Vào những thập kỷ cuối thế kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17, người dân Việt từ miền ngoài, vì cuộc sống tại địa phương quá cực khổ, vì bị quan lại chèn ép, vì trốn tránh vùng đất chiến tranh triền miên giữa các dòng họ hay giữa đám quần chúng bị chèn ép với bọn quan lại của triều đình hay vì phạm tội với triều đình muốn tìm nơi ẩn thân... đã lần lượt tìm vào sinh cơ lập nghiệp tại vùng đất phương Nam, xưa gọi là xứ Đồng Nai, thời Gia Long gọi là Gia Định Thành, đến năm 1832, Minh Mạng gọi là Nam Kỳ hay Nam Kỳ Lục Tỉnh...ngày nay chúng ta gọi là vùng Đồng Nai - Cửu Long.
Những thế hệ lưu dân đầu tiên khi đến đây đã phải đương đầu với một vùng sình lầy hoang vu đầy bất trắc. Ra đi từ một vùng đất đã qua bàn tay khai thác của con người hàng ngàn năm, nay phải định cư trên một vùng đất mà bóng dáng của những con người bản địa - người Khmer, người Chăm - chỉ xuất hiện thưa thớt trên những giồng đất cao, họ cảm thấy mình cô đơn và lo sợ giữa một thiên nhiên bao la, mọi âm thanh dù nhỏ nhặt đến đâu cũng đều khiến cho con người cảm thấy bất an:
Tới đây xứ sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh.
-Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um
-Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma
-U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.
Xứ nào bằng xứ Cạnh Đền
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lền như bánh canh!
Gió đưa, gió đẩy, về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
Ai ơi! Về miệt Tháp Mười
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn.
Chính vì được thiên nhiên ưu đãi như vậy, lại nhờ bàn tay cải tạo của con người qua hàng trăm năm, vùng đất phương Nam này đã trở nên quyến rũ không ít:
Rau đồng nấu với cá trê
Ai đến Lục Tỉnh thì mê không về.
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm đã đưa ra một nhận định tổng quát về người dân đất phương Nam này:
“Đây là vùng đất mới, có nhiều sắc dân định cư ở đây, đất rộng mênh mông, sông dài chằng chịt, rất dễ sinh sống, có cơ hội và điều kiện để khai khẩn và làm giàu, xa cách hẳn cái nôi văn hóa gốc (Thăng Long) lại va chạm với nhiều văn hóa khác (Chàm, Miên, Triều Châu/Trung Hoa), và không bị chặt chẽ kiểm soát bởi chính quyền trung ương (triều đình Huế). Hoàn cảnh đó là điều kiện đưa tới sự thành hình của một tâm hồn cùng với nền văn hóa “Nam Kỳ” mà xưa nay người ta thường gọi. Tự do, phóng khoáng, rộng rãi, chất phác, quê mùa, thẳng ruột ngựa, nghĩ sao nói vậy, giản dị, không bóng bảy, không cầu kỳ kiểu cách, không che đậy giấu giếm, không quan liêu bảo thủ, có tinh thần dung hòa, tổng hợp, dễ chấp nhận những cái mới lạ,...đó là một số những đặc tính của con người và nền văn hóa Nam Kỳ Lục Tỉnh.”[1]
Đời sống, nói chung, tuy có vất vả, nhưng so với tổ tiên họ ở miền ngoài, hay những thế hệ đến trước còn phải chịu nhiều vất vả hiểm nguy, họ vẫn thấy đời sống của họ sung sướng hơn nhiều. Hơn thế nữa, so với miền ngoài đất chật người đông, đất phương Nam quả là vùng đất hứa - đất rộng mênh mông, người sống thưa thớt. Họ không phải tốn hao nhiều công sức như người miền ngoài để có miếng ăn.
Đời sống vật chất mỗi ngày mỗi thăng tiến, nếp sống tinh thần thoải mái đã tạo cho lưu dân Việt trên vùng đất mới phương Nam này nhiều tinh thần lạc quan yêu đời. Từ đó, ta thấy tiếng cười của lưu dân Việt như lúc nào cũng râm ran trên những chuyến đò dọc, những con đò ngang, lúc nào cũng rộn rã trên những cánh đồng hay khắp chốn bưng biền. Tiếng cười trên sông nước, trên đồng ruộng hay ngoài bưng biền đã dần dần đi vào ca dao.
Trước khi tìm hiểu về nụ cười của người phương Nam qua ca dao, chúng tôi xin mượn vài định nghĩa về loại văn chương gây cười trong văn học Việt Nam của Giáo sư Thanh Lãng: “...trào phúng là tả thế thái nhân tình để châm chích, chế giễu cái giở, cái rởm, thói hư tật xấu của người đời. Hài hước có hơi khác, thường khi không có ý châm chọc ai, mà chỉ có ý cười đùa suông” [2].
Đọc ca dao của người dân đất phương Nam ta bắt gặp nhiều câu không thể nhịn cười được. Cười thoải mái. Cười sảng khoái. Thích thú mà cười. Hồn nhiên mà cười. Cười không đắn đo. Cười không suy tính. Bởi lẽ, đây là những câu ca dao mang đậm nét hài hước. Rất đậm nét hài hước. Trong những câu ca dao mang tính hài hước nầy, tính châm biếm, nếu có, cũng thật nhẹ nhàng.
Chúng ta thử tìm đọc một số câu ca dao thuộc loại này.
Ông bà ta xưa có tục đa thê. Có nhiều nguyên do để thói tục này tồn tại lâu dài trong lịch sử. Trước hết, ngày xưa, các nhà điền chủ, giàu có “ruộng sâu trâu nái” muốn có nhiều vợ để quán xuyến công việc đồng áng khỏi thuê nhân công phải trả tiền công mà không tin tưởng bằng vợ, dù là vợ bé nàng hầu! Một nguyên do nữa là quan niệm về “nối dõi tông đường”. Người xưa thường bảo “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (có ba điều gọi là bất hiếu thì cái tội không có con nối dõi [vô hậu] là lớn nhất). Thế nên, khi người đàn ông, sau vài ba năm cưới vợ mà không có con trai, cha mẹ luôn hối thúc con trai kiếm vợ bé ; đôi khi ngay người vợ chính thức, phải tìm cách cưới vợ bé, nàng hầu cho chồng. Có nhiều gã đàn ông không giàu có như ai nhưng cũng vợ hai, vợ ba, đó là do cái duyên mà người đời thường bảo là người có số đào hoa.
Thế nhưng, anh chàng dưới đây muốn cưới thêm cô vợ nữa lại vì một lý do thiệt ngộ, không ai ngờ tới được bởi nó nằm ngoài mọi suy đoán thuận lý:
Anh đây một vợ hai con
Lấy thêm em nữa cho tròn một mâm
Quả là một nụ cười thật nhẹ nhàng đánh nhẹ vào chế độ đa thê!
Trong xã hội xưa, nhất là trong những thời kỳ trọng văn khinh võ, người học trò vẫn thường được các cô gái để ý và kén chọn:
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ.
Ở miền Bắc:
Học trò thò lò mũi xanh
Cầm miếng bánh đúc chạy quanh nhà thầy
Học trò, học trỏ, học tro
Mới học ba chữ đà lo vét nồi
-Học trò đi học đà về
Cơm canh chưa chín ngồi trề môi ra.
Còn ở vùng đất mới phương Nam này, không một chút e dè, các cô đá thẳng giò lái vào mấy anh học trò lớn:
Gió nam non thổi lòn hang dế
Tiếng anh học trò mưu kế để đâu?
Mưu kế anh để ở nhà
Ai dè em hỏi để mà đem theo!
Thấy anh hay chữ
Em hỏi thử đôi câu
Chị dâu té giếng, anh nắm chỗ nào kéo lên!
Anh đây đi quanh về tắt
Thấy em hỏi gắt
Anh nói phắt cho rồi:
Nam theo nam, nữ theo nữ
Anh đứng làm người quân tử
Đâu dám lại gần chị dâu
Anh lấy cái thang thòng xuống bắc cầu cho chị lên!
Quả là một nụ cười nhẹ nhàng đột thẳng vào quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân” của Tống Nho!
Như vậy đó, người phương Nam có lối đả kích thật nhẹ nhàng, nghĩ cho kỹ mới thấy thấm!
Với nếp sống phóng khoáng, chân chất, người dân lục tỉnh không muốn bị ràng buộc bởi bất kỳ một thứ kỷ luật nào. Trải qua nhiều thế hệ, họ đã có nhiều thay đổi như lời nhận xét chí lý sau đây của giáo sư Nguyễn Thanh Liêm: “Sự lỏng lẻo của khuôn phép từ thế hệ này sang thế hệ khác đã tạo nên một nếp sống mới, một tính tình và nhân cách mới, rộng rãi và phóng khoáng với tâm hồn chân thật, chất phác, mở rộng để đón nhận những cái mới lạ hơn là khép kín để duy trì những cái đã có.”[3]
Sự thay đổi trong nếp sống, nếp nghĩ đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống tình cảm của người dân phương Nam.
Thử bàn về niềm thương nỗi nhớ.
Khi gần gũi nhau thì thương, khi xa cách nhau thì nhớ. Nhớ và thương là hai đặc tính tình cảm của con người đối xử với nhau. Đã là tình cảm thì nó vô hình. Nhưng, đối với người dân phương Nam thương và nhớ lại là một thực thể hữu hình:
Cởi cái thương trả phắt
Cắt cái nhớ cho rồi
Bao nhiêu lời nói những hồi
Bỏ vô nồi nấu, sôi rồi đổ đi!
Ý tưởng thì thật là chân thành, tha thiết nhưng hình ảnh thì lại gây cho người nghe một nụ cười nhẹ nhàng “thông cảm”.
Thực ra, người miền Bắc cũng đã từng nhân cách hóa niềm thương và nỗi nhớ thành những thực thể hữu hình:
Thương em anh biết để đâu,
Để vào tay áo, lâu lâu lại dòm!
Thương anh chẳng biết để đâu
Để vào khúc gỗ hai đầu sơn son.
Óc hài hước của người dân phương Nam cũng ngộ lắm. Họ có thể gây cười trong mọi hoàn cảnh, trong mọi tình huống.
Thử nghĩ, một anh chàng bị người tình bỏ bụng nghi nan, đáng lẽ chàng phải buồn lắm chớ ; thế nhưng, để chứng tỏ tấm “chân tình” của mình, chàng đã gây nên một tình huống thật đáng buồn cười. Chàng không dùng lời nói để thanh minh, chàng sẽ dùng hành động để chứng minh cho lòng chung thủy của mình:
Thấy con bạn nó nghi tình
Tôi đây tức mình muốn chết
Chờ người ta ngủ hết
Tôi quyết lấy cái gối bông gòn
Đập đầu cho rảnh, kẻo còn nghi nan!
Nhưng mà... anh chàng muốn dứt nợ trần vào lúc nào vậy? Có ai chứng kiến không vậy cà? Anh chàng “chờ người ta ngủ hết” mới dám lấy cái gối bông gòn ra mà đập đầu! Chắc anh chàng sợ đập đầu mạnh quá cái gối bông gòn bể và bông gòn bay tứ tung ngũ hoành thì thiên hạ cười cho mà thúi ruột! Quả là nói vậy mà không phải vậy!
Ai trong đời lại không ít nhất một lần nhớ người mình yêu khi xa vắng. Nhớ quay, nhớ quắt. Đứng không yên, ngồi cũng không yên ; chỉ mong sao cho chóng đến lúc được gặp lại nhau. Nhớ khi thức, nhớ cả trong lúc ngủ. Nhớ trong chiêm bao.
Ca dao miền Bắc cũng hay nói đến nỗi nhớ nhung khi xa vắng người yêu và nỗi nhớ nhung được mô tả thật lãng mạn:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai
Nhớ ai cơm chẳng buồn ăn
Hồ bưng lấy bát lại dằn xuống mâm!
Vắng cơm ba bữa còn no
Vắng em một bữa giở giò không lên!
Thế nhưng vẫn chưa bằng anh chàng này.
Anh đau ba năm, anh không ốm
Anh đói sáu tháng, anh không mòn
Vắng em một bữa, da còn bọc xương!
Có cô gái than van cho cuộc sống lẻ loi, đơn độc của mình và theo nàng quả đây là cuộc sống không đáng sống và nàng định “giải quyết” cuộc sống bằng cách tự tìm đến cái chết bằng cách “trầm mình”:
Sống như vầy em sống làm chi
Chiều nay em ra bến sông Quy trầm mình!
Hai tay anh xách hai cái chình
Nước sông Quy anh múc cạn, còn gì mình trầm thân!
Đó là nàng mới dọa thôi. Nàng mới chỉ dọa “chiều nay” chứ không phải ngay bây giờ! Anh chàng biết tỏng là nàng dọa nên anh cũng “dọa” múc cạn nước sông Quy!
Cô gái buồn tình đòi trầm mình đã đành. Đằng này anh con trai “thương” người ta mà không biết cách tỏ tình cũng đòi “trầm mình”, mà cách trầm mình của anh chàng này cũng ngộ lắm! Quả như lời người thời nay vẫn nói “nói vậy mà không phải vậy”:
Thương em chẳng biết làm sao
Đổ nước vô dĩa làm ao trầm mình!
Cái óc khôi hài của người miền Nam quả là tuyệt diệu. Cũng là câu chuyện “tưởng như” là trầm mình...mà không phải vậy:
Tưởng giếng sâu qua nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây.
Qua tới đây mà không cưới được cô hai mày
Qua chèo ghe ra biển...đợi nước đầy qua chèo vô!
Tưởng giếng sâu qua nối sợi dây cụt!
Giếng sâu mà sao lại nối sợi dây cụt? Giếng sâu thì phải nối sợi dây dài, như một câu ca dao đã xuất hiện về trước mới hợp lý chớ:
Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài
Ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây
Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây.
Mà thôi, bỏ qua cái chuyện giếng sâu, giếng cạn, dây cụt, dây dài đi. Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó. Điều quan trọng là cái người xưng “qua” trong bài ca dao. “Qua” là một đại danh từ ngôi thứ nhất dành cho người lớn xưng hô với kẻ nhỏ hơn mình về tuổi tác, tương đương với những đại danh từ khác như tôi, ta, tao, anh (tự xưng). Vậy thì “qua” tới đây để làm gì vậy? “Qua” tới đây để cưới “cô hai mày”. À, thì ra anh chàng xưng “qua” tới đây là để cưới vợ. Chuyện quan trọng đây. Cưới vợ chớ bộ chơi sao! Bắt đầu ở đây, anh chàng xưng “qua” bèn đặt giả thiết: Nếu như...
Qua tới đây mà không cưới được cô hai mày
Qua chèo ghe ra biển...
Từ đây lại bắt đầu xuất hiện một yếu tố đầy kịch tính khác: yếu tố bất ngờ.
...đợi nước đầy qua chèo vô!
Cái hồi hộp là ở chỗ, chàng “đợi nước đầy” ghe chàng mới chèo vô.
Tại sao lại phải “đợi nước đầy”? Có 2 cách lý giải:
-Hoặc là anh chàng “đợi nước đầy” để cho ai đó nhìn thấy cảnh này mà hồi hộp đứng tim chơi, rồi anh chàng mới thủng thỉnh cheo thuyền vô bờ.
-Hoặc khi thấy nước đầy, anh chàng lại không dám nghĩ đến cái chết, lại sợ chết một cách vô duyên lãng nhách nên vội vàng quày thuyền vào bờ! (chắc không phải như vậy đâu!)
Dù là “hù dọa” hay dù là “sợ chết” thì cả hai cũng đều tạo cho người đọc một thái độ chưng hửng khi thấy thuyền chàng từ ngoài khơi tiến vô bờ. Mọi người lại thở phào khoan khoái. Ca dao phương Nam cũng còn một câu mang ý nghĩa tương tự:
Gá duyên chẳng đặng hội này,
Tôi chèo ghe ra sông cái, nước lớn đầy...tôi chèo vô!
Nước trong ai chẳng rửa chân,
Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hôn.
Hai tay em cắm xuống bùn
Cả mình lấm hết, anh hun chỗ nào?
Cầu trời đổ trận mưa rào
Bùn sình trôi hết, chỗ nào anh cũng hun!
Thấy gì nói nấy, nghĩ sao nói vậy, đó là bản chất chân thật, không thích màu mè của người dân phương Nam. Nhà chuyên khảo về văn hóa và lịch sử đất lục tỉnh Nam Kỳ là Nguyễn Văn Hầu đã từng nhận xét: “...người miền Nam giản dị, ít oi. Họ chỉ muốn nói phứt, làm phứt, không thích quanh co và ghét mệt những vòng vo tam quốc” hay “...người lục tỉnh Nam Kỳ gan dạ, cứng cỏi, thẳng thừng, nghĩ sao nói vậy, nói sao làm vậy, một một hai hai, không thích quanh co xảo trá, không ưa lý luận dài dòng.”[4]
Chính vì bản chất chân thật, không thích màu mè ngay trong cách sử dụng ngôn ngữ đặc biệt của ca dao phương Nam đó mà đôi khi trong những câu ca dao không cố ý khôi hài cũng mang tính khôi hài. Chẳng hạn, trong câu ca dao trên, chàng trai nói thật, rất thật, không màu mè và chính vì quá thật và không màu mè đó mà chàng đã gây cho người nghe một nụ cười thích thú!
Hãy nghe lời than của anh chàng độc thân trong bài ca dao dưới đây:
Sớm mai chạy ra mất cai cuốc,
Trưa lại mất cái nồi.
Chiều lại mất ông bình vôi.
Giậm chân ba tiếng kêu trời,
Vợ con không có coi ngoài mất trong.
Đó là một tình cảnh có thể xảy ra. Chàng nói thật, rất thật dù có chút ngoa ngôn. Và chính một chút ngoa ngôn đó đã khiến cho tình cảnh độc thân của chàng trở nên tức cười.
Vì vậy, ta thấy tính khôi hài đôi khi xuất hiện ngay trong những câu ca dao quá đỗi thật thà của văn chương bình dân phương Nam!
Đầu giồng có trồng cây chuối,
Cuối giồng có trồng cây da.
Ngã ba có cây đại hồng.
Gái chưa chồng trong lòng hớn hở,
Trai chưa vợ ruột thắt tợ trái chanh.
Ngó lên trời thấy mây trắng trời xanh,
Thương ai cũng vậy, thương anh cho rồi!
Gái chưa chồng trong lòng hớn hở,
Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh.
Ngó ra biển rộng, trời xanh,
Ở đâu cũng vậy, ưng anh cho rồi.
Chẳng hạn:
Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Cô kia cắt cỏ bên sông
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.
Sang đây anh nắm cổ tay,
Anh hỏi câu này: Có lấy anh chăng?
Trèo lên ngọn ớt, rớt xuống ngọn hành
Hành đâm lủng ruột cho đành dạ em!
Một câu nữa gần giống như vậy:
Trèo lên ngọn ớt, rớt xuống ngọn hành
Hành đâm anh lủng ruột, sao em đành làm ngơ!
Mới nghĩ qua thì là như vậy, nhưng nghĩ kỹ một chút thì quả là đáng buồn cười: Con người chứ phải con sâu cái kiến đâu mà lại “trèo lên ngọn ớt” để rồi “rớt xuống ngọn hành”. Hơn thế nữa, ngọn lá hành lại còn “đâm anh lủng ruột”! Thôi anh ơi, ba xạo hoài! Ai mà tin anh được!
Nụ cười phương Nam nói lên bản chất của người phương Nam: xuề xòa, không gút mắc. thật lạc quan yêu đời.
Chúng ta có thể nói, nụ cười của ca dao miền Nam là nụ cười của những chàng trai trẻ tràn trề sức sống, đã gây cười là cười hồn nhiên, không có một hậu ý thâm (thúy) nào và cũng không biết ai là người bị gây cười. Trong lúc đó, nụ cười của ca dao miền Bắc là nụ cười của những con người lão luyện, đã gây cười là khiến cho người bị cười cảm thấy “chột dạ”, cảm thấy mình bị “châm chích”, bị “bêu riếu” mà không tài nào thoát ra được.
Chúng ta có thể bắt gặp trong ca dao miền Bắc những câu hoặc những bài ca dao gây cười. Chẳng han:
Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
Gào rằng: -“Đất hỡi, trời ơi,
Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng.”
Ông trời ngoảnh cổ lại trông:
-“Mày hay kén chọn ông không cho mày!”
Ta không thương nổi cô gái, lúc trẻ thì bắc bậc kiêu kỳ, đến khi muốn có chồng thì không ai thèm nhìn. Thế nên, dù cô nàng có “chổng mông mà gào”, gào đến khan cả cổ cũng không có mấy ai xót thương cho tình cảnh của nàng! Nụ cười của người phương Bắc nó “ác” như thế đấy!
Trong khi đó, ở phương Nam cũng có cô gái “khóc la đòi chồng”, ta không ghét cô gái dù cô mới “mười ba” mà đã đòi chồng và ta chỉ có thể cười vì câu trách mắng của người me: “Đồ con chết chủ đòi chồng thâu đêm!”:
Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
Mẹ giận mẹ phát ngang hông:
Đồ con chết chủ đòi chồng thâu đêm!
Ca dao hài hước mang tính hiền hòa, không làm cho đối tượng bị châm biếm cảm thấy bị xúc phạm!
“...người Lục Tỉnh Nam Kỳ gan dạ, cứng cỏi, thẳng thừng, nghĩ sao nói vậy, nói sao làm vậy, một một hai hai, không thích quanh co xảo trá, không ưa lý luận dài dòng...”[5]. Đó là nói trong cuộc sống hằng ngày. Thế nhưng, trong ca dao ta thấy có khác. Phải nói gần, nói xa rồi mới nói thiệt. Một chàng trai trách người yêu sao nỡ phụ tình trong lúc tình yêu của chàng dành cho nàng thật là thắm thiết, thật là chân tình, chàng đã kể lể:
Anh thương em:
Thương quấn, thương quýt,
Bồng ra gốc mít,
Bồng xít gốc chanh,
Bồng quanh đám sậy,
Bồng bậy vô mui,
Bồng lủi sau lái,
Bồng ngoái trước mũi,
Để em nằm xuống đây:
Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng,
Miệng đắng cơm hôi,
Tiếc công anh đỡ đứng, bồng ngồi,
Bây giờ em vinh hiển,
Mà em nỡ đoạn rời phu thê!
Ngày xưa anh bủng anh beo
Tay tôi bưng chén thuốc, tay tôi đèo múi chanh
Bây giờ anh khỏi anh lành
Anh theo duyên mới anh đành phụ tôi
Thực thà, chân chất đó là đức tính chung của người phương Nam. Họ nói ra những điều rất thật những điều họ nghĩ. Thế nhưng, đối với người miền ngoài, khi đọc đến với những hình ảnh được mô tả khiến cho sự việc trở nên buồn cười.
Một chàng thanh niên quyết giữ lấy người mình yêu dù cho cha mẹ của nàng, hay cha mẹ của chàng có hăm dọa, có khó khăn cách nào chàng cũng quyết không để rời xa người yêu của mình hay nói đúng hơn là chàng quyết không để mất nàng:
-Dao phay kề cổ, máu đổ không màng,
Chết tôi chịu chết, buông nàng không buông!
-Anh về, em nắm áo la làng,
Duyên đây không kết, bỏ giữa đàng cho ai?
Người ta nói rằng “... người miền Nam giản dị ít oi. Họ chỉ muốn nói phứt, làm phứt ; không thích quanh co và ghét mệt những vòng vo tam quốc”[6]. Thế nhưng không phải trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng một mực ứng xử như thế. Cái cách nói bóng nói gió, nói xa nói gần của người phương Nam cũng hay lắm, cũng lạ lắm. Chẳng hạn như lời trách cứ người bạn gái phụ tình trên đây (Anh thương em, Thương quấn thương quýt...), hay lời trần tình của một chàng trai đã vì giận người mình yêu mà lỡ buông lời trách cứ. Nghĩ lại biết mình sai, chàng đã phải “vòng vo tam quốc” trước khi đủ can đảm để nói thật lòng mình:
Cục đá lăn nghiêng, rồi cục đá lăn ngửa,
Tôi giơ tay tôi sửa cho nó lăn đứng,
Tôi coi không xứng, tôi sửa lại nó lăn dẹp,
Tôi coi không đẹp, tôi sửa lại nó lăn tròn.
Ới bạn mình ơi,
Giận thời anh nói vậy, chớ dạ anh còn thương em!
Giặc Miên kéo tới Lò Gò
An Nam còn ngáy kho kho trong mùng
Giặc Xiêm xuống tới Chưng Đùng
An Nam mới chịu giở mùng chun ra
Bớ nầy trai tráng đàng ta
Đuổi Miên Man như đuổi con gà bươi rau!
Thời đàng cựu, dân chúng mặc đồ bà ba với cái quần vận không có dây lưng, áo không có túi. Pháp đem tới bộ pyjama với quần có dây lưng rút, áo có túi, thế là dân chúng phản ứng liền:
Đời Tây tặc
Nó khéo bày đặt dị kỳ
Áo bà ba nó may hai cái túi
Mà đựng giống gì hỡi anh?
Bước lên xe kéo,
Còn réo xe hơi
May thêm cái áo da trời
Đặng em bận kịp cái đời văn minh!
Bước lên trường án
Vỗ ván cái rầm
Bủa xua ông tham biện
Hỏi vậy bạc ngàn ông cất ở đâu?[*]
(Bủa xua là phát âm của tiếng Pháp “bonjour” theo cách của người Nam Kỳ xưa, có nghĩa như hello, good day, good morning...)
Mười giờ ông Chánh về Tây
Cô Ba ở lại lấy thầy thông ngôn
Thông ngôn, ký lục bạc chục không màng
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay.
Đèn hết dầu đèn tắt
Lửa hết hồng lửa bọn thành than
Kén chồng lựa chỗ cho sang
Lấy chi thằng điếm dọn bàn Tây ăn!
Tóc mai chấm đất bậu chê,
Nưng niu thằng Chệt tư bề sọ không.
Trên đầu nó cột đuôi nhông,
Cái răng trắng xát, miệng không ăn trầu.
Gẫm coi thằng Chệt mà rầu,
Có một cái đầu chẳng để cho nguyên
Tóc ra thời nó cạo liền
Mua chỉ nó róc cho liền ống chưn
Bận quần chẳng có cái lưng
Bận áo nửa chừng lửng đửng đuôi trâu
Còn thương thằng Chệt vào đâu
Càng nhìn càng chán, ở lâu càng buồn
Lấy Tây lấy Chệt làm chi
Lo bề nhơn nghĩa sao bì An Nam?
Chệt thời ngang quá là ngang
Tây thời giựt nước xiêu càn dân phong!
Chính trị thay đổi, đời sống xã hội và tình cảm cũng thay đổi theo.
Những nụ cười từ ca dao của người phương Nam đã nói lên một sắc thái đặc biệt của người dân đất Lục Tỉnh Nam Kỳ.
Miền Bắc là vùng đất cổ, đất đai đã được sử dụng qua hàng ngàn năm, dân miền Bắc lại sống trong các ngôi làng khép kín, có lũy tre xanh bao bọc, do đó tâm lý của người dân miền Bắc cũng khép kín. Cách kiếm sống của người miền Bắc cũng chật vật hơn, đòi hỏi phải siêng năng cần cù mới có miếng ăn, trong lúc đó dân phương Nam sống trong vùng đất mới khai hoang vỡ hóa, làng của miền Nam là làng mở, không có lũy tre bao bọc, lại được thiên nhiên ưu đãi nên đời sống tình cảm, tâm lý của người phương Nam cũng mở hơn. Trong lúc đời sống còn được thiên nhiên ưu đãi, họ không phải bon chen mới có thể sống còn, do đó, họ cũng cởi mở hơn.
Thế nhưng, chịu ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa Pháp từ mấy thập niên sau cùng của thế kỷ thứ 19, thêm vào đó, đất Đồng Nai - Cửu Long lại phải tiếp nhận nhiều đợt di dân vĩ đại của hậu bán thế kỷ thứ 20. Đó là cuộc di cư của một triệu người từ đất Bắc vào Nam sau hiệp định Genève năm 1954, trong đó phần lớn đã vào thẳng đất Đồng Nai - Cửu Long, nhiều nhất là vùng Sài Gòn, Gia Định, rồi những đợt di dân dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Rồi, sau tháng 4 1975, người miền Bắc ồ ạt đổ xô vào Miền Nam, nhất là vào đất Đồng Nai - Cửu Long đã làm thay đổi khá lớn nếp sống tình cảm của người dân Phương Nam. Trong trường cạnh tranh sinh tồn, phần lớn đã phải tìm cách hoặc đối phó, hoặc dung hòa với các tầng lớp lưu dân mới, và từ đó đã tạo nên một nếp sống tinh thần có phần nào xa lạ với lớp lưu dân trước năm 1954.
Và nụ cười phương Nam từ đây cũng đã có nhiều thay đổi!
Ghi chú:
“Nhờ công lao làm tay sai của Huỳnh Tấn mà con của y là Huỳnh Công Miêng, tục gọi là cậu Hai Miêng, được người Pháp cho qua Tây du học. Trở về, không đậu được bằng cấp gì, nhưng Hai Miêng nổi tiếng là tay công tử ăn chơi ngang tàng. Gia sản của Huỳnh Tấn để lại, không mấy lúc mà tiêu tan. Hai Miêng đâm ra bất mãn, thường tìm cá Tham biện (tỉnh trưởng) người Pháp để xin tiền và mỗi khi kéo đám đàn em đi ăn nhậu ở quán nào thì biểu chủ quán tìm các quan Pháp mà đòi tiền, chớ y không chịu móc tiền túi mà trả. Bởi vậy, Hai Miêng được gọi là “lưu linh miễn tử” và có câu ca dao nói về y:
Bước vô trường án
Vỗ ván cái rầm
Bủa xua quan Tham biện
Bạc tiền ông để đâu?”
(Hương Giáo đề thơ - tập I, trang 9)
[2] (Thanh Lãng - Văn Chương Bình Dân, tr.141)
[3] Nguyễn Thanh Liêm - Lối vào văn hóa Đồng Nai - Cửu Long - Kỷ niệm về Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm...2010 - trang 79.
[4] Nguyễn Văn Hầu - Diện mạo Văn học Dân gian Nam Bộ, trang 376.
[5] Nguyễn Văn Hầu -sđd - tr.376.
[6] Nguyễn Văn Hầu -sđd - tr.153.
[7] Nguyễn Thế Anh - VN dưới thời Pháp đô hộ, tr. 232