa tường, kính chúc vãn dưng kế tấn[36].
⁂
Hồi 2: LONG PHỤNG THÀNH NHƠN
(lớp 11-18)
──────
11. Kim Long lên đường tìm sư học đạo.
[Thọ Lão]
Đời an một trị, thời vững chín châu.
Mục thảnh-thơi nội lục chăn trâu, ngư đủng đỉnh dòng xanh (KL–5a) bủa ngạc.
Côn Cương Sơn nhàn lạc, ta nay Thọ lão ông.
Tánh hằng lánh-né chữ vinh phong, tình muốn săm-soi câu nhàn lạc.
Lại nói:
Thế hằng gọi con làm Thứ Hậu, phước về sau lão đặng ấm thân.
Lão một phen hạ điếu giang tân, đặng hai gã[37] đem về sơn thượng.
Cấp-củm[38] hôm mai trân trọng, bù-chì xem tợ cháu con.
Như hai người nầy:
Phép đi đứng dị thường, việc ở ăn khác thế.
Lại nói:
Hôm nay coi trái ý, dường thể có buồn rầu.
Sau trước tỏ đuôi đầu, có châu chan mày mặt.
Kim Long:
Dám thưa cùng đầu bạc, xin tỏ nỗi tuổi xanh.
Hễ làm người lo báo sanh thành, đứng nhơn tử toan đền cúc dục.
Cửa hạnh vào ra không huyên thất, nhà lê hằng bận-bịu thung đường[39].
Cớ ấy khiến động lòng, vậy nên con buồn mặt.
Thọ Lão:
Hai trẻ chạnh sa nước mắt, một già phới động tấm lòng.
Nhơn vì ngày thừa hứng (KL–5b) giang tân, lão bèn tới điếu ngư Vị thủy.
Nào hay thiên ý, máy nhiệm đã đành.
Tiểu hàm[40] đâu trôi giữa dòng xanh, bèn trôi ngược vào nơi bên vực.
Lão bèn vớt đặng, dở hòm nọ xem tường.
Thấy hoa bào giáp gói hai chàng[41], áo thêu dệt long phi phụng võ.
Cứ áo làm tên họ, lão nào biết bổn căn.
Trai đặt hiệu Kim Long, gái mỹ danh Xích Phượng.
Hôm mai trân trọng, làm nghĩa minh linh.
Vốn chẳng phải đạo sanh, chỉn thiệt là nghĩa dưỡng.
Kim Long, Xích Phượng:
Ta thống thiết, ta thống thiết! Cát ngã tâm, cát ngã tâm!
Sầu tình vu khiển-uyển, nhãn lệ sái lâm-ly.
Cùng than:
Kham ta nhứt sản thọ chi ly,
Hoạch tội chi nhi lụy mẫu bi.
Sanh tử tử sanh hề vị bốc,
Đoạn trường trường đoạn lệ triêm y.
Thọ Lão:
Khuyên trẻ bớt ai bi, kẻo già thêm động ý.
Người đời hằng bĩ thái, nguyệt thường hữu doanh hư.
Trời đâu hại kẻ (KL–6a) thân cô, đời nỡ phụ người hiếu đễ[42].
Cồn xui nên vực, vực quến nên cồn.
Cơn nầy dầu chẳng vuông tròn, khi khác cũng vầy no ấm.
Bé dại thời bồng ẳm, khôn lớn phải toan đương.
Nghe rằng chốn Vân Sơn, có tiên ông giáo đạo.
Hễ phận gái lo bề tần tảo, còn phận trai lo việc học hành[43].
Khá tìm kinh sử để vào lòng, ắt thấy của tiền bày trước mặt.
Kim Long:
Dưỡng phụ đã phát đường gai góc, nhục nhi dường vén ngút thấy trời xanh.
Dưỡng phụ còn ở lại lều tranh, cho ấu tử trông chừng dặm liễu.
Thọ Lão:
Xích Phượng mau toan liệu, vào sắm sửa hành trang.
Theo đưa anh chừng một dặm đàng, về cùng lão mựa chầy nửa khắc.
Kim Long, hát nam:
Tiểu tử trông chừng dặm liễu,
Nghĩa lo đền trịu-trịu hai vai.
Cho hay hễ đứng làm trai,
Thảo ngay lo giữ chi sai tấc lòng.
Xích Phượng, hát nam:
Cách ngàn trùng (KL–6b) tấm lòng khoăn-khoái,
Phân hai đường thủ nghĩa thân sư.
Kim Long, hát nam:
Phăng phăng dong ruỗi dặm cù,
Băng chừng Trang lãnh phút kề Vân Sơn.
──────
12. Chốn núi rừng, Võ Sĩ, Lâm Sanh kết nghĩa.
Võ Sĩ:
Vầy xóm giềng tám núi, vui bậu-bạn năm hồ.
Non Hoa Nhạc nhàn cư, mỗ tánh Châu Võ Sĩ.
Rồng mây chưa phỉ chí, hùm gió hỡi đành lòng.
Vậy cho nên nấn-ná chốn rừng thông, đợi thuở lẫy-lừng nơi cung quế.
Tiết vừa xuân chí, mùa mãn đông thiên.
Âu kíp cắp cung tên, bắn thú cầm thực nhục.
Hát khách:
Biệt liễu Hoa Sơn bộ bộ khinh,
Na từ khuất khúc nhứt thân vinh.
Khống thiên phấn lực hà nhơn địch?
Đồ địa dương oai thú mạc sanh.
Bửu Lâm Sanh:
Chốn Bàn Thạch ẩn mình, Bửu Lâm Sanh chữ đặt.
Dạ cấp-củm để dành ba lược, lòng giồi-mài còn chứa sáu thao.
Xót mẹ già tóc hạc tuổi cao, nên con trẻ chơn le chậm bước.
Phút xảy nhớ bữa cơm (KL–7a) ngày trước, mẹ ước thèm một miếng thịt hươu.
Vội vàng tới sơn đầu, kiếm thịt về cho chóng.
Hát nam:
Kiếm thịt kíp về cho chóng,
Ngõ đền ngày ngậm đắng trệu cay.
Dễ nài đạp gốc tuôn gai,
Mười ơn ba thảo dốc bày người xưa.
Lại nói:
Ngã bạt bộ kiêm hành, nễ hà lai đương lộ?
Như ta:
Kiếm là kiếm thịt hươu cho mẹ, tìm không tìm hùm tới nạp mình.
Ghé[44] cho mỗ thượng trình, chớ ngăn ta trung lộ.
Lại nói:
Đó mống lòng[45] làm dữ, chớ trách mỗ chẳng lành.
Triển thần lực khinh khinh, phấn thân trừ ác thú.
Võ Sĩ:
Hưu tẩu hưu tẩu, mạc đào mạc đào!
Âu kíp lắp tên kia, đặng bắn chưng hươu nọ.
Lâm Sanh:
Đoái thấy hoàn hoàn tuấn tú, sực nhìn củ củ oai phong.
Lời đây xin tỏ tấm lòng, chưa biết mấy phen ngại dạ.
Nói ra thời bỡ-ngỡ, bỡ-ngỡ cũng phải phân.
Thịt cọp nầy thời mỗ xin dưng, (KL–7b) con hươu nọ phiền chàng cho mỗ.
Võ Sĩ:
Lẫm-lẫm phong tư quán cổ, đường-đường mỹ lệ quang huy.
Vậy chớ ngươi:
Bbắt hùm ấy làm chi, rồi đổi hươu cũng lạ.
Lâm Sanh:
Giấu chi nhà gã, phải bày tỏ dạ ta.
Nhơn vì ý mẹ già, thèm thịt hươu khiển trẻ.
Hễ nhơn tử chi chí, phải kiệt lực chi tình.
Nên chẳng nài đạp sõi dày sành, phải nong-nả bôn nam tẩu bắc.
Hươu vừa qua trước mặt, tráng sĩ phút mau tay.
Như rộng dung đổi thửa thịt nầy, ghi mật nghĩa chi nguôi lòng mỗ.
Võ Sĩ:
Thoảng nghe qua lời nọ, phút chạnh thửa dạ đây.
Đội lốt tìm sữa nọ không hai, đánh hùm đổi thịt hươu ít mặt.
Lời chàng đà cạn tỏ, dễ ta nỡ hẹp lòng.
Sách rằng ngô ông tức nhược ông, có chữ tử giai kỳ tử.
Chẳng hay nhà gã, danh tánh quê hương?
Xin ngươi khá phân tường, đặng cho ta hản ý. (KL–8a)
Lâm Sanh:
Thạch Bàn Khê hương lý, tôi nay Bửu Lâm Sanh.
Nhà lê còn một mẹ lành, dặm liễu băng ngàn con thảo.
Thọ ơn tắc báo, nhứt phạn bất vong.
Xin ngươi tỏ hương trung, đặng ta tường danh tánh.
Võ Sĩ:
Hoa Nhạc Sơn hương lãnh, Châu Võ Sĩ tên ta.
Thung huyên hai cụm đều già[46], đường đệ một cành không có.
Muốn đây cùng đó, kết nghĩa kim bằng.
Có hiệp thửa dạ chàng, phân cho tường lòng tớ?
Lâm Sanh:
Ý đây hầu tỏ, tình đó trước bày.
Quả trời nọ khiến vay, thị bất kỳ hội ý.
Hai ta đồng thích chí, một dạ nguyện minh tâm.
Bửu lỗi nguyền phó có thiên công,
Châu bội ước đã đành địa hậu.
Cùng nói:
Giữa trời xanh vọng cáo, dưới đất thẳm chiếu minh.
Sau ai dầu phụ nghĩa vong tình, phó đã có búa trăng rìu nguyệt.
Lâm Sanh:
Ghi lòng thiết thiết, chử dạ tư tư. (KL–8b)
Phân tay kẻ lại thảo lư, nhẹ gót người qua Hoa Lãnh.
Hát nam:
Nhẹ gót người qua Hoa Lãnh,
Ghi tấm lòng canh-cánh nào sai.
Võ Sĩ:
Thống dã nhứt thời tương hội, ta hồ bán khắc chi ly!
Hát nam:
Cách ngàn trùng kẻ nam người bắc,
Tạc tấm lòng đá nát vàng phai.
Lâm Sanh:
Đã đáng mặt anh tài, thiệt nên trang nghĩa sĩ.
Chẳng qua thiên ý, chiêu hiệp nhơn tâm.
Mảng dần-dà đã xế vừng hồng, kíp dong ruổi trông chừng đường nhạn.
Hát nam:
Dong ruổi trông chừng đường nhạn.
Nguyện non mòn biển cạn nào quên.
──────
13. Minh Quân chứng kiến điềm bế nhị tu hoa.
Thứ Hậu, than:
Ta hồ địa hậu phong ba lãng,
Thán dã thiên thương lệ lâm-ly.
Đới thảm kỷ thu phân mẫu tử,
Hàm sầu cảnh nội thọ tình bi.
Lại nói:
Thương là thương con mẹ chia lìa, tủi là tủi mất còn chưa hản.
Phật còn mang tám nạn, người sao khỏi ba tai (KL–9a).
Cất gánh nọ lên vai, tới lê viên tưới quét.
Hát nam:
Tới chốn lê viên tưới quét,
Gian nan nầy trời biết đất hay.
Vì đâu nên nỗi châu mày,
Khiến hoa nũng nhị, nên cây đau sầu.
Tán:
Thời dã vận dã, thống tai bi tai!
Kim dã họa vô đơn chí, cổ vân phước bất trùng lai.
Hát nam:
Chuỗi sầu càng đuổi càng dài,
Hơi quyên thắt-thẻo[47] giữa trời kêu sương.
Vương:
Nối ngai vàng sửa trị giềng trời, chăn con đỏ vững bền mối nước.
Tuy nhơn dân nhàn lạc, lòng trẫm luống tư lương.
Đoái giang sơn bát-ngát giang sơn, nhìn xã tắc bồi-hồi xã tắc.
Dun cơn gió mát, giải muộn trăng thanh.
Liễu tử điên cuồng kinh điểu mộng, đào hoa tu bế điệp sầu tình.
Lại nói:
Cớ chi sao vắng hương trình, nên nỗi không đưa thụy khí.
Xem trong cảnh ấy, có lẽ bất hòa.
Nơi nơi tu bế trăm hoa, chốn chốn nhị phong 9b muôn cụm.
Dưới đất nước sông êm đóng, trên cành gió mát tuyết điểm sương.
Ngoài nhơn dân muôn cụm nở đua, trong thành nội trăm cành gài nhị.
Cớ ấy không đưa thụy khí, khiến nên vắng đượm hơi hương.
Gội bốn mùa hoa chẳng nở bông, dương tám tiết cành đau cưu đọt.
Điềm nầy gẫm ốt, có lẽ chẳng sai.
Kíp trở lại kim giai, đặng nghị đàm mật ý.
Lại nói:
Hoạn quan vưng thánh chỉ, đòi Binh Bộ Thị Lang.
Kíp vào chốn cung chương, ứng hầu nơi mật các.
Thị Lang:
Vưng lịnh đòi dinh nội, thần hạ tựu long lâu.
Trước giá ngự khấu đầu, vọng ngô hoàng vạn tuế, vạn vạn tuế.
Vương:
Tứ lão quan an vị, rồi trẫm sẽ trần tình.
Nhơn đêm nay trẫm xuất ngoại đình,
Bèn thưởng nguyệt ngoạn vu thành nội.
Thấy trong cảnh ấy, chạnh tưởng nhơn tâm.
Nội lê viên hoa bế nhị phong, ngoài lê thứ đơm bông đài kết.
Lấy trong kinh Dịch, mô điển mà bàn (KL–10a).
Cho biết lẽ kiết hung, cho biết trong chơn giả.
Thị Lang:
Dám tâu qua các hạ, cho hản lẽ tâm trung.
Cứ kinh điển mà phân, noi hiền xưa ghi tạc.
Ngươi Trâu Diễn Huệ Vương hạ ngục, nên triệu bày lục nguyệt phi sương[48].
Còn nước Tề một gái thọ oan, điềm lại ứng tam niên bất võ[49].
Lấy kim mà nghiệm cổ: hoa kiên bế, nhị cẩn phong, nhơn oan vật oan đồng: nhơn bất hòa thiên bất hòa.
Phát điềm nơi thành nội, triệu không ứng ngoại thành.
Lời ngu hạ dám tâu, lượng cao minh xin nghiệm.
Vương:
Lời Thị Lang phân biện, quả nhơn đặng sát tường.
Bởi có người chịu lẽ bất bình, cho nên nỗi hoa kia vị phát.
Trời đã ra điềm chánh nước, chẳng cho tỏa lượng quả nhơn.
Một là e mích dạ thần lương, hai là ngại chạnh lòng lê thứ.
Một tôi một chúa, để dạ nghiệm tình.
Sau dầu xét đặng lẽ minh, trẫm sẽ liệu trong chính hóa.
Lão (KL–10b) quan lui các hạ, trẫm ngự lại kim chương.
Thị Lang:
Khổ gián dã thiên thương, nan minh ta địa hậu.
Thời như,
Lão cũng muốn vi thần tận đạo, tình lại e đa gián thất nghì.
Ngày trước đà trọng trách đơn trì, nên nay phải đoán phân vị chất.
Điềm trong chánh nước, nạn ở Hoàng nương.
E mưu ai mãi cẩu huyền dương, mà chước dụng cải long dịch phụng.
Cớ ấy viên trung cảm động, khiến nên thành nội bế hoa.
Chánh mẹo ấy chẳng ngoa, tà thuật đâu khôn biết.
Một mình hơn thiệt, hai lẽ tới lui.
Sự ấy để mà suy, lẽ kia khôn mở miệng.
Dễ lời cùng phân biện, âu trở lại bổn dinh.
──────
14. Thành nhơn chi mỹ, Kim Long Xích Phụng tìm cha mẹ.
Kim Long:
Quê nhà ngụ Lãnh Kinh, tôi Kim Long biểu tự.
Ngày xả phụ vừa qua một hạ, kể sự sư mới bước hai đông.
Từ theo thầy nhập học sơn trung, thọ giáo pháp tính thông văn võ.
Bữa diếp trình qua sư phụ, cho về thăm viếng dưỡng thân, (KL–11a)
Sấp lưng từ giã Lãnh sơn, nhẹ gót trông chừng dấu thỏ.
Hát nam:
Nhẹ gót trông chừng dấu thỏ,
Trải ngàn trùng lướt cỏ xông sương.
Xét mình cam lỗi mười ơn,
Thẹn người nằm giá hổ trang che mồ.
Mảng còn hơn thiệt đắn-đo,
Vân Sơn bặt dấu hầu kề Côn Cương.
Thọ Lão:
Có mặt thời mắng[50], vắng mặt thời buồn.
Lo là lo chốn non núi nết luông-tuồng, sợ là sợ việc phép khuôn tình khờ-khạo.
Từ con trẻ tầm sư học đạo, nỗi cha già nhựt dạ tư lương.
Đã hai năm sao vắng hồi hương, trong sáu khắc bâng-khuâng bổn lý.
Xích Phượng:
Xin cha hãy phận an tám kỷ, lo chi con tuổi mới mười thu.
E là e tóc hạc da mồi, chí mặc chí cánh hồng bay trải.
Sách có chữ vong thân thủ ngãi, thế lời rằng xả phụ tầm sư.
Dưỡng phụ chớ ưu tư, nhục nhi thêm hoài ái.
Thọ Lão:
Chưa dứt trong (KL–11b) lời nói, phút đâu đã mau chơn.
Từ con lên học đạo cao nhơn, trong quyền phép võ văn bao nã[51]?
Kim Long:
Cúi thân qua đường hạ, xin tỏ nỗi tâm trung.
Con từ lên thọ giáo tôn ông, đã học đặng mật thư diệu võ.
Văn bẻ quế còn chờ bảng hổ, võ bắn dương lăm chiếm đầu ngao.
Nay đà phỉ chí anh hào, cám đội ơn dày dưỡng phụ.
Xích Phượng:
Lời trưởng huynh bày tỏ, tình tiểu muội mừng lòng.
Phương pháp quyền hảm nhuệ tồi phong, đường tiến thoái long hành hổ bộ.
Trước nữa cha già xem đó, sau là em trẻ học đây.
Để khi anh có mỏi tay, đã sẵn có em đỡ cánh.
Thọ Lão:
Thấy trẻ thơ liệu toán, xảy lòng lão nực cười.
Xích Phượng đà ý muốn trổ tài, Kim Long phải trao truyền quyền pháp.
Trước là nhuần ba lược, sau lại luyện sáu thao.
Trai rỡ chí anh hào, gái rạng danh liệt nữ. (KL–46a)
Kim Long:
Thừa sư mệnh bài khai kiếm kích, bố tứ phương bát quái trận đồ.
Tiểu muội khá xem qua, pháp quyền kia học lại.
Xướng:
Tốn Đoài đồ địa đổ sanh môn, sanh môn.
Càn Khảm điệu thiên cảnh tử phương, tử phương.
Khôn Cấn phần long hưu kinh lộ, kinh lộ.
Chấn Ly phục hổ giải khai trương, khai trương.
Hát khách:
Bách chiến giao phong triển lực cường,
Tiến trừ thoái trảm phấn uy dương.
Bài khai bát quái hà nhơn địch,
Tứ hướng thanh danh tại chiến trường.
(Xích Phụng học theo bài thiệu trên.)
Thọ Lão:
Khoái khoái dã Phụng nương, hoan hoan tai Long sĩ!
Trai hãm nhuệ tồi phong nhẹm nhẽ, gái huyền sương phá trúc cao cường.
Chẳng nhường kẻ phò vương, đã nên trang tá thế.
Nay cha già đành ý, nên lão tỏ thửa lòng.
Có bức tờ hàm nội cẩn phong, cùng quý vật xuống miền kinh địa.
Nói rằng:
Của xưa di chỉ, vật để truyền đời.
Ai biết của thời biết người, mựa thách cao (KL–47) đừng thách thấp.
Việc bán buôn đắt ế, đắt ế chớ khiên trì.
Bằng khiên trì hai tháng thời về, như có gấp một trăng trở lại.
Nghe cha dặn:
Ấy,
Trai chớ lân-la thềm trăng giãi, gái đừng bầu-quít bướm kề hoa.
Trước sau giữ lời già, anh em cho cẩn thận.
Long, Phượng:
Chử lời già khắn-khắn, ghi dạ trẻ khăng-khăng.
Một lạy cha ở lại lãnh trang, ngàn dặm trẻ xuống miền kinh địa.
Hát nam:
Ngàn dặm xuống miền kinh địa,
Nghĩa cạn mòn sông Vị non Cương.
Tán:
Thập tải cúc ngã hoài ngã,
Lưỡng phần thống tai bi tai!
Tảo vãn vong tình niệm,
Nhật mộ bả tâm hoài.
Thọ Lão:
Hưu thống khốc hưu thống khốc, đoạn bi ai đoạn bi ai!
Thử nhựt thiên các ý, kim triêu cánh hội lai.
Hát nam:
Dùng-dằng đã tới lại lui,
Trẻ khoăn-khoăn nhớ, già ngùi-ngùi trông.[ ]
Long, Phượng:
Ta dưỡng phụ ta dưỡng phụ, cát nhục nhi cát nhục nhi!
Kham tai tình khiển quyển, (KL–13a) thống thiết lệ lâm-ly.
Hát nam:
Nào đành cha ở con đi,
Nỗi già hẩm-hút, trẻ thời bơ-vơ.
Tán:
Thiên địa sanh thành đạo, giang san cúc dục tình.
Hà dĩ quan giai đức, hà dĩ báo gia hinh.
Hát nam:
Lo đền nghĩa dưỡng đạo sanh,
Hai vai oằn gánh, một tình héo-don.
──────
15. Trình áo thơ, Kim Long Xích Phụng gặp người thân.
Ngự Đệ:
Dõi thừa ngọc diệp kim môn, mỹ hiệu Minh Quân Ngự Đệ.
Cám nỗi giang sơn Tống đế, chạnh thay cơ nghiệp Minh gia.
Em đà mang chữ hữu tam, anh lại lỗi câu vô hậu[52].
Sanh nhi nữ tác ngoài ba sáu, tên Kỳ Hương một cách đôi mươi.
Gia bang trí chúa bởi không trai, luyện võ tu văn truyền cho gái.
Tuy nay vận thái, phòng thuở tế nguy.
Quân!
Truyền tam quân bố liệt tinh kỳ, rao vạn đội nghiêm bày hàng ngũ.
Ấy! Kỳ Hương!
Con phân binh tứ trụ, lập trận đồ phá giải tam quan.
Y nhứt lịnh hưng dương, tựu trường thành (KL–13b) tập trận.
Kỳ Hương:
Truyền tam quân y lịnh, rao đội ngũ thừa hành.
Lập tứ trụ phục binh, khai tam quan đoạt súy.
Tiền hậu kỳ diện bối, tả dực dữ hữu chi.
Tiến tắc trảm, thoái tắc truy, tử đạo biến vi sanh lộ.
Bày khai hàng ngũ, (KL–1a) kiểm điểm qua mâu.
Y nhứt lịnh công thâu, truyền tam quân bố trận.
Kim Long:
Đã xa chừng sơn ngạn, phút gần chốn kinh bang.
Việc chi người ngựa nhộn-nhàng, lại có trống chiêng inh-ỏi?
Âu ta kíp tới, coi đó cho tường.
Quân ca:
Hoàn hoàn dũng lực phấn kim thương, phấn kim thương,
Lẫm lẫm uy phong kiếm kích dương, kiếm kích dương,
Tiến tắc trảm, thoái hề phục lộ, thoái hề phục lộ,
Tử môn biến đắc giải sanh phương, giải sanh phương.
Kim Long:
Lập trận đồ khen bấy an bang, không phá trận chê thay lương tướng.
Chữ anh hùng tại thượng, câu kiến nghĩa tắc vi.
Đã chầy ngày máy thửa tay kia[53], gặp một thuở ướm chơi sức mỗ.
(Kim Long phá trận.)
Kỳ Hương:
Xem hình thời nhỏ, gẫm gan ruột quá to.
Lượng quan trên đương lập trận đồ, sao dân dưới xông vào phá trận?
Trước lỗi trong lịnh mệnh, sau phạm luật trào đình.
Tráng sĩ khá trói mình, kẻo nhọc ta ra sức.
Kim Long: (KL–1b)
Coi nỗi ghe đường chua-chát, nghe rằng đòi đoạn ngạt-ngào.
Vị nhơn quân chiêu nạp anh hào, người tuấn kiệt ra tài thao lược.
Khai diễn võ tuyển người giúp nước, quải bảng văn chọn kẻ phò bang.
Vậy mới gọi cầu hiền, vậy mới rằng đãi sĩ.
Kiếm lời lỗi phải, chi cóc thiệt hơn[54].
Khôn ngoan chẳng ngại khôn ngoan, quở phạt chi sờn quở phạt.
Tiểu thơ em ra sức, mà địch với công nương.
Con dân đánh với con quan, trai chi sá tranh hoành cùng gái.
(Xích Phượng cùng Kỳ Hương đánh nhầu.)
Ngự Đệ:
Đại khoái đại khoái, chí hoan chí hoan!
Thôi thôi vậy hai nàng, chờ chờ xong một lão.
Lại nói:
Trai nọ đã ròng thao sáu, gái kia lại đủ lược ba.
Dung nhan nguyệt thẹn sao sa, tư chất nghiêng thành chói nước.
Thung huyên vị thức, danh tánh như hà[55]?
Chơi trẻ chừng đã bỏ hơi cha, đi lạc nẻo lại lìa vú mẹ.
Kim Long:
Đại quan lời cặn-kẻ, tiểu sanh (KL–2a) dám tỏ bày.
Đi bán hàng vừa gặp trận nầy, quơ đòn gánh bèn vào phá đó.
Kim Long là tên mỗ, Xích Phượng thiệt em ta.
Muốn đánh chơi xin đánh với già, đừng hỏi nữa hỏi càng thêm bực.
Ngự Đệ:
Vừa vừa ông thách thức, thôi-thôi lão nhịn thua.
Hàng hóa chi cho lão xin mua, nào, giở coi thử của chàng đi bán?
Xích Phượng:
Của ông cha tạo sẵn, nên để lại cháu con.
Trong thời áo ngoài thời hòm,dệt long phi cùng phượng võ.
Coi hàng mà liệu của, quý vật tại quý nhơn.
Trong thơ dặn rõ ràng, chẳng lo chi giá cả.
Kỳ Hương:
Một người một của, mua hết vừa hai.
Thương thay nết nói nết cười, khoăn-khoái tuồng mày tuồng mặt.
Hễ là bán chác, thời phải giở chường[56].
Cho biết của thượng thiên, hay thể trong hạ giới.
Mau mau đem tới, chóng chóng ông coi.
Lo chi bạc chi tiền, cũng biết người biết của. (KL–53)
Ngự Đệ:
Hốt kiến long phi phượng võ, quan tường kim hiến cẩm bào.
Nghĩ thôi rất ngạt-ngào, tưởng lại thêm kinh sảng.
Áo ấy công hầu chưa đáng, thiệt vì đế thất mới nên.
Kỳ Hương con coi lại phân minh, cẩm bào ấy đâu dưng, cho biết.
Kỳ Hương:
Con dám bày hơn thiệt, cha nghiệm nỗi thủy chung.
Áo nầy con thượng hiến cửu trùng, long vân hội phụng ca nhứt lãnh.
Ngày vạn thọ lâm triều hành chánh, thánh hoàng đòi áo ngự hoa đình.
Chánh Cung có tỏ tình, áo cùng hòm đều mất.
Việc nầy tôi nghiệm thật, lẽ nọ ắt chẳng sai.
Còn một bức thơ phong, coi thời tường tâm sự.
Ngự Đệ, đọc thơ:
Thọ Lão ông là chữ, quê nhà ngụ Lãnh Trang.
Nhơn chưng khi du thủy, bèn vớt đặng một hòm.
Giở thấy một trai một gái.
Ai là thân ai là thích, nhìn lấy áo lấy hòm.
Phải vương đế theo dòng vương đế, phải công tôn theo (KL–54) dự công tôn.
Vài hàng chữ mực, một tấm lòng son.
Lại nói:
Thọ Lão ông ngụ tại Lãnh Trang, quả Thứ Hậu Minh Châu thân phụ.
Trai cốt nhục in hình Tống chúa, gái tư dung giống dạng Hoàng Phi.
Kíp đề huề vào chốn đơn trì, dưng Minh Đế bạc vàng chẳng kể.
──────
16. Kim Long Xích Phụng trùng phùng cha mẹ.
Vương:
Ba giềng sửa trị, một mối kỷ cương.
Trên sánh chúa Võ Thang, dưới tôi phen Y Doãn.
Nay trẫm ngự hành chánh sự, vắng hoàng Ngự Đệ nhập trào?
Ngự Đệ:
Trước bệ phụng khấu đầu, vọng long đình vạn tuế vạn vạn tuế.
Lại nói:
Cúi tâu ngọc bệ, ngữa dộng long đình.
Nhơn ngày lành tháo luyện võ binh, gặp hai gã xông vào phá trận.
Tôi bèn thấu đặng, có vật tùy thân.
Trong hòm có bức thơ phong, cẩm bào dệt long phi phụng võ.
Tư chất nhắm trai in Tống chúa, cốt cách nhìn gái giống Hoàng Phi.
Xin nhắm thửa vật kia, mà nghiệm chưng thơ nọ.
Của có người có (KL–55), tang đây tích đây.
Nghiệm sau trước thời hay, ngõ đặng suy khúc trực.
Vương:
Chốn Lãnh Trang nhà bạc, nơi Thọ Lão quê hương.
Như cẩm bào tang đã quả tang, còn long tích nghiệm chưa xong tích.
Quân báo:
Điện tiền bồ bặc, các hạ khấu đầu.
Một tiếng sấm rền lâu, hoa mãn thành nở hết.
Vương:
Tích nọ nghiệm chưa xong tích, điềm nầy trời mới ra điềm.
Lời phán trước điện tiền, chư khanh nghi trực tấu.
Thị Lang:
Cúi bày lòng sấu, ngửa tạn mặt rồng.
Thuở mộng ứng Thứ Cung, điềm long phi phụng võ.
Đột nhập thể y thuở nọ, gói phong long tử khi nầy.
Trong có gái có trai, nên một rồng một phượng.
Thứ Phi oan tội trọng, nên hoa bế nhụy phong.
Trời đất khiến động lòng, mới ứng điềm dậy sấm.
Cảnh người hiệp ứng, thành nội hoa khai.
Cứ điềm mộng tâu qua, xin lượng trên xét lại.
Lân Hầu: (KL–56)
Quan Binh Bộ vượt tâu chẳng ngại, trong triều đình không tưởng có ai.
Sao ngươi biết đặng lòng trời, nên nỗi man tâu thiên tử.
Ngự Đệ:
Thái Sư quen lộng ngữ, Thừa Tướng dám ngoa ngôn.
Thị Lang tâu có lượng chí tôn, ngươi sao dám quở quan Binh Bộ.
Trước không kiêng lượng chúa, lại khinh phép triều đình.
Chớ uốn thửa lưỡi kia, mà đầu rơi sân nọ.
Vương:
Khuyên Ngự Đệ giảm cơn thạnh nộ, tha Thái Sư vượt tấu triều nghi.
Truyền hoạn quan tới chốn lê viên, tha Thứ Cung vào nơi ngọc các.
Thứ Hậu:
Muôn ơn thánh đức, xét tới ngu tình.
Vạn vọng lượng thánh quân, nguyện Tống triều thiên tuế thiên thiên tuế.
Vương:
Một là thiên ý, hai nữa vận thời.
Dầu xét đặng tội kia, cũng vì chưng điềm ấy.
Đất bằng sấm dậy, thành nội nở hoa.
Mười năm vắng bông gương, một giờ sao nở nhị?
Thứ Hậu: (KL– 57)
Muôn ơn thánh đế, xin xét ngu tình.
Thuở thọ tội trào đình, có nguyện cùng trời đất.
Con tôi dầu khỏi thác, hai vú sữa xin căng.
Như sau dầu mẹ có hiệp con, thời thành nội trăm hoa sẽ nở.
Chỉ nơi có thuở, mẫu tử đoàn viên.
Hoa nở đã làm tin, con sao chưa thấy dạng?
Vương:
Nay Thứ Hậu lời tâu nghiệm hản, cũng như lời Binh Bộ chiết minh.
Vì long phượng nhập thành, nên bách hoa cạnh phát.
Tâm trung đích xác, cho vú sữa kia.
Kẽo dạ Hậu còn nghi, lòng trẫm đà không ngại.
Thứ Hậu:
Hoạn quan mau đem lại, hán tử uống nước nầy.
Xưa lời nguyền đã có cao dày, nay như nguyện mới rằng khí huyết.
(Long Phụng uống sữa.)
Long, Phụng:
Nhứt sản chi ly mẫu, sâm thương kỷ tải niên.
Nguyện hoàn lôi chấn phát, vọng chứng cáo hoàng thiên.
(Sấm động.)
Bá quan:
Thị thiên cơ ứng hội, đắc mẫu tử đoàn viên.
Quả Tống triều (KL–58) nhứt thống, kế thánh vận trường miên.
Vương:
Cho hay phước tại nhãn tiền, mới biết cơ thâm tồn lưu hậu.
Như cớ sự nầy:
Một cấm viện cừu thù điên đảo, hai mật cung tật đố mưu toan.
Khiến cho tuyệt tích con rồng, xui nỗi chia lìa mẹ phụng.
Giao cung viện Chánh Cung thẩm vấn, phó Thứ phi Ngự Đệ áp tra.
Hòm cớ sao trôi tại Vị hà, áo bào lại ở nơi Hoàng tử?
Phượng võ long phi thời đó, hắc lang bạch thố về đâu?
Tra cho rõ đuôi đầu, nghiệm cho tường cội rễ.
Ngự Đệ:
Khâm thừa ngọc bệ, phụng lịnh thi hành.
Thứ Hậu:
Khép nép trước đơn đình, làn-đan nơi giá ngự.
Xin mở khơi lượng chúa, mà đoái xét đạo tôi.
Trong cung viện nhiều người, máy tà gian khó biết.
Tuy cao soi nhựt nguyệt, cũng nan chiếu phúc bồn[57].
Kẻ không tội mà phải oan, người thiệt gian mà khỏi hại.
Mẹ con đặng vuông tròn một hội, (KL–59) rối Tống triều đồ sộ ngàn năm.
Kẻ gian tà dầu có nhẫn quên, trong trời đất cũng đà biết dạ.
Tha Cung Viện lời truyền cứu quả, nhọc khanh quan thừa lịnh áp tra.
Xin một thuở phước dư, nhờ ngàn năm đức trọng.
Vương:
Tiên trị quốc dĩ công minh luận, hậu tề gia tùng gián như lưu.
Thứ Hậu đà bố đức ân thi, lượng thánh cũng khoan hồng đức trọng.
Lại nói:
Nay đặng hiệp sanh thành nghĩa trọng, phải tưởng câu cúc dục thâm ân.
Lãnh ấn rồng nấy gã Thị Lang, trương tán phụng rước Hoàng ngoại tổ.
Thị Lang:
Vâng cửu trùng nấy phó, lãnh vạn đội thừa hành.
Vương:
Trẫm trở lại hoa đình, chư công lui ngọc các.
──────
17. Thọ Lão Ông vui thú điền viên.
Thứ Hậu:
Nhờ trong trời đất, đặng hiệp mẹ con.
Nay lịnh sai Binh Bộ Thị Lang, lên Trang Lãnh rước Hoàng ngoại tổ.
Xưa bảy kỷ chẳng về cùng chúa, nay tám tuần há dễ hồi trào. (KL–60)
Thú vui ưa thú nguồn đào, tình chẳng quen tình dinh liễu.
Âu ta riêng liệu, chẳng khá chậm toan.
Vàng trăm lượng đem sang, gởi cho quan Binh Bộ.
Thể nữ qua thưa cho rõ:
Phiền cùng một thuở, há dể mấy phen.
Cảm thửa tình trong nghĩa chở che, rằng bà kính gởi dưng dưỡng lão.
Kim Long:
Nay ta đặng hưởng nhờ phước hậu, dám khuất niềm nghĩa dưỡng thâm ân.
Đại lượng phụ hoàng, sai lên rước Hoàng ngoại tổ.
Tóc phơ bạc chi tham quyền chúa, da điểm mồi dễ chác lộc vua.
Tuổi tám mươi sợ nỗi thân cô, cấp mười gã tùy tòng sai bát.
Như dầu có phong vân mạc trắc, đã sẵn người thần tĩnh mộ khan.
Kíp dời gót cấm chương, đặng sang dinh Binh Bộ.
Quân báo:
Thân đại quan đặng tỏ, có Hoàng tử tới dinh.
Thị Lang:
Hoang mang ứng tiếp hoa đình, bồ bặc thỉnh lai cẩm trướng.
Hoàng tử:
Nghe lịnh sai lão tướng, rước ngoại tổ lãnh trang. (KL–61)
E tác cao ý muốn thừa nhàn, sợ dùi-thẳng khiến nên biếng bước.
Vậy phải bèn liệu trước, cấp mười gã bộ thần.
Phòng khi bất trắc phong vân, sẵn kẻ thần khan mộ tỉnh.
Thể nữ:
Chúng tôi vưng lịnh, Thứ Hậu người truyền.
Vàng trăm thoi giao tại thượng quan, của trọng kính dưng Hoàng ngoại tổ.
Thể nữ:
Vưng lời truyền Công nữ, tới thân quá Đại quan.
Áo thái gởi hai hòm, lễ kính dưng ngoại tổ.
Hoàng Tử:
Lời hơn thiệt phiền quan Binh Bộ, mẹ con tôi lạm bái ngoại tôn.
Dưng hai chữ tăng long, hưởng một câu hạc toán[58].
Ngươi dời chưn sơn thượng, ta trở lại cung trung.
Khuyên lòng đó ân cần, kẻo tình đây sở mộ.
Thị Lang:
Vội trương tán phượng, kíp dẩy xe loan.
Thẳng chỉ tới Côn Cương, đặng rước Hoàng ngoại tổ.
Hát nam:
Đặng rước hoàng ngoại tổ,
Phỉ lòng mừng Tống tộ đoàn viên. (KL–62)
Như vầy mới gọi là hiền,
Hết lòng phò chúa hiên mài trung tâm.
Nghĩa đỡm tôn chốn trào ca,
Phút đâu đã tới gần kề Côn Sơn.
──────
18. Mộng cướp ngôi, Lân Hầu thông đồng cùng Phiên quốc.
Lân Hầu:
Căm Ngự Đệ ngồi không yên chỗ, giận Thị Lang ăn chẳng biết mùi.
Ấy vậy mà:
Tưởng Tống trào dứt ngọn dứt chồi, hay Minh Chúa vững cây vững rễ.
Kế trước không nhằm kế, mưu sau phải trúng mưu.
Lo chi muộn chặt đầu, cũng có ngày vỡ mật.
Lại nói:
Bộ thần đem bút mực, đặng ta tả tờ chương.
Qua khỏi chốn giới cương, khá giao cho Phiên quốc.
Đề binh phấn lực, nội ứng ngoại công.
Một mai dầu thâu đặng Tống trung, thời ta sẽ giao cho quận ngoại.
Bộ Thần:
Trên người đà cậy dạ, dưới tôi phải hết lòng.
Trực chỉ vọng Quan Trung, bạt thiệp lai Phiên quốc.
Hát khách:
Gia tiên khóa mã vọng Phiên bang,
Bạt thiệp khinh thân vạn lý san.
Đới nguyệt phi tinh tu tận chí, (KL–63)
Trất phong mộc võ đắc phương danh.
Kính chúc Nam triều hô vạn tuế,
Thái bình thiên tử thái bình dân.
⁂
Hồi 3: CHÁNH BIẾN – BINH BIẾN
(lớp 19-28)
──────
19. Thọ Lão Ông vui cảnh đoàn viên.
Thị Lang:
Điềm trời gây một mối, nước ứng rõ hai sao.
Khuôn phò vận Tống trào, quyền Thị Lang Binh Bộ.
Vưng lịnh trên thánh chúa, rước ngoại tổ Lãnh trang.
Truyền bộ tướng gát yên, vọng Côn Sơn tiến phát.
Hát nam:
Bộ tướng Côn Sơn tiến phát,
Cảnh ưa nhìn vẻ lạ phong quang.
Tán:
Đản ước Côn Sơn phá thạch,
Thùy tri Vị thủy thâm uyên.
Vân lộ vô tâm tại,
Nhựt nguyệt hữu trường minh.
Hát nam:
Phỉ mừng nghiệp Tống vững bền,
Nối ngai bệ phụng đặt an dân nhàn.
Thọ Lão:
Trẻ từ dời gót Tống bang, lão luống trông nơi bổn lý.
Xưa hôm sớm hai con hằng hủ-hỉ, nay tháng ngày một lão rất bơ-vơ.
Ví dầu mà đặng mẹ đặng cha, đi há dễ quên niềm ông cháu?
Quân báo:
Dám thân qua trước giạu, (KL–64) có quan tới ngoài hiên.
Thọ Lão:
Hoang mang thỉnh nhập hoa đường, tiếp túc huề lai thảo xá.
Thị Lang:
Nay Tống trào bệ hạ, ban sắc tứ kim ngôn.
Loan xa tựu Côn Sơn, đặng rước Hoàng ngoại tổ.
Thọ Lão:
Phút nghe qua lời nọ, chỉn mừng thửa dạ nầy.
Lịnh Hoàng Phi trổ nữ hay nam, cho lên rước ông về cùng cháu?
Thị Lang:
Kim Tống thất miên trường vĩnh bảo, phước hậu roi một gái một trai.
Tích cẩm bào trong có thơ bày, mới rõ đặng thiệt là long tử.
Nhơn nay bà Thứ Hậu, dưng trăm nén vàng ròng.
Quân mười tên mật tín Tử Hoàng, để hôm sớm cấp cho ngoại tổ.
Còn Hoàng nương công nữ, dưng áo thái hai hòm.
Đỡ khi ngăn tuyết chống sương, đồng dưng chữ linh qui hạc toán.
Thọ Lão:
Tích thiện sách bày đã hản, phước lai thánh đặt không lầm,
Cho hay trời đất khéo xoay vần, (KL–65) mới biết thế thời tráo-chác.
Thượng quan có phản hồi kim khuyết, rằng lão phu vạn vọng hoàng ân.
Các vật dùng thời lão xin vưng, như bằng sắc thời già dưng lại.
Nguyện minh quân vạn tải, kim phước thọ nhứt gia.
Thú vui ngao-ngán chốn rừng già, tánh lạ ra vào nơi dinh liễu.
Thị Lang:
Lượng ngoại tổ tấm lòng sở liệu, dễ hạ thần tấc dạ ép-uông.
Ngoại tổ đà an chốn Côn Sơn, cho thần hạ phản hồi trào nội.
──────
20. Nối kết với Lân Hầu, Phiên quân khuấy loạn biên thùy.
Bốn Phiên tướng:
Lẫm liệt hùng phong đoạt chí cường,
Hoành khai diệu võ phấn kim thương.
Tồi phong nhứt chỉ vô song địch,
Hãm nhuệ thiên viên mạc cảm đương.
Cao Xà, bạch:
Ban sư xuất lữ định phong cương,
Bách chiến công thâu cá cá hàn.
Củ củ phiêu phi khống hổ cứ,
Hoàn hoàn nỗ lực phấn long nhương.
Lại nói:
Định nhứt thống Phiên vương, Ngã Cao Xà hộ tá.
Quân báo:
Dám tâu nơi các hạ (KL–66), cho tỏ nỗi hung trung.
Có Thừa Tướng bộ thần, mật thư lai Phiên quốc.
Bộ thần:
Tôi nay bộ tốt, ở với Thái Sư.
Dạy đem bức mật thư, tâu đại vương khán quá.
Cao Xà:
Quan tường tự sự, thử lý tương thông.
Khoái-khoái dã tâm trung, hoan-hoan tai ngô ý!
Lại nói:
Ngươi trở về thưa lại, ta y thử mật thư.
Chốn ải quan mặc mỗ hưng sư, nơi chiến địa thời chàng phấn lữ.
Bộ thần:
Đạo làm thần tử, há dễ từ nan.
Vạn vọng đức đại vương, hạ thần hồi kinh địa.
Cao Xà:
Truyền vạn đội chỉnh tu nhuệ khí, rao thiên viên kiểm điểm mã yên.
Y nhứt lịnh hưng chinh, tựu Đồng quan đoạt giới.
Quân ca:
Hoàn hoàn dũng lực chấn kim thương,
Dược mã huy kỳ liệt bố trương.
Trực chỉ Đồng quan thâu giới khẩu,
Đoạt lai Tống địa định Phiên bang.
⁂
Vương: (KL–67)
Trên ba giềng đặt vững âu vàng, dưới trăm họ lại an con đỏ.
Nay ải ngoại khuyết quan trấn thủ, lấy ai ngăn giới khẩu Phiên bang?
Lời trẫm hỏi bá quan, ai lãnh ra thế trấn?
Quân báo:
Chúng tôi dân thứ, ở chốn Đồng quan.
Binh Phiên vương trực tiến ải lang, đoạt giới khẩu phá tan dân nhạn.
Vương:
Loài hồ nhung tác bạn, đảng di địch nghịch thần.
Đã dung cho ngoài quận an thân, nay còn hãy xâm lăng phản diện.
Xuống kim ngôn trước bệ, nấy[59] Ngự Đệ đương chinh.
Ra trừ đảng hươu thành, ngõ dẹp an cáo lũ.
Ngự Đệ:
Khâm thừa ngọc chiếu, phụng lãnh kim ngôn.
Lân Hầu:
Nghiêng mình dưới sân đơn, cúi đầu tâu các hạ.
Giặc Phiên quốc mãn sơn tắc dã, Tống trào sai đơn tướng cô binh.
Xin quan phòng Trịnh Hổ tiếp chinh, dữ Ngự Đệ hiệp công liệu địch.
Thời,
Vả quân Phiên tặc, ô hợp chi binh. (KL–68)
E khi mãnh hổ nan chinh, sợ nỗi quần hồ hỗn địch.
Vương:
Nhậm lời tâu giá ngự, phó Trịnh Hổ tiếp chinh.
Tua triển chí bình sanh, khá tận tâm báo chúa.
Ngự Đệ, Trịnh Hổ:
Hai tôi vưng ấn hổ, một lịnh lãnh binh lang.
Dương cờ tham trực chỉ ải lang, day cán Đẩu tương binh giới khẩu.
Quân của Ngự Đệ ca:
Dương xích xí dương xích xí,
Chấn kim thương chấn kim thương.
Sách thần mã tận trừ bắc khấu,
Bố tinh kỳ thâu thủ Phiên bang.
Quân của Trịnh Hổ ca:
Phi thiết giáp, phi thiết giáp,
Chỉ kim qua chỉ kim qua.
Quyết nỗ lực tồi khô phá trúc,
Cử hùng binh tẩu thạch phi sa.
⁂
Cao Xà:
Bội mừng chào Ngự Đệ Tống gia, ra giới khẩu nộp đầu cho Phiên quốc.
Ngự Đệ:
Loài hồ nhung múa mỏ, đảng di địch khua môi.
Quyết một trận dương oai, cho biết tài thần võ.
Cao Xà:
Dư trăm hiệp bất phân thắng phụ, hội nhứt trường vị thức bại thành.
Kỳ minh nhựt, khai binh, (KL–69) tựu Đồng quan giao chiến.
Lại nói:
Khen Ngự Đệ tài cao quyền biến, ta phải toan diệu kế thâm mưu.
Nhơn thừa cơ phế thửa thành đồng, chàng đắc thắng nhập vu quách nội.
Điện tiền hậu bối, tả dực hữu công.
Bát hướng bố tinh kỳ, tứ phương đều vây phục.
Cơ quan nghi dụng tốc, binh pháp vật duy trì.
Y thử kế thi vi, tựu Quan Trung giao chiến.
Lại nói:
Khen cho chàng nhớ hẹn, hiệp chiến đã phải kỳ.
Nguyện triển chí thần uy, cho biết tài thượng thủ.
Ngự Đệ:
Phiên tặc đà đào lộ, truyền Tống tướng nhập thành.
Ngõ biểu tấu trào đình, sẽ chiêu an lê thứ.
Cao Xà:
Truyền tam quân phấn lữ, rao vạn đội hưng công.
Bán dạ phục thành Đồng, tứ canh vây ải ngoại.
Tống quân:
Đại bại đại bại, chí nguy chí nguy!
Phiên binh hãm trùng vây, khất khai thành cự địch.
Ngự Đệ:
Thính thuyết tam (KL–70) hồn loạn lạc, nga văn thất phách phiêu phi.
Quả thành nội tứ phương vi phục, phá vi trung bát hướng giao công.
Rối-rắm tựa tơ mành, ngặt-nghèo dường chỉ thắt.
Phép binh vô dụng tốc, dụng tốc tắc bất thông.
Truyền tam quân cẩn thủ thành Đồng, chờ Trịnh Hổ binh lai khai chiến.
Cao Xà:
Cả tiếng kêu Tống tướng, ra địch với Phiên bang.
Đã hết sức hưng dương, đừng khoe tài dũng dược.
Tam quân!
Khá quan phòng nghiêm mật, đợi hùng binh Trịnh Hổ hiệp công.
Khi ấy sẽ giao phong, mặc dầu ta hãm chiến.
Quân Tống:
Chúng tôi vưng lời dạy, tuần do tới Phiên binh.
Ngự Đệ đã bế thành, binh thường khiêu chiến.
Trịnh Hổ:
Kiến cơ tắc biến, tư hữu chế công.
Tả biểu văn hồi tấu trào trung, xin binh tiếp giải vây Ngự Đệ.
Quân nhơn:
Lịnh trên đà mật chỉ, chúng dưới chịu tiếng tơ.
Trực vọng phản trào đô, kiêm hành hồi (KL–71) kinh địa.
Hát khách:
Kinh địa kiêm hành bộ bộ khinh,
Na từ vạn lý đới phi tinh.
Báo lai Ngự Đệ trùng vi nhược,
Tống tướng khất đương tiến tiếp chinh.
──────
21. Nơi biên địa Ngự Đệ bị Phiên binh vây khổn.
Vương:
Ngự Đệ từ ra phạt Phiên binh, biệt âm tín báo lai Tống quốc.
Tống quân:
Cúi tâu dưới gác, ngửa dộng bên ngai.
Ngự Đệ nay thành nội bị vây, Trịnh Hổ phải biểu tâu cứu cấp.
Vương:
Căm thay loài phản tặc, giận bấy đảng hồ nhung.
Ngự đệ đà bị hãm thành Đồng, Trịnh Hổ lại đơn binh nan chiến.
Nay biểu hồi cứu viện, ai lãnh mạng đương tiên?
Hoàng Tử:
Ríu quì trước bệ tiền, làn-đan nơi các hạ.
Con xin lãnh tam thiên nhơn mã, quản hùng binh vạn đội tiếp chinh.
Trước giải vây hoàng thúc hãm cô thành, sau là phạt Phiên bang thâu quan ải.
Vương:
Phó cho vạn đội, quản suất thiên viên.
Ra trừ đảng bắc Phiên, chớ dung (KL–12a) loài Hồ khấu.
Hoàng Tử:
Trên phụ hoàng truyền giáo, dưới ấu tử thừa hành.
Lãnh vạn đội hùng binh, tựu Đồng quan giải chiến.
Lại nói:
Truyền tam quân vưng lịnh, rao vạn đội bày khai.
Dược mã phấn thần oai, huy kỳ lai Phiên quốc.
Quân ca:
Dương oai hổ lữ chấn nguy nguy,
Dược mã huy tiên tiến bộ phi.
Cử bác an bang trừ tặc khấu,
Hùng binh tiếp chiến giải trùng vi.
Quân báo:
Chúng tôi thừa văn biểu cao phi, hồi bẩm tấu xin binh giải trận.
Lịnh trên nấy ấn, Hoàng Tử tiếp chinh.
Cấp vạn đội hùng binh, tựu Đồng quan hiệp chiến.
Trịnh Hổ:
Nhân mưu như nguyện, thiên lý tòng tâm.
Chú gã đà mắc chốn đầm rồng, cháu nay lại tới nơi hổ huyệt.
Truyền vạn đội chỉnh tu phủ việt, rao tam quân tàng phục tiển cung.
Tiếp Hoàng Tử trại trung, văn ngô mệnh trịch bôi vi lệnh.
Lại nói: (KL–13a)
Hoang mang ứng tiếp lộ tiền, thỉnh nhập giải lao trướng hạ.
Hoàng Tử:
Truyền hùng binh nhơn mã, phân các trại giải lao.
Nội ba ngày kiểm điểm binh đao, ngũ canh mãn tiến binh giải chiến.
Trịnh Hổ:
Truyền quân khai tiểu yến, lễ mừng mặt trừ quân.
Dưng một ve chống tuyết đỡ sương, kính ba chén dày sành đạp sỏi.
Hoàng Tử:
Ngoài thành vây quân sói, trong tiệc uống chén tê.
Ngươi là người phụng mạng tới đây, thành bại để ngồi mà coi đó.
Trịnh Hổ:
Mưu tôi đã binh bày tướng bố, chờ tướng trào hiệp chiến trùng vây.
Nay Tử Hoàng phụng mạng tới đây, thời thần hạ ra tay trừ đó.
Hoàng Tử:
Coi nỗi loài săng cỏ[60], lòng mống[61] hại hùm rồng.
Giải y phá tịch trung, bạt kiếm lai cự chiến.
Trịnh Hổ:
Dĩ quyền vi biến, niên thiếu lực cường.
Quyết đây đó một trường, nguyện mất còn nửa khắc. (KL– 74)
Lại nói:
Quả anh hùng dũng dược, chơn hào kiệt vô song.
Phá thiên binh hãm nhuệ tồi phong, khai vạn đội long hành hổ bộ.
Nó đã tìm phương sanh lộ, truyền quân dược mã tiến truy.
──────
22. Chốn ải đầu, Lâm Sanh cứu Tử Hoàng.
Lâm Sanh:
Mẹ từ ngày cỡi hạc xa chơi, con đòi bữa gối loan trằn-trọc.
Ta dầu đặng thảo ngay nhà bạc, cũng nhờ vì ơn kẻ giúp vàng.
Lời dặn ta chiêu tập Lương sơn, phòng giúp chúa đợi thời kinh tế.
Đặng một người dũng sĩ, cùng trăm đội hùng binh.
Nghĩa còn ghi tấc dạ hỡi đinh-ninh, tình chưa báo tấm lòng hằng khoăn-khoái[62].
Chầy ngày nhớ tới, bạn cũ hàn huyên.
Tạ mộ phần an tại Bàn Khê, đới bửu kiếm kiêm hành vội dạo.
Hát nam:
Bửu kiếm kiêm hành vội dạo,
Trước linh mồ vọng cáo từ thân.
Xúc lòng tách dặm phăng phăng.
Đã xông dấu thỏ lại lần đường dê.
Lại nói:
Do hà hạ thú bôn trì, hà ý thượng cầm phi tán? (KL–75)
Một là người săn bắn, hai là giặc Tây Phiên?
Âu ghé lại cội tùng, đặng xem chơi sự lý.
Quân của Trịnh Hổ ca:
Phi kỳ ký phi kỳ ký,
Phấn uy dương phấn uy dương,
Khống thần lực mạc đào tử lộ.
Bố tinh kỳ nan thoát sanh phương.
Lâm Sanh:
Quả Tống binh chẳng phải Phiên bang, vi đại tướng hà truy tiểu tử?
Trước một người nho-nhỏ, sau muôn đội ầm ầm.
Kíp theo cứu lấy chàng, kẻo thương người tuổi trẻ.
Lại nói:
Khoan-khoan dong vó kỵ, chớ-chớ vội kim thương.
Vả ngươi đứng đại nhơn, đuổi làm chi tiểu tử?
Trịnh Hổ: (KL–76)
Thằng nầy nên cắc-cớ[63], đón mỗ hỏi dị kỳ.
Vừa-vừa đừng hỏi việc trào nghi, mau mau ghé, ta theo Hoàng tử.
Lâm Sanh:
Ta người trong thủy thổ, thời phải báo quân vương.
Ngươi trở về thời đặng toàn xương, bằng theo đó thời chàng rụng quách.
Trịnh Hổ:
Phút nổi cơn tích lịch, bèn hóa trận lôi đình.
Quyết một trận giao chinh, truyền tam quân hỗn chiến.
Lại nói:
Khá khen cho một tướng, thoát khỏi chốn muôn binh.
Truyền vạn đội hùng binh, theo hai chàng nã tróc.
Lâm Sanh:
Ớ ớ người chạy trước, chờ chờ mỗ theo sau.
Phải người vị Hoàng Tử Tống trào, tôi xin dõi theo làm túc hạ.
Hoàng Tử:
Xem người thời lạ, sao đặng rõ lòng.
Bỏ chi khi nảy trận trung, cứu mỗ trong cơn mã hạ.
Lâm Sanh:
Bởi vì tôi ngăn gã, lời bèn hỏi lại chàng.
Nó bảo tôi ghé khỏi bên đàng, đặng cho nó đuổi theo Hoàng Tử. (KL–77)
Rồng mây đà gặp thuở, hùm gió lại phải thì[64].
Xin Tử Hoàng lộ thượng cao phi, mặc thần hạ ngăn binh trở tướng.
Trịnh Hổ:
Phen nầy không phép biến, khi nảy hỡi ẩn hình.
Quyết một trận giao chinh, bắt hai chàng trên ngựa.
Lại nói:
Nó đà đoạt lộ, viễn tẩu cao phi.
Truyền chúng tướng huy kỳ, theo hai chàng nã tróc.
──────
23. Minh quân thăng hà, Kỳ Hương phò Thứ Hậu đào sanh.
Kỳ Hương:
Trong Minh Chúa chẳng an gối ngọc, ngoài Tử Hoàng giải chiến thành Đồng.
Như Thánh hoàng nghiêng ngửa xe rồng, ắt Trịnh thị cướp chưng ba vạc.
Trong trào Tống gẫm đà ít mặt, có chăng còn một gã Thị Lang.
Lấy ai phò Hoàng Hậu Công Nương, lấy ai báo Tử Hoàng, thân phụ?
Âu ta sang đó, nom thửa ý chàng.
Quốc loạn thức thần trung, gia bần tri hiếu tử.
Thị Lang:
Nay Hoàng thượng không an một giấc, khiến hạ thần thốn-thức năm canh.
Xem Trịnh gia nhiều kẻ vuốt nanh, (KL–78) dòm Tống thất không người vây cánh.
Xe rồng nhẫn trên dầu trở bính, mủi bạc mong dưới nó huy thương.
Không ai phò Mẫu Hậu với Hoàng Nương, không ai báo Tử Hoàng cùng Ngự Đệ.
Một mình luận nghị, hai lẽ đắn-đo.
Thiệt hơn khó ba lo, tới lui khôn bảy liệu.
Túng-tíu[65] tợ cá kia ở chậu, hẹp-hòi dường chim nọ mắc lồng.
Đặng thua trong dạ khó toan xong, thành bại khoanh tay ai kể mặt?
Kỳ Hương:
Tôi ái nhi Ngự Đệ, thiếp biểu tự Kỳ Hương.
Xin đó hỡi ba lo, đây chịu trong một liệu.
Phò Công Nương cùng Thứ Hậu, một tay thiếp toan đương.
Còn thân phụ với Tử Hoàng, hai người ai toan liệu!
⁂
Nội thị:
Nay Thánh Hoàng di chỉ, Minh Chúa đã xa băng.
Xin lão tướng nhập cung, đặng nghị trong chánh nước.
Kỳ Hương:
Tâm hoảng hốt tâm hoảng hốt, sắc đê mê sắc đê-mê.
Kham thán dã vận thời, thị nạn lâm nguy hỹ! (KL–79)
Thị Lang:
Đừng đừng rơi lệ, chớ chớ lời than.
Nghe lão dặn:
Phò Thứ Hậu Công Nương, tựu Bàn Khê sơn thượng.
Tôi có người nghĩa bạn, tên là Bửu Lâm Sanh.
Gã cùng tôi kết nghĩa đệ huynh, như đứng ấy nên trang dũng sĩ.
Ví dầu chàng ngại ý, có mật ký đặng tường.
Sẽ thẳng tới ải Đồng, hiệp Tử Hoàng Ngự Đệ.
Đêm khuya vắng vẻ, vả lại canh chầy.
Ngựa cất lạc hàm mai, hồi dinh mau thượng lộ.
Kỳ Hương:
Ta từ nơi trướng hổ, kẻo mắc chốn nan nguy.
Ngươi vào chốn đan trì, mựa đừng lời sơ lậu.
Lại nói:
Mau mau viễn tẩu, chóng chóng cao phi.
Kẽo mắc chốn gian nguy, mà lâm trong hỏa thán.
Hát nam:
Chóng chóng thoát nơi hỏa thán,
Phải lánh mình kình dợn vạc sôi.
Công chúa, hát nam:
Dạ héo-don vuông tròn có thuở,
Gian nan nầy thảm-thiết đòi cơn.
Thứ Hậu, hát nam:
Rấp ruông[66] đoạn thảm nỗi thương (KL–80),
Trên xe gảy bánh dưới hầu bơ-vơ.
Thị Lang:
Ta Tống đế, ta Tống đế, thống Minh Quân thống Minh Quân!
Xã tắc hà tảo đoạn, giang sơn khoảnh khắc phân?
Lại nói:
Hoạn quan mau kích cổ minh chung, bá quan tựu long lâu thương nghị.
⁂
Thái Sư:
Nghe Thiên tử chẳng an quý thể, việc chi nên kích cổ minh chung?
Đã đông mặt quần thần, tựu công đồng hà sự?
Nội thị:
Vả nay Thiên tử, án giá xa băng.
Vậy nên kích cổ đăng văn, ngõ đặng công đồng nghị sự.
Thái Sư:
Tường văn thử ngữ, thống dã ai bi.
Hà đoạn tam phân túc, kim triêu nhứt đán ly!
Thị Lang:
Thừa Tướng bớt ai bi, Thái Sư đừng thống khốc.
Rối trong nhà nước, gở đặng mới xong.
Chữ nhứt nhựt vô vương, ắt đảo huyền bách tánh.
Thái Sư:
Minh Quân đã xa rời cung thánh, quần thần toan chọn kẻ trạch hiền. (KL–81)
Lo là lo quyền đặt tạm hành, liệu sẵn liệu Tử Hoàng chấp chánh.
Thị Lang:
Lòng tôi sở định, lấy lẽ công bình.
Nay tới thời lỡ phải tạm hành, đà phải vận Thái Sư chấp chánh.
Thái Sư:
Thị Lang hay hay tính, Binh Bộ khéo khéo phân!
Sớm biết lẽ hưng vong, mau liệu đường bĩ thái.
Ấn rồng nạp lại, trạch nhựt tôn vương.
Đã in rập in khuôn, đáng làm tôi làm chúa.
Quân báo:
Chúng tôi tuần yếu lộ, thấy Thứ Hậu Công Nương.
Hiệp với ả Kỳ Hương, đồng một đoàn thượng lộ.
Thái Sư:
Xung thiên chi nộ, hỏa khởi tâm đầu.
Phó Trịnh Lang dược mã huy mâu, theo nã tróc mạc dung tặc tử.
Trịnh Lang:
Vưng lời giá ngự, thống lãnh binh lang.
Y nhứt lịnh hưng dương, quản hùng binh tiến phát.
Quân ca:
Nan tẩu thoát nan tẩu thoát,
Mạc đào sanh mạc đào sanh.
Phi thiết giáp tận trừ nữ tặc nữ tặc, (KL–82)
Chỉ kim qua triển lực giao công giao công.
⁂
Thứ Hậu, hát nam:
Quản bao đạp sỏi giày sành,
Riêng lo ấu tử bại thành nào hay.
Công Chúa, hát nam:
Cho hay sự khéo xoay vần,
Cồn xui nên vực, vực xui nên cồn.
Kỳ Hương, hát nam:
Riêng than đã tủi lại buồn,
Chúa tôi man-mác cha con lạc-loài.
Trịnh Lang:
Chào Thứ Phi, Công Chúa hai người, cùng một ả Kỳ Hương tôn điệt.
Khá thằng thân thọ phược, chớ để mỗ ra oai.
Thuận thì toàn mạng ba ngươi, nghịch ắt chẳng còn một xác.
Kỳ Hương:
Anh em mi phản quốc, bây thiệt đảng bội quân.
Quyết hiệp chiến trận trung, cho biết tài liệt nữ.
Trịnh Lang:
Tưởng nó đã lầm nơi hổ lữ, hay nàng đà thoát chốn hùng sư.
Truyền tam quân mau lập trận đồ, rao vạn đội bủa vây hỗn chiến.
Công Chúa :
Coi nỗi Trịnh Lang mưu biến, phân binh bố lập trận đồ.
(KL–83) Chị tiền trảm em hậu trừ, hóa tử môn vi sanh lộ.
Kỳ Hương:
Mau mau xa chạy, chóng chóng cao bay.
Mang sao đội nguyệt chi từ, chải gió tắm mưa dễ quản.
Hát nam:
Chải gió tắm mưa dễ quản.
Sá thân nầy lướt đạn xông tên.
Công Chúa, hát nam:
Hiểm nguy trước chị sau em,
Đã xông trận rắn lại chen binh hùm.
Thứ Hậu, hát nam:
Quản bao pháo đụt tên xông,
Xin con gặp mẹ kẻo trông tấm lòng.
Lại nói:
Đường tăm-tối lỡ chừng, nẻo ngửa-nghiêng khó bước.
Có đâu ít phước, họa rập thêm nhiều.
Binh Trịnh Lang chàng có đuổi theo, thời ta đã vô phương sở đảo.
Hồn Thọ Lão:
Ứng thinh không mách bảo, thân phụ hiệu Thọ Ông.
Sợ ấu nhi mắc chốn lưới hồng. E hoàng điệt lăm nơi đảng cáo.
Kíp kiêm hành vội dạo, nương đèn lãnh tùy tùng.
Kẻo bị đảng gian hung, đặng thoát nơi giặc dữ.
Thứ Hậu, Công Chúa: (KL–84)
Văn tường kỳ ngữ, cát dã ngô tâm.
Kham ta hồ tình ái, thống thiết nghĩa vưu thâm.
Kỳ Hương:
Vật lụy lâm vật lụy lâm, hưu thống khốc hưu thống khốc!
Dõi ngọn đèn tới trước, nương nẻo tắt theo sau.
Xông sương ngàn dặm mang sao, chải gió một đoàn nhẹ tách.
Hát nam:
Chải gió một đoàn nhẹ tách,
Trước sau tuôn dò cỏ vẹt gai.
Trịnh Lang:
Tới đây phai dấu ngựa người[67], khôn phép tìm sâu bẻ lá.
Truyền tam quân phản mã, tảo thời sẽ hồi thành.
Ngõ tâu dộng thánh minh, mặc lượng trên lịnh dạy.
──────
24. Chốn ải đầu, Lâm Sanh cứu Tử Hoàng.
Ngự Đệ:
Trông Trịnh Hổ dường nghê trông thụy, đợi cứu binh như hạn đợi dào.
Bỏ chi chàng yển tức binh đao, hiệp Phiên tặc quan kỳ động tỉnh.
Thị chánh tâm sở định, quả thử lý như nhiên.
Truyền chúng tướng khai thành, quyết nhứt trường cố chiến.
Cao Xà:
Phen nầy khôn phép biến, đà hết sức ẩn hình. (KL–5b)
Đây đó quyết bại thành, nguyện bất phân thắng phụ.
Ngự Đệ:
Xưa trong vòng chẳng sợ, nay ngoài trận xá bao.
Thề dược mã huy đao, nguyện bất phân phiến giáp.
Cao Xà:
Nó đà thất thế, thả chiến thả công.
Mau mau phất cờ tham, chóng chóng day cán Đẩu.
Lâm Sanh:
Lần theo điểu đạo, tách dặm dương trường.
Xin chúa công giục ngựa buông cương, mặc thần hạ ngăn thương đỡ vác.
Hát nam:
Mặc thần hạ ngăn thương đỡ vác,
Dạ chi nài thịt nát xương tan.
Hoàng Tử, hát nam:
No nao khai sáng nghiệp hồng,
Mổ gan Trịnh thị thời lòng mới ưng.
Trịnh Hổ:
Phen nầy khôn phép tái sanh, tua khá xuống yên thọ phược.
Lâm Sanh:
Đó dầu ròng ba lược, đây cũng lãu sáu thao.
Dược mã huy đao, đề thương phấn lực.
Trịnh Hổ:
Nên trang dũng dược, đáng mặt anh hùng.
Nó đà đoạt lộ bôn hành, (KL–6a) ta kíp trường khu trực tiến.
Hoàng Tử:
Ác đã tàn cung chấn, thỏ chưa lố non đoài.
Đường tăm-tối khôn dời, nẻo mịt-mù khó bước.
Ẻ khôn tới trước, khó nỗi lui sau.
Thăng thiên khiếm vũ mao, quật địa vô nha trão.
Hồn Thọ Lão:
Ứng thinh không dặn bảo, ta ngoại tổ Tử Hoàng.
Thấy cháu thơ mắc chốn gian nan, nên ông phải chỉ đường non thánh.
Cứ theo ngọn Lãnh, thoát chốn đao binh.
Mau mau khá thượng trình, chóng chóng noi trung lộ.
Hoàng Tử:
Ta ngoại tổ, ta ngoại tổ, cát nhục tôn, cát nhục tôn!
Kim triêu tình do tại, khoảnh khắc nghĩa lưu trường.
Lâm Sanh:
Vật bi thương vật bi thương, hưu thán khốc hưu thán khốc.
Phương ký kỳ giơ vọt, binh Trịnh Hổ bôn hành.
Nương đèn Lãnh giục yên, cho hạ thần tiến mã.
Hát nam:
Giục yên hạ thần tiến mã,
Nương ngọn đèn hổ bộ long phi.
Trịnh Hổ:
Trời tăm-tối khó đi, đá gập-ghình khôn bước. (KL–6b)
Nó đà nhẹ gót, ta khó theo chưn.
Truyền tam quân tạm trú thâm sơn, mai ta sẽ hồi tâu các hạ.
──────
25. Nơi biên thùy, Châu Võ Sĩ phò nguy Ngự Đệ.
Võ Sĩ:
Hoa Nhạc sơn quê ngụ, Châu Võ Sĩ tên ta.
Còn chờ thời chèo đỡ giềng ba, mới ra sức sóng kình dứt ngạc.
(Búa thần khua động.)
Lại nói:
Nhĩ văn khoái lạc, thần phủ ứng thinh.
Hảo hảo dã tôn linh, hoan hoan tai ngô ý.
Một là gặp quân thần hội chí, hai là thăm bạn cũ cố tri.
Đới thần phủ cao phi, vọng Bàn Khê khoái khứ.
Hát khách:
Trực vọng Bàn Khê khoái bộ khinh,
Trường đồ bạt thiệp mạc khả vi.
Sơn cách thủy cách tâm nan cách,
Tinh di nguyệt di chí bất di.
Quân Phiên ca:
Oai lẫm lẫm oai lẫm lẫm,
Chấn nguy nguy chấn nguy nguy.
Sách thần mã sanh cầm Ngự Đệ Ngự Đệ,
Tiến hùng binh tróc nễ đào phi đào phi.
Võ Sĩ:
Văng-vẳng nghe nhạc ngựa vang dầy, xa-xa thấy ngọn cờ lố xố. (KL–7a)
Trước một người một ngựa, sau thiên tướng thiên binh.
Kíp theo cứu người lành, đặng đỡ chàng khi ngặt.
Lại nói:
Chẳng phải người Trung quốc, quả thiệt đảng Phiên bang. Quen đoạt giới xâm cương, sao không kiêng có mỗ.
Ta người trong thủy thổ, thời phải báo quân ơn.
Dung cho ngươi trở lại cựu lân, không cho gã qua nơi Tống địa.
Cao Xà:
Gã nầy ngang ý, lời nói trái tai.
Đó đây quyết ra tài, nhứt trường dương đấu chiến.
Võ Sĩ:
Mới ra oai một phút, đà bắt đặng Phiên vương.
Ta cho về ngăn giữ thành Đồng, noi phép trước thường niên cống lễ[68].
Cao Xà:
Nay tướng quân ân tứ, dong sanh xá hồi bang.
Nguyện vi lân xỉ chi bang, y lệ thường niên cống lễ.
Võ Sĩ:
Những mảng theo trừ đảng Phiên bang, đoái lại chẳng thấy người Tống quốc.
Âu ta nối gót, gặp đó bày lời.
Cho hản lẽ khúc nôi, (KL–7b) cho biết người chơn giả.
Lại nói:
Khoan đã khoan đã, chớ đi chớ đi!
Ngươi là ai lăm chốn nan nguy, bị Phiên khấu khiến nên bôn tẩu thời phân thử nào!
Ngự Đệ:
Hàm thi đức hậu, đa tạ ân nhơn.
Tôi chi diệp Tống bang[69], kế Minh Quân Ngự Đệ.
Bị Thái Sư di kế, hiệp binh dữ Phiên bang.
Bị trùng vây phá chốn ải quan, đành giải trận thoát nơi quân lữ.
Phút may chàng tới, ngăn vác đỡ thương.
Ơn ấy tạc Nam Sơn, nghĩa nầy ghi Bắc Hải.
Võ Sĩ:
Thôn phu bách bái, miễn chấp ngu thần.
Tha Phiên vương về giữ ải Đồng, tuân phép trước thường niên cống lễ.
Tuy đã dẹp an Phiên khấu, song còn trào nội nghịch thần.
Xin theo tôi lên chốn Bàn Khê, thời có chỗ chiêu binh mãi mã.
Ngự Đệ:
Ta theo ngươi thượng lộ, thẳng tới chốn Bàn Khê.
Mau mau tách đường dê, chóng chóng trông dấu thỏ.
Hát nam:
Chóng chóng nhặt dong dấu thỏ,
Ngõ đem về thổ võ trùng quang.
Võ Sĩ, hát nam:
Chí lăm nghiệp Tống đặt an,
Chúa trị ngai vàng, tôi tạc đài son.
──────
26. Tất cả đoàn viên, phất cờ dựng nghiệp.
Kỳ Hương:
Đây đà khác nẻo Tống bang, phút đã gần miền Hoa Nhạc.
Nỗi phụ thân đắc thất, cùng thành bại Tử Hoàng.
Thẳng ra chốn Đồng quan, đặng hản trong lợi hại.
Hát nam:
Đồng quan hản trong lợi hại,
Kẻo tấm lòng thành bại nào hay.
Công Chúa hát nam:
Riêng than kẻ bắc người nam,
Mất còn khó biết, rủi may không tường.
Thứ Hậu, hát nam:
Ruột tằm đòi đoạn héo-don,
Anh em xa cách, cha con phân lìa.
Kỳ Hương:
Nhìn tường trước mặt ấu nhi, chỉn thiệt Thúc Hoàng thân phụ.
Công Chúa:
Văn lai thử ngữ, tâm nội chí hoan.
Chỉ thiệt Thúc Hoàng, thúc Hoàng chỉ thiệt.
Thứ Hậu:
Xem tường hản thiệt, nên nỗi mừng lòng.
Phụ tử hiệp nhứt trường, quân thần hà vị ngộ? (KL–8b)
Gian nan sau sẽ tỏ, nguy cấp phải trước toan.
Đặng tầm vấn Tử Hoàng, ngõ đem về đô cũ.
Kỳ Hương:
Người nào theo thân phụ, xin nói lại con tường.
Cho biết kẻ bạn hiền, hay là người hành lộ.
Ngự Đệ:
Nhơn vì thuở giải vây lưới thỏ, bèn gặp chàng xông đỡ binh lang.
Theo cùng cha lên chốn Bàn Sơn, đã sẵn chỗ chiêu binh mãi mã.
Võ Sĩ:
Đây là nơi sơn hạ, ba dặm tới Bàn Khê.
Một đoàn tôi chúa đề huề, ngõ đặng mách tầm Hoàng Tử.
Hát nam:
Ngõ đặng mách tầm Hoàng Tử.
Nguyện hai vừng chứng tỏ lòng ngay.
Lâm Sanh:
Vẳng nghe xao-xác tiếng người, ta dừng gót nom coi sự việc.
Hoàng Tử:
Ba người trước hản hình nhi nữ, hai gã sau thiệt dạng nam nhân.
Ta men lại cho tường, thời biết trong phải chẳng.
Lại nói:
Hản thiệt hản thiệt, mẫu hoàng mẫu hoàng. (KL–9a)
Kìa kìa chẳng Thúc Hoàng, nọ nọ là tiểu muội.
Bảy người cùng nói:
Thiên chi sử hội, nhơn đắc đoàn viên.
Đại khoái dã kỳ tình, chí hoan nhiên thử ý.
Thứ Hậu:
Chẳng hay nhị sĩ, danh tánh quê hương?
Cớ sao theo Quốc Thúc, Tử Hoàng, xem diện mạo oai phong tuấn kiệt.
Ngự Đệ:
Tôi xin bày hơn thiệt, cho bà tỏ nguồn cơn.
Ngày giải vây thoát chốn ải quan, vì có gã trừ yên Phiên tặc.
Hoa Nhạc Sơn nhà bạc, Châu Võ Sĩ tên chàng.
Nhứt thân đại đởm phá Phiên bang, bát trận đơn thân chơn dũng lực.
Hoàng Tử:
Con xin bày cội rễ, mẫu hoàng tỏ ngọn ngành,
Trịnh Hổ ngày di kế phục binh, nên ấu tử giải vây trại hạ.
Xảy bèn lâm trụy mã, nhờ có gã đỡ thương.
Trời nọ phút hoàng hôn, đường xảy nên tăm-tối.
Trên bèn nghe tiếng nói, xưng ngoại tổ Thọ Ông.
Bèn noi ngọn đèn hồng, (KL–9b), mới noi theo bạch thố.
Dầu đặng thoát nơi lửa đỏ, vì chàng xông đỡ khói đen.
Tên gã Bửu Lâm Sanh, Thạch Bàn Khê bổn lý.
Đã sẵn dành nhuệ khí, lại quy tập Lương sơn.
Đã đáng mặt phò bang, thiệt nên trang tế thế.
Thứ Hậu:
Phò Ngự Đệ diệu tai Võ Sĩ, bảo Tử Hoàng hảo dã Lâm Sanh.
Một mai dầu về tới Tống thành, nhị sĩ cũng thơm danh huê hạ.
Kỳ Hương:
Trực ngôn thử sự, kỳ lý y nhiên.
Có mật tín Thị Lang, nhắm quê hương danh tánh.
Ngày phân-vân trào chánh, Binh Bộ gởi mật thơ.
Phong kín nấy cho tôi, ân cần giao cho gã.
Lâm Sanh, đọc thơ:
Thị Lang Binh Bộ, mật ký từ vu. Nhứt chương bỉnh chiếu, lai dữ ân nhơn:
Nay Tống thất nghiêng triền xã tắc,
Phiền cùng ngươi chống đỡ giang sơn.
Vả Trịnh thị đa binh đa tướng,
Còn ta thời tướng thiểu binh đơn.
Xin hết sức trí thân báo chúa,
Phò 10a Hoàng Phi Công Nữ Công Tôn.
Hiệp ra chốn thành Đồng quan ải,
Ngõ giải vây Hoàng Thúc Tử Hoàng.
Trong trào nội kiến cơ có lão,
Mặc dầu khi diệt giả phò chơn.
Ba hàng chữ mực, Một dạ đá vàng.
Ngự Đệ:
Hảo hảo dã Thị Lang, hoan hoan tai Binh Bộ.
Đã hay rằng:
Chẳng ra sức hùng sư hổ lữ, thời lòng cũng hết tình trí chúa mưu vương.
Quốc loạn thức thần trung, gia bần tri hiếu tử.
Lâm Sanh, Võ Sĩ:
Nhơn nguyện như thử, thiên lý tùng chi.
Quân thần đã phải thì, hai tôi xin tá quốc.
Lâm Sanh:
Xin dời chơn đỉnh hạc, mà tới chốn Bàn Khê.
Đặng kiểm điểm tinh kỳ, ngõ chỉnh tu nhuệ khí.
Chiêu Lương sơn nghĩa sĩ, phân đội ngũ hùng sư.
Sẽ trực chỉ Tống đô, sát bá gia Trịnh thị.
Ngự Đệ:
Kẻ nương cật ký, người tách vó câu.
Tới đó liệu hưng sư, sẽ hồi trào phục nghiệp.
Thứ Hậu:
Tuy ba giềng xao-xác, toàn một hội chúa tôi.
Tướng sĩ đã sẵn ngôi, lương mã thêm tinh túc.
Phiền cùng Hoàng Thúc, lập đạo phân binh.
Ngõ thẳng tới đế kinh, đặng đem về Tống địa.
Ngự Đệ:
Xuống lịnh truyền tướng sĩ, đều nghe lão phân binh:
Lại nói:
Bửu Lâm Sanh lãnh mạng tiên chinh,
Công Nương lãnh tiếp binh hậu tập.
Kỳ Hương thời tả dực, Châu Võ Sĩ hữu chi.
Hộ trung quân bảo giá nhị xa, Suất vạn đội mã binh có lão.
Chữ đặt phụng thiên hành đạo,
Cờ đề Nguyên soái Tống gia.
Nhứt lịnh phục Trung Hoa, Tận tâm trừ Trịnh thị.
──────
27. Phe Tử Hoàng đại định, nhóm Lân Hầu tiêu vong.
Lân Hầu:
Chiếm ngôi càn vị, trẫm hiệu Trịnh vương.
Ngoài đã vững tám phương, trong còn lo hai gã.
Ngự Đệ cùng Hoàng Tử, lánh nạn dữ tha bang.
Chưa dứt đặng bổn căn, ắt cây đâm chồi nhánh chút ẽ!
Quân báo:
Sự bất tỉnh sự bất tỉnh, khốn chí nguy khốn chí nguy!
(KL–11a) Binh Ngự Đệ tiến chi, thị mãn sơn tắc dã.
Lân Hầu:
Thiên hạ đã về ta thiên hạ, binh quyền đâu lại trọng binh quyền.
Ấn tiên chinh nấy gã Trịnh Lang, trung quân phó cho ngươi Hổ Báo.
Phân vi nhị đạo, đồng tiếp chiến ứng chinh.
Hậu tập thời Trịnh Hổ Đốc Binh, y nhứt lịnh tảo trừ Tống tướng.
Ba Tướng cùng nói:
Khâm thừa nhứt lịnh, lãnh mạng thiên binh.
Ba tôi triển bình sanh, thệ bất từ vạn tử.
Lâm Sanh:
Tiên phong ấn nấy, ta Bửu Lâm Sanh,
chi nhọc phất cờ tham, lấy đầu treo mủi bạc.
Lại nói:
Mới ra oai một phát, Trịnh Lang đã rụng đầu.
Kíp dược mã huy đao, tiến binh lai thành hạ.
Trịnh Báo:
Ta nay Trịnh Báo, lãnh ấn Trung Quân.
Quyết ngọc thạch bất phân, thệ nan dung thốn thảo.
Võ Sĩ:
Mồ hôi chưa ướt giáp, Trịnh Báo đã mạng vong.
Truyền vạn đội tiến chinh, (KL–11b) tựu kim thành hỗn chiến.
Trịnh Hổ:
Phen nầy khôn phép biến, quen ngày trước đào sanh.
Mau mau khá trói mình, kẻo nhọc ta day vác.
Kỳ Hương:
Quyền đương hữu dực, thiếp hiệu Kỳ Hương.
Coi mặt mỗ cho tường, chém đầu ngươi trên ngựa.
Lại nói:
Nó đà vọng lộ, viễn tẩu cao phi.
Mau tiến mã đề, sanh cầm Trịnh Hổ.
Ngự Đệ:
Khá tua hạ mã, kẻo nhọc huy đao.
Thăng thiên khiếm vũ mao, quật địa vô nha trảo.
Lại nói:
Chém đầu Trịnh Hổ, chẳng kịp trở tay.
Truyền vạn đội tốc lai, rao tam quân trực tiến.
⁂
Lân Hầu:
Sai ba em ra trận, trong một lẽ bại thành.
Nhơn sao vắng hồi trình, lại tuyệt vô âm tín.
Quân báo:
Khổ biến khổ biến, nan đào nan đào!
Trịnh Lang Trịnh Báo trước rụng đầu, Trịnh Hổ sau thêm đà lạc quách.
Lân Hầu:
Nga văn thất phách, thính thuyết kinh hồn (KL–12a).
Cấp dã quả phệ tề, nguy tai chơn phản chưởng.
Ra trận đà hết tướng, thủ thành lại thiếu lương.
Lão quan hỡi Thị Lang, có mưu chi tâu thử?
Thị Lang:
Hễ đạo làm thần tử, thời phải báo quân ân.
Quốc loạn thức thần trung, gia bần tri hiếu tử.
Nghĩa áo cơm phải trả, đạo tôi chúa lo đền.
Truyền chư khanh nghe thửa lời min[70], bắt Thừa Tướng giao cho Hoàng Tử.
Truyền khai thành hạ, tiếp giá Tử Hoàng.
Rao đẳng đẳng trào ban, tựu trường thành lễ hạ.
Thị Lang cùng các quan:
Quần thần tội quá, mông đức Tử Hoàng.
Nạp Trịnh thị phản gian, vọng Tử Hoàng thiên tuế, thiên thiên tuế.
Ngự Đệ:
Truyền trong trào sĩ, khắp hết chư ban.
Kiết nhựt sẽ đăng quang, tôn Tử Hoàng tức vị.
Còn Trịnh gia phản ngụy, truyền tộc đảng toàn tru.
Nhập thành nội khai cơ, khá phân ban tướng sĩ.
Các quan:
Quần thần liệt vị, vạn vọng tung hô. (KL–12b)
Giữa trời Nam đặt vững cơ đồ, hàng trào sĩ chúc dưng vạn tuế, vạn vạn tuế.
Hoàng Tử:
Bính Tống triều chính trị, xưng hiệu Tống Anh Quân.
Kẻ hữu tội tắc trừng, người hữu công tắc thưởng.
Truyền cho nội thị, sắc tứ gia phong.
Nội Thị:
Bá quan thính sắc.
Phụng mạng cửu trùng, chiếu văn sắc tứ:
Quyền mẫu nghi thiên hạ, sắc phong Mẫu Hậu Hoàng Nương.
Còn Quốc Thúc Hoàng Thân, chức Thượng Công Phụ Chánh.
Còn Binh Bộ huân thần phẩm định, chức phong vi Thiếu Phó Thượng Thơ.
Bửu Lâm Sanh đông đãng tây trừ, quyền phong vi Quốc Trạng.
Châu Võ Sĩ Phiên kinh Địch tán. Sắc phong vi Quận Chúa ải quan.
Phong Hoàng Quốc Muội nhị nương. Kỳ Hương cùng Xích Phụng.
Hoàng ngoại tổ cấp ban nhứt quận, lập lăng mộ tứ quí hương đăng.
Còn đẳng đẳng trào ban, đồng gia thăng nhứt phẩm.
Khâm tai, tư sắc.
Hoàng Tử:
Trước đã yên mối nước, sau phải liệu sự nhà. (KL–13a)
Trạng Nguyên công cứu giá trọng công, đưa Xích Phụng đền khi hãn mã.
Còn Quận Chúa bảo phò Hoàng thúc, ta hứa giá Kỳ Hương.
Trước đà rạng tiết thần lương, sau lại phỉ tình giai ngẫu.
Lâm Sanh Võ Sĩ:
Khâm thừa ngọc sắc, phụng mạng kim ngôn.
Nguyện xoay tay chèo đỡ giang san, thề hết sức tài bồi xã tắc.
Hoàng Tử :
Quả nhơn vào ngọc các, chư khanh lại hoa đình.
──────
28. Châu Võ Sĩ lên đường trấn nhậm ải xa.
Võ Sĩ:
Giồi phấn vua tình đã phỉ tình, so nghĩa bạn dạ còn chạnh dạ.
Trước là tới trình qua nhạc phụ, sau là sang cáo với kim bằng.
Kẻo lỗi đạo gia cương, lại chếch niềm bằng hữu.
Quân:
Cúi trong trướng sấu, dám tỏ màn loan.
Có Phò Mã Trạng Nguyên, đã tới nơi dinh ngoại.
Võ Sĩ:
Lập-cập áo chưa gài dải, vội-vàng chưa kịp mang đai.
Huề thủ nhập tiền giai, tiếp túc lai cẩm trướng.
Lại nói:
Em đương liệu (KL–13b) lưỡng nghi tứ tượng, anh trước đà tiên chiếm kỳ phong.
Anh mau chưn anh đặng thủy chung, em chậm gót, em cam thất lễ.
Lâm Sanh:
Nay ta dự kim đài ngọc bệ, đã toại ngày mộc võ trất phong[71].
Anh em nguy hiểm diệc đồng, công danh đặng nhứt trường hội khế.
Nay thánh thượng sai ra ải ngoại, nghĩa kim bằng từ biệt tâm trung.
Đó hết lòng trí chúa an dân, đây chử dạ ưu quân ái quốc.
Võ Sĩ:
Anh tưởng chữ Cối Kê chi ước, em nhớ câu bạch mã chi giao.
Chạnh vì em ải ngoại, anh nội trào, lại lo nỗi dặm quan san đường viễn cách.
Nơi trào nội anh tài bồi xã tắc, chốn quan trung em chống chỏi vững phong cương.
Dầu đá nát nhẫn vàng phai, nghĩa dễ ngui, tình dễ lạt.
Lâm Sanh:
Một phen hiệp mặt, ngàn thuở phân tay.
Kính đưa câu ngọc các thời lai, ra phủ trị công thành danh toại.
Lâm Sanh, Võ Sĩ:
Anh em công danh hội, thánh chúa vững cơ đồ.
Bát thiên thu hề, bát thiên xuân.
Chúc tuổi chúa hạ hồi phân giải.
(Cộng tam thứ)
Phật Sơn [佛山] (Quảng Đông),
Nhà chứa ván khắc Bảo Hoa Các [寶花閣]
─────────────
1 Thị lang: Một chức quan lớn đứng hàng thứ 3 sau Thượng thư, Tham tri trong chế độ quân chủ.
2 Minh chúa: vua sáng, vua tài giỏi có lòng thương dân, thương nước
3 Giạu tức là giậu đọc theo giọng Nam bộ: hàng rào để che chắn như rào giậu, phên giậu.
4 Phủ việt: Tên các loại binh khí mà binh sĩ dùng thời xưa
5 Hai câu này có nghĩa là: Gió mây trời trăng cũ, sông núi vũ trụ mới; Chim rừng lông vũ nhẹ, hoa lạ có vị xuân.
6 Dồi nơi: Nhiều nơi
7 Nồng nà tức nồng nàn: hơi gắt
8 Tuổi ba sáu: Tức là 18 tuổi
9 Lẫy đẫy: Không yên, không xuôi (HTC)
10 Mớ ốc: một vài con ốc
11 Chải gió: Chịu cảnh khổ sở. Thành ngữ: “ Chải gió dầm mưa”
12 Cút cui hoặc cui cút: Chịu khổ cực một mình không dám than vản. Nguyễn Đình Chiểu: .... cui cút làm ăn, không lo nghèo khó. (Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc.)
13 Vô nam dụng nữ: Không có con trai thì dùng lấy con gái.Theo hệ thống luân lý xưa thì con trai là để nối dõi tông đường, không có con trai là một tội lớn trong ba tội “ bất hiếu” (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại).
14 Một be trà: Một bình trà.
15 Rêu bồ bặc: Tức rêu bám đầy và bò lan lên
16 Làn đan: Cũng đọc là lần đân: Có vẽ khinh lớn, không có phép tắc.
17 Câu này có nghĩa là làm điều ác đức thì gặp điều ác, tích chứa việc thiện thì điều thiện hoàn lại.
18 Ẻ: có nghĩa là đau, không được sức khỏe. Ngày nay ít dùng chỉ dùng chữ ê trong “ê mình ê mẫy”.
19 Dời đỉnh Dĩ: Tức là đã chết
20 Phương danh: danh thơm.
21 Câu này có nghĩa: Thần phủ kêu đã đến lúc, vua tôi gặp mặt.
22 Lêu: Tức là rêu, đọc theo giọng Nam bộ.
23 Ốt: Ắt là. Tây Du Ký, Hồi 10: Thua thầy nay ốt đã an bày, Sợ xấu tiếng lo chi vàng bạc. và Gã mắng min, min ốt không nao, Trời quở gã, gã thời ắt mắc.
24 Đăng lung: lồng đèn
25 Câu này có nghĩa là: Ở trong chốn bụi dơ mà chẳng nhiễm bụi dơ; Có biến mà lại không biến.
26 Thừa ưa: Tình cờ.
27 Định đoạt: Tính toán nầy nọ, suy nghĩ.
28 No nao: Bao giờ, chừng nào.
29 Phô thể nữ: Các thể nữ. Phô: từ xưa có nghĩa là các, những, tiếng chỉ số nhiều.
30 Hắc lang, bạch thố: Chó lang đen, con thỏ trắng.
31 Sái tảo hoa viên: Quét dọn tưới nước vườn hoa.
32 Đầu vu Vị thủy: Liệng xuống sông. Vị thủy là tiếng nói cho đẹp chữ chỉ sông nào đó nói chung, không phải là sông Vị.
33 Hôm qua đi chơi núi, hôm nay thưởng thức cảnh sông. chỉ đời sống nhàn dật.
34 Đi câu cá. Nhắc lại, Vị Hà, Vị Thủy là nhắc tích xưa Khương Thượng ngồi câu sông Vị. Nay nói chữ nầy là chỉ sông mà thôi.
35 Cả câu: Khiến cho mình sanh ra ý muốn đem về nuôi.
36 Kế tấn: Tuồng kế, tuồng tiếp theo. Chữ tấn nầy đi chung với chữ tuồng, như nhóm chữ tấn tuồng đời cho nên Tấn vừa có nghĩa là Hồi, vừa có nghĩa là Tuồng. Các tựa của tuồng trong Vãn và Tuồng (tác phẩm công giáo bằng chữ quốc ngữ thế kỷ 18 đều viết bằng Tấn để chỉ Tuồng.)
37 Chữ hai gã, cũng như hai chàng ở dưới, chỉ hai người, không phân biệt nam nữ.
38 Cấp củm: Thương yêu lắm. HTC, bộ tâng tiêu, lo lắng. Bài dịch truyện Ngụ Ngôn của La Fontaine: Con gà đẻ một trứng vàng, chủ nhân cấp củm mới bàn lời ni. Bụng gà vàng khối có khi…
39 Hai trẻ thắc mắc. Chỉ thấy cha già mà không thấy mẹ đâu.
40 Tiểu hàm 小函: Cái thùng nhỏ, cái rương nhỏ.
41 Hai chàng đây có nghĩa hai người, hai đứa trẻ. Chữ chàng dùng không phân biệt nam nữ.
42 Hiếu đễ: Săn sóc thương yêu cha mẹ là hiếu, kính mến anh là đễ.
43 Con gái lo việc nhà, con trai lo học hành. Quan niệm ngày xa xưa.
44 Ghé: Tránh ra, xê ra
45 Mống lòng: Quyết lòng, mong lắm trong dạ.
46 Thung huyên hai cụm đều già: Gha mẹ đều đã chết hết. Già từ xưa có nghĩa là chết.
47 Thắt thẻo; chỉ cái bộ dạng đang đói bụng không có lấy hạt cơm. Ta hạy nói đói thắt tha thắt thẻo.
48 Trâu Diễn hạ ngục vua nên trời sanh sáu tháng sương mù.
49 Một gái lành bị án oan nên trời làm ba năm hạn hán.
50 Mắng: Rầy. Rầy con chàu là biểu hiệu của sự thương yêu. TD Bá Đa Lộc Bi Nhu, trang 285 đưa ra câu: Cha mẹ mắng oan, quan mắng hiếp và cắt nghĩa là: Yêu con cha mẹ mắng con.....
51 Bao nã: Thế nào?
52 Cả câu: Hai người đều không có con trai nối đời. Nhắc tới câu: Bất hiều hữu tam, vô hậu vi đại.
53 Máy thửa tay kia: Tay rung động, ngứa ngáy muốn ra tay.. Người ta gọi là ngứa tay.
54 Chi cóc thiệt hơn: chẳng biết phải quấy. Từ xưa cóc có nghĩa là biết. TD Bá Đa Lôc Bi Nhu, trang 94 có từ chẳng cóc được cắt nghĩa là không (hiểu) biết. TD Hùinh Tịnh Của cắt nghĩa chẳng cóc là chẳng (hay) biết. Cũng ở đây ông HTC cắt nghĩa cóc là hay, biết và đã dẫn chứng: Cóc vui đạo thánh, sự đời chua le. Tôi giải thích câu nầy là: Biết vui đạo thánh thì cuộc đời sẽ dễ chịu vì sự đời ở bên ngoài rất là chua chát, khó chịu.
55 Ta chưa biết tên cha mẹ nàng, Tên nàng là gì?
56 Giở chường: Giở ra cho coi, trình hàng. Chường< trình.
57 Mặt trăng, mặt trời tuy soi rõ mọi nơi nhưng không soi sáng được bên trong cái chậu úp. Có những điều khó thấu đáo, khó biết rõ.
58 Chúc người sống lâu.
59 Nấy: bảo sai.
60 Loài săng cỏ: Loài cây cỏ,không đáng gì.
61 Lòng mống: Toan lo, sắp đật
62 Lòng khoăn khoái: chạnh lòng tưởng nhớ, lòng rất nhớ
63 Cắc cớ: Bày việc, đặt điều mà chọc khuấy chơi
64 Cả câu: Gặp thời. Theo câu Long tòng vân, hổ tòng phong.
65 Túng tíu: Chỉ tình hình ngặt nghèo, chật hẹp.
66 Rấp ruông: Mắc vào
67 Phai dấu ngựa người: Mất dấu tích nên không theo dõi được.
68 Tha cho phiên vương.
69 Chi diệp Tống bang: Dòng dõi nhà Tống
70 Lời min: Lời của tôi
71 Mộc võ trất phong: Tắm mưa chải dầm sương dãi nắng, chỉ sự chịu đựng khổ cực nhiều bề.