Những tên biệt kích cầm bút

Hoàng Hải Thủy


Tác giả dưới ngọn cờ đỏ quang vinh. Ảnh chụp tháng 12, 1975.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 1)

Khi báo với bạn đọc loạt bài “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút” sẽ được đăng trên tờ Bán nguyệt san Ngày Nay, ấn hành ở Houston, tôi viết: “Mời bạn đọc trên Ngày Nay “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút”, bản kết tội của Minh Kiên – Nam Thi, nguyên Đại tá Tổng Biên Tập và Đại tá Phó Tổng Biên Tập Tuần báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh. Phần trả lời của Hoàng Hải Thủy, một trong những người bị Cộng sản Việt Nam gọi là “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút.”

Đọc lại, tôi thấy tôi thật ngớ ngẩn, vô duyên, không giống ai, Công An Thành Hồ cho tôi nằm ngâm thơ của Cố Thi sĩ Trần Văn Hương hai lần, trước sau là Tám Mùa Thu Lá Bay. Họ đã bỏ tù tôi, và tôi đã ở tù. Tôi còn có gì để “trả lời” họ và tôi cần gì, tôi việc gì phải “trả lời” họ. Bỏ nước chạy lấy người không kịp, kẹt lại, ngẩn ngơ giữa một rừng cờ đỏ, không ra đầu ngõ cũng bị bật ngửa vì nón cối, dép râu, nhìn đâu cũng thấy ảnh Bác Hồ “Muôn Kính, Ngàn Yêu” với những hàng chữ “Không có gì...” đỏ lòm, tôi không thể tự làm tôi mắt mù, tai điếc, tay cùi, miệng câm, tôi can tội mần một số thơ Con Cóc bắt chước Ca Dao mà tôi gọi là Phóng Dao, ngồi gù lưng trên căn gác tối om viết một số bài kiểu Tạp Ghi Tiền Tuyến để than thân, trách phận, thương nhớ kẻ ở người đi, não nùng tâm sự, đời tàn ngõ hẹp, đói không những chỉ đói cơm mà còn đói cả cà phê, thuốc lá, đói đủ mọi thứ. Tôi viết những bài gọi văn huê là “tác phẩm chứng nhân Thành Hồ Trần Ai Khoai Củ” và viết xong tôi không cất chúng dưới đáy tủ, gầm giường, tôi gửi chúng ra nước ngoài để anh em ta ở hải ngoại đăng báo. Và thế là tôi bị Công An Thành Hồ đưa xe bông đến nhà rước đi cất kỹ trong sáu niên. Sống giữa gọng kìm công an cộng sản mà lén lút làm thơ phú vẩn vương diễn tả đời sống đen hơn mõm chó mực của nhân dân để gửi ra nước ngoài thì bị Công An Cộng sản bắt, bị Cộng sản cất đi năm bẩy niên trong tù là chuyện tất nhiên... Cũng là sòng phẳng. Có gì gọi là “trả lời, trả vốn”.

Cộng sản thù ghét nhất những anh Con Trai Bà Cả, Bà Hai Đọi sống trong chế độ của họ mà bới móc, phơi bày những cái xấu của họ qua văn thơ, châm biếm họ bằng thi ca. Họ thù nhất là những anh viết và gửi những bài tố cáo chế độ họ ác ôn côn đồ ra phổ biến ở nước ngoài. Chẳng cần phải tố cáo, chỉ cần than khổ thôi là đã bị coi là phản động và được công an ưu ái hỏi thăm sức khỏe. Mối hận thù truyền kiếp bọn văn nghệ sĩ được đàn anh công an Nga Xô trích vào máu thằng đàn em công an Việt Cộng “... thẳng tay trấn áp bọn văn nghệ sĩ phản động, không cho chúng than khóc...” Công an Việt cộng đã, đang và vẫn làm đúng lời dậy ấy.

Năm 1988, khi bọn “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút”, sau bốn năm tù ở Trung Tâm Thẩm Vấn Số 4 Phan đăng Lưu và Khám Lớn Chí Hòa, sắp “được” đưa ra xét xử lần thứ hai ở cái gọi là Tòa Án Nhân Dân Thành Phố HCM, “Luật sư” Triệu Quốc Mạnh vào nhà tù Chí Hòa gặp chúng tôi, anh là người sẽ “biện hộ” cho nhóm bị gọi là Biệt Kích Văn Nghệ trước tòa. Anh nói:

– Các anh viết bài gửi ra nước ngoài làm cho họ đau lắm. Họ thù các anh và các anh đã bị khổ sở mấy năm rồi. Bây giờ đưa các anh ra tòa tôi thấy họ có vẻ muốn làm cho xong đi. Các anh làm họ đau, họ bỏ tù các anh. Như vậy là huề. Lần này ra tòa, tôi nghĩ các anh không nên găng với họ. Mềm dịu cho xong đi. Các anh ở tù mấy năm như vậy cũng là đủ...

Ai tù hào hùng, khí phách thế nào tôi không biết, tôi chỉ biết tôi tù thôi. Tất nhiên là tôi thấy tôi ở tù mấy mùa lá rụng ngoài song sắt như vậy là – không phải đủ – mà là quá đủ. Năm 1986, trước ngày Đại Hội Đảng Kỳ 6, Công An Thành Hồ đã dàn dựng đưa bọn “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút” ra tòa với cái tội “gián điệp”. Năm ấy họ muốn dựng một vụ Xử Án Điển Hình kiểu “Sát Nhất, Nhị, Tam, Tứ Nhân, vạn vạn nhân cụ, ” một vụ án làm cho tất cả những anh Con Trai, Con Rể, Con Nuôi, Con Hoang, Con Rơi, Con Rớt Nhà Bà Cả trên cõi đời này sợ teo luôn. Nói rõ hơn năm 1986 họ muốn xử chúng tôi với mức án đại khái như vầy:

  1. Doãn Quốc Sĩ: Tử hình hay chung thân.
  2. Hoàng Hải Thủy: Chung thân – 20 niên.
  3. Dương Hùng Cường: 18 niên.
  4. Lý Thụy Ý: 15 niên.
  5. Nguyễn Thị Nhạn: 12 niên.
  6. Hiếu Chân Nguyễn Hoạt: 10 niên.
  7. Khuất Duy Trác: 8 niên.
  8. Trần Ngọc Tự: 8 niên.

Xin quý vị thương cho mà đừng nghĩ là tôi tự đề cao anh em chúng tôi. Việt Cộng sài Luật Rừng, nhưng Luật Rừng cũng vẫn là Luật. Trong cái gọi là Bộ Luật Hình Sự CHXHCNVN có điều quy định tội danh và án phạt bọn “gián điệp” như sau.

Tôi đọc điều luật này trong Ô Ten 10 Sao Chí Hòa năm 1986 và tôi thuộc nằm lòng từ ngày đó:

– Bị coi là gián điệp những kẻ cung cấp tin tức, tài liệu an ninh, quốc phòng cho những Cơ Quan Tình Báo Nước Ngoài.

Cũng bị coi là gián điệp những người tuy không cung cấp tin tức cho Cơ Quan Tình Báo Nước Ngoài nhưng bằng cách nào đó vô tình tiết lộ những tin tức an ninh, quốc phòng để những Cơ Quan Tình Báo Nước Ngoài có thể khai thác.

Án phạt từ 12 năm tù đến tử hình.

– Những tên gián điệp đầu sỏ bị tử hình.

– Những tên tay sai nguy hiểm cũng bị tử hình.

Theo điều luật về xử trị gián điệp trên đây thì nếu năm 1986 Công An Thành Hồ đưa bọn “gián điệp 8 tên” chúng tôi ra tòa xử thì chuyện xẩy ra đã có thể là:

– Gián điệp đầu sỏ Doãn Quốc Sĩ: tử hình.

– Tay sai nguy hiểm Hoàng Hải Thủy: chung thân hoặc có thể cho đi cùng chuyến xe bít bùng với Đầu Sỏ Doãn Quốc Sĩ lên bãi bắn Thủ Đức trong buổi sáng mù sương lạnh. Hai gián điệp cùng đi một chuyến xe không có bông cho đỡ tốn xăng dầu và công sức của anh em công an chuyên giết nhân dân.

Năm 1986, Công An Thành Hồ đã dàn dựng sân khấu, cho quảng cáo tùm lum trên hai tờ Tuổi Trẻ-Công An: “... Ngày... tháng... năm... bọn gián điệp sẽ phải ra trước Tòa Án Nhân Dân trả lời về những tội trạng của chúng...” Nhưng rồi họ tẽn tò, không kèn, không trống, không lời xin khán giả cảm phiền vì phiên tòa bị bãi bỏ, họ im luôn. Phiên tòa năm 1986 hoãn dài ngày.

Năm anh em chúng tôi: Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tự, và tôi, được Công An Thành Hồ cho xe bông đến nhà rước vào Số 4 Phan Đăng Lưu cùng trong đêm Mùng 2 tháng 5 năm 1984. Chịu thẩm vấn ở Phan Đăng Lưu một năm, tháng 5 năm 1985 xe bông đưa chúng tôi sang Thánh thất Chí Hòa. Anh em chúng tôi được đoàn tụ trong lòng xe tù khoảng 20 phút đồng hồ. Trên xe có thêm hai em Trợ tá “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút Nữ”: Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn.

Tù xa từ Bà Chiểu sang Đa Kao, qua rạp xi-nê Casino Đa Kao, vào đường Hiền Vương một chiều, chạy qua bên hông Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi – Đất Thánh Tây trước 1956 – nay đã thành công viên mang tên một anh cà chớn mà tất cả nhân dân Sàigòn đều không ai từng biết: Công viên Lê văn Tám. Chàng Công Tử Hà Đông ghé mắt nhìn qua song sắt tù xa bỗng thấy trái tim chàng đi một đường cảm khái. Đoạn đường Mayer – Hiền Vương từ Đa Kao đến ngã tư Hai Bà Trưng là đoạn đường những năm từ 1954 đến 1958 anh qua lại mỗi ngày vài lần. Anh gặp tình yêu và từng sống tình ái, yêu đương với nàng Alice trong căn nhà 78/5 của con đường Mayer-Hiền Vương này mấy mùa thu vàng. Ngày ấy môi anh còn thắm, tóc anh còn đen, có bao giờ anh ngờ rằng sẽ có ngày anh te tua trên tù xa đi qua con đường thơ mộng này.

Tháng 5 năm 1986, từ Nhà Tù Chí Hòa bọn cai tù đưa Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn trở về nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu. Bọn Công An Thành Hồ chia bọn “gián điệp” ra làm hai trước khi đưa ra tòa. Lần đầu trong đời gặp cảnh tay còng, áo dấu ngơ ngáo ra tòa, choáng váng nhận ra vợ con trong đám thân nhân láo nháo chạy theo, tôi hồi hộp nghe tin con tôi báo: “Hoãn xử...” Trên tiền sảnh chính của Pháp Đình Sàigòn, nơi 50, 70 hay 80, 90 năm trước, các quan Đại Pháp xây lên và cho đặt hai bức tượng Bà Đầm Pháp Luật Phú Lang Sa to tổ bố đứng đưa... bàn cân công lý vào mặt con dân A-na-mít – Anh Mít nào cao lớn lắm cũng chỉ đứng vừa đến đầu gối Hai Bà chớ chưa với được đến bàn cân – Tòa Cộng Thành Hồ có đặt tấm bảng đen ghi những hàng chữ phấn đại khái như:

– Vụ Gián điệp Doãn Quốc Sĩ,

Phòng A...

Dưới hàng chữ có viết thêm hai chữ “Đình Xử”, tức là hôm nay tòa không xử Vụ Gián Điệp. Tòa đình xử, nhưng bọn tòa án không báo cho bọn cai tù Chí Hòa biết. Cai tù Chí Hòa, được lệnh cả tuần trước, cứ đúng lệnh áp giải bọn tội nhân ra tòa. Xe chở tù đổ hàng xuống Tòa xong là đi ngay, chiều mới đến đón tù trở về. Cai tù áp giải phải gọi điện về Chí Hòa, phải chờ xe đến chở hàng về Chí Hòa. Nhờ vậy, bọn “gián điệp 1986” được ngồi ở tòa án từ sáng cho tới trưa thơ thới hân hoan.

Thơ thới, hân hoan vì mấy anh được ngồi trò chuyện thân mật với vợ con. Vợ con mấy ảnh hối lộ cai tù nên được cai tù cho phép vào phòng cách ly ngồi với chồng, với bố. Hai năm trời đằng đẵng mới được nhìn mặt nhau, ngồi gần nhau, cầm tay nhau... Thương cảm, bùi ngùi đứt đuôi con nòng nọc. Tình cảnh ấy khỏi cần diễn tả. Alice nói với tôi:

– Đừng sợ. Anh em mình bên ngoài mạnh lắm. Can thiệp dữ dội. Nó phải hoãn xử, tối qua đài VOA đọc một bài dài lắm, kêu gọi Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc bảo vệ văn nghệ sĩ Việt Nam... Có người nghe thâu băng được cả bài... Lại có tin triệu tập đến hai ngàn ký giả, văn nghệ sĩ khắp thế giới về họp ở New York để lên tiếng về vụ mình...

Tôi hỏi ai triệu tập, Alice nói:

– Em không biết rõ. Nghe nói người đọc bài tố cáo đàn áp văn nghệ sĩ trên đài VOA là Nguyễn Ngọc Linh...

Nguyễn Ngọc Linh hay Nguyễn Ngọc Bích...? Ngọc Linh, Ngọc Bích đều là Ngọc cả. Hôm nay bình yên ngồi viết ở Rừng Phong Lòng Vòng Hoa Thịnh Đốn, Virginia Đất Tình Nhân, nhân danh tám anh em chúng tôi tù tội ở Thành Hồ – hai anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Dương Hùng Cường đã chết thảm trong tù – tôi trân trọng nói lên lời cám ơn của chúng tôi đến anh em bầu bạn khắp năm châu.

Năm 1986, chúng tôi bị kết tội “gián điệp”, án tù tối thiểu 12 niên đến tối đa tử hình. Nhờ anh em bầu bạn khắp năm châu la ó, phản đối dữ dội nên dù muốn, dù đã treo bảng quảng cáo, đã cho bọn văn nô reo hò, nhẩy múa, Công An thành Hồ cũng không xử được chúng tôi. Trở về Chí Hòa nằm ngâm thơ Ngồi Rù thêm hơn một niên nữa đến đầu năm 1988, chúng tôi mới lại “được” trở ra tòa án thành phố HCM chuyên xử tội nhân dân lần thứ hai.

Lần này án “gián điệp” ác ôn đã được bỏ, thay vào đó là tội “Tuyên truyền phản cách mạng”. Tội này có thể gọi là “tội nhẹ nhất trong các tội phản động dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa.” So với tội gián điệp, mức án xử bọn phạm tội tuyên truyền phản cách mạng quá đỗi nhẹ hều: Tù từ 2 niên đến 12 niên tối đa. Không có bị tử hình, tử ảnh, chung thân, chung sơ gì ráo trọi. Đang từ tối thiểu 12 đổi sang tối đa 12 niên, chàng Công Tử Hà Đông sướng rên mé đìu hiu, chàng còn cay cú hay hung hăng con bọ xít gì nữa. Chàng đã bóc được bốn cuốn lịch rồi.

Anh em tù gọi như thế là “đã có vốn.” Tất nhiên khi ra tòa chàng sẽ không nói năng gì để bọn Chánh án tay sai phạng chàng 10 hay 12 mùa Tết Trung Thu Em Không Rước Đèn Đi Chơi – Nàng Alice trẻ lâu thật nhưng nàng cũng không có thể như nàng Hạ Cơ Đông Châu Liệt Quốc trẻ mãi không già – Chàng đã trả cái nợ Hai Mươi Niên, từ 1954 đến 1975 chàng sống và để người khác chết, để vợ con người khác khóc như vậy cũng tạm gọi là đủ, chàng phải lo thân để trở về Ngã Ba Ông Tạ thôi.

Nhưng khi nghe “Luật sư” Triệu Quốc Mạnh khuyên nên “mềm dẻo đừng nói gì gay cấn” để tòa xử cho xong đi, tôi cũng nói:

– Nếu người ta không chửi bới chúng tôi thì chúng tôi sẽ không nói gì đâu. Còn nếu người ta mạt sát chúng tôi thì chúng tôi không thể nói trước được phản ứng của chúng tôi sẽ ra sao.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 2)

Nhân đây, xin viết vài hàng về nhân vật Triệu Quốc Mạnh. Anh có chứng chỉ Cử nhân Luật, gia nhập Cảnh sát Quốc Gia, mang lon đại úy Cảnh Sát. Anh được bổ nhiệm làm Giám đốc Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn trong chính phủ hư thai Dương Văn Minh. Sau Đại Hội Đảng kỳ 6, Tổng bí thư Chăn Trâu Nguyễn Văn Linh tuyên bố: “đổi mới tư duy”, Triệu Quốc Mạnh và Nguyễn Đăng Trừng được phép mở một cái gọi là Phòng Dịch Vụ Pháp Lý. Tiếp đó, để cho có vẻ có pháp luật đôi chút Triệu Quốc Mạnh và Nguyễn Đăng Trừng trở thành “luật sư” biện hộ những vụ án chính trị được mang ra tòa xử. Triệu Quốc Mạnh biện hộ cho đám “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút,” Nguyễn Đăng Trừng biện hộ cho nhóm Tu Sĩ Già Lam Chống Đối trong có Thượng Tọa Thích Đức Nhuận, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Ni Cô Thích Trí Hải, v.v... Năm 1992, trường Đại Học Luật Khoa được Võ Văn Kiệt cho mở ở thành phố Hồ Chí Minh, Triệu Quốc Mạnh là khoa trưởng.

Nghe nói cái gọi là trường Đại Học Luật Khoa Thành Phố HCM bị bọn lãnh đạo ở Hà nội coi là không được danh chính, ngôn thuận. Thủ đô Hà Nội không có Đại Học Luật. Bộ Nội Vụ Việt Cộng có cái trường gọi là Đại Học Pháp Lý chuyên đào tạo các anh chị cán ngố làm nhân viên Bộ Nội Vụ. Những cán đực, cán cái không cần có trình độ học vấn vẫn vào được Đại Học Pháp Lý. Vì vậy người ta thấy có những chị chuối chiên, vịt lộn viết cái biên lai giặt ủi cũng mướt mồ hôi nách trở thành những vị “thẩm phán”. Thời cộng sản mở toang mọi cửa lớn, cửa nhỏ, cửa trước, cửa sau để khều ngoại nhân vào đầu tư cho chúng ăn bám có nhu cầu phải có những chuyên viên về luật thương mại – chuyên viên cán sự thôi, đừng nói đến danh từ “luật sư” đao to búa lớn. Võ Văn Kiệt cho Thành Hồ mở Đại Học Luật Khoa, thu nhận sinh viên dân sự vào học, bọn cộng sản Hà Nội không bằng lòng. Thành Hồ hiện có một số anh được phong đại là “Luật gia” thường xuất hiện trên Tivi nói lăng nhăng về các vấn đề luật pháp. Không ai biết những anh “luật gia” này ở trường Luật nào ra. Lại thêm Đại Học Luật mà Giáo sư Khoa trưởng là ông Cựu Đại úy Cảnh sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa chỉ mới có chứng chỉ cử nhân thì trình độ giảng huấn của trường tất nhiên là khá quá rồi.

Triệu Quốc Mạnh – giống như những anh Trịnh Công Sơn, Phạm Trọng Cầu, Vũ Hạnh – là một thứ “phi cầm, phi thú”. Mấy anh không phải là đảng viên cộng sản. Cộng sản không nhận mấy anh là đồng đảng. Mấy anh phản bội những người quốc gia Việt Nam Cộng Hòa từng nuôi dưỡng mấy ảnh. Hai mươi mùa lá rụng qua rồi, thân phận những anh “phi cầm, phi thú” không có gì đáng để nói.

Trở lại chuyện “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút” tôi nói rõ: Tôi không “trả lời” hai anh Nam Thi – Minh Kiên. Hai anh ở trong hàng ngũ bọn Công An Cộng sản đã bắt giam chúng tôi, hai anh viết vung xích chó về đời tư, vợ con, cha mẹ, việc làm của chúng tôi. Khi ở trong vòng kìm kẹp của các anh, tôi không có điều kiện để viết về việc chúng tôi làm. Hôm nay có điều kiện viết, tôi viết. Tôi đăng một số trang hai anh viết về chúng tôi để bạn đọc của tôi biết các anh đã – học mót bọn Nga cộng, Tàu cộng – “chửi bới” những người phơi bầy những tội ác của Đảng các anh như thế nào.

Mặt trận không tiếng súng... Đó là lời huê mỹ anh Phan Hiền viết trong Lời Tựa “Quái Phẩm” NTBKCB. Trong cái gọi là “Mặt trận không tiếng súng” ấy một bên là phe công an Việt Cộng có súng, có nhà tù, có quyền bắt người, giết người, giam người gần như hoàn toàn tự do tùy ý. Phe bên kia, phe nạn nhân, không phải phe đối nghịch, là nhân dân, chân tay không, những người dân khốn khổ không có qua một chút bảo đảm nào về an ninh, những nạn nhân bị đàn áp suốt đời chỉ chịu trận mà không có qua một cách nhỏ nhất nào để có thể tự vệ, đỡ đòn, đừng nói đến chống trả.

Tôi – người viết loạt bài này – không cho việc Công An Thành Hồ bắt giam chúng tôi là việc xẩy ra trên một “Mặt Trận”. Không phải tôi nhát đến độ sang được Xê Kỳ rồi vẫn còn sợ không dám nhận mình có thời từng “chiến đấu” với Công an Việt cộng trên “mặt trận”, dù đó là “Mặt Trận Văn Hóa.” Theo tôi, gọi việc Công An Việt cộng bắt giam chúng tôi là việc xẩy ra trên một “Mặt Trận” là danh không chính và ngôn không thuận. Anh em chúng tôi chỉ có những cây bút Bic. Và chúng tôi cũng không được sử dụng cây bút để thể hiện một nửa khả năng của chúng tôi. Chúng tôi lén lút viết, lén lút gửi đi. Viết rồi gửi đi thấy lòng ngẩn ngơ như thả con mình đi vượt biên mà không biết nó sống chết ra sao. Người viết có cái lạc thú đọc bài mình in trên trang báo, trang sách, chữ in sáng sủa, gọn gàng. Những mùa thu lá bay vàng võ ở Thành Hồ chúng tôi hoàn toàn không có cái lạc thú đó.

Những ngày, những đêm dài u ám nằm ngâm Thơ Gãi Háng đến chán ngấy ở những phòng giam Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu, Ô ten Chí Hòa, Trại Cải Tạo Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai, đôi khi tôi nghĩ vẩn vương: “Nó có cả một bộ máy tuyên truyền cực mạnh; các báo, các nhà xuất bản, truyền thanh, truyền hình... của nó hết. Tại sao nó không dùng những phương tiện đó để tranh luận với mình? Mình viết về những cái xấu của nó, nó có thể phản bác, trưng bằng cớ nó không có những cái xấu ấy, nhân dân sẽ quyết định thằng nào đúng, thằng nào sai? Tại sao nó không làm thế? Tại sao nó lại phải bắt mình, phải bỏ tù mình?”

Sau những lần nghĩ như vậy tôi vẫn bùi ngùi thương thân. Trong tuyệt vọng tôi đã mong ước những người cộng sản làm với tôi cái việc họ không bao giờ làm. Đó là việc tranh luận để nhân dân làm Ngự sử. Mong cộng sản tranh luận thì thật là ngu đến cỡ phi-ní lô đia, tức ngu hết nước nói. Người cộng sản không đối thoại với bất cứ ai. Cách đối xử duy nhất họ áp dụng với những người không ca tụng họ là bắt, giết, bỏ tù đến chết. “Biết rồi. Khổ lắm. Nói mãi.” Lời Cố Hồng, Số Đỏ – Vũ Trọng Phụng.

Nón cối, dép râu, A-ka, cờ đỏ ngơ ngáo vào Sài Gòn. Cuộc biển dâu khủng khiếp bắt đầu.

Trải qua một cuộc biển dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Hai trăm năm trước người thơ xưa phải chứng kiến cuộc biển dâu Lê-Trịnh-Nguyễn- Nguyễn phân tranh, ông chỉ thấy đau lòng thôi. Con cháu ông không được cái may mắn chỉ chứng kiến biển dâu và chỉ thấy đau lòng như ông. Chúng tôi bị nhận chìm trong biển dâu, chúng tôi chết trong cái dâu biển ghê rợn, thê thảm ấy.

... Ngươi đi bốn biển vui hò hẹn
Ta ở đây chìm dưới biển dâu
Mưa nắng xứ người ngươi gắng chịu
Sắt son dạ ấy chớ phai màu
Thôi ngươi đi nhé. Đừng quay lại
Ta khóc đây ngươi có biết đâu!

Thơ Mặc Thu tiễn Nhã Ca-Trần dạ Từ đi ODP ra nước ngoài. “Ta ở đây chìm dưới biển dâu” là cái ý tôi mượn để tả tình cảnh chúng tôi ở Thành Hồ sau ngày oan nghiệt Ba Mươi Tháng Tư 75.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 3)

Ngày 2 tháng 5 năm 1984, tám anh em chúng tôi bị bắt cùng trong một đêm. Trong số có hai người lần đầu nếm mùi tù ngục Xã hội Chủ nghĩa: Anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt và cô Nguyễn Thị Nhạn. Sáu anh em chúng tôi đều đã qua một lần tù tội. Tôi gọi việc tôi trở vào Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu là “tái đáo Thiên Thai.” Lưu Thần, Nguyễn Triệu ngày xưa trở lại Thiên Thai buồn như thế nào lòng tôi cũng não nùng như thế. Năm 1977 tôi đã bị còng tay đưa vào đứng ngơ ngáo trong những hành lang nhà tù này. Năm 1980 tôi xách cái túi du hành rách từ đấy đi trở ra. Bốn năm sau tôi trở vào. Nhà tù nghèo nàn, u ám hơn, những đoạn đường xi măng sụp, rạn nứt, những vách tường dơ bẩn.

Công An Thành Hồ không loan tin chúng tôi bị bắt trên báo, nhưng chỉ một năm sau – năm 1985 – bọn văn công Việt cộng đã viết về cái gọi là “cuộc đời ái tình và sự nghiệp” của anh em chúng tôi để đăng linh tinh, lang tang trên nhiều báo tháng, báo tuần ở Hà Nội, Thành Hồ. Tuần báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh là tờ viết về đời tư chúng tôi hung hãn nhất. Bọn Cớm Cộng thành Hồ có hồ sơ tài liệu về chúng tôi, chúng khám xét nhà chúng tôi, chúng được bọn “ăng ten” cung cấp nhiều sự kiện về chúng tôi nên chúng có tài liệu để viết về chúng tôi nhiều hơn cả.

Năm 1988, “Quái Phẩm” NTBKCB được xuất bản thành sách. Ở Nhà Tù Chí Hòa chúng tôi được đọc một số trang NTBKCB đăng trên các báo, một số trang khác được người nhà chúng tôi lén gửi vào tù cho chúng tôi. Trí Siêu Lê Mạnh Thát cùng sống với tôi trong phòng 10, lầu Ba, Khu ED Chí Hòa, sau khi đọc một số trang BKCB, nói với tôi:

– Sao chúng nó thù các bác quá?

Tôi không coi việc Công An VC kết tội chúng tôi trong một quyển sách là một vinh hạnh. Tôi chỉ ghi nhận một sự kiện: cùng thời gian chúng tôi bị tù có rất nhiều nhóm hoạt động chính trị bị Việt Cộng đàn áp tàn bạo hơn bọn văn nghệ sĩ chúng tôi rất nhiều. Tôi chỉ kể hai vụ tôi biết rõ, những người trong hai vụ này cùng tù với tôi, nhiều người nằm chung phòng với tôi: Vụ Luật sư Phạm Quang Cảnh bị VC xử tử hình, hai người cùng nhóm với ông là Giáo sư Nguyễn Quốc Sủng, Kỹ sư Lê Công Minh chung thân, nhiều người tù 18, 15 năm. Vụ thứ hai là Vụ Già Lam: Tuệ Sĩ Phạm văn Thương, Trí Siêu Lê mạnh Thát mỗi người tù 20 năm, Thượng Tọa Thích Đức Nhuận tù 10 năm. Nhưng các ông không bị CAVC viết truyện vu cáo, mạ lỵ, mạt sát, chửi rủa, bôi bẩn, bới móc đời tư đến cả đời ông, đời cha như chúng tôi.

Tôi gọi NTBKCB là “Quái phẩm” vì không thể xếp nó vào loại “dzăng phẩm” nào cả. Hai anh Nam Thi – Minh Kiên gọi nó là “truyện”. Tôi thấy nó không phải là “truyện” vì nhân vật trong nó là người thật, đang ở tù thật. Những sự kiện trong nó phần lớn do người viết bịa đặt, tưởng tượng – ngôn từ VC học mót Tàu Cộng, gọi việc tưởng tượng bịa đặt này là “hư cấu”. Nó không phải là phóng sự điều tra vì những sự kiện trong nó không có thật, không có những thông số, thống kê, không có bằng chứng độc lập. Nó lại càng không thể là phóng sự tiểu thuyết vì người ta không thể tiểu thuyết hóa cuộc sống, chuyện đời của những nhân vật có thật đang bị tù tội đến chết – và nhiều người đã chết – trong ngục thất.

Việc viết, ấn hành những “Quái phẩm” như NTBKCB không phải là việc làm mới mẻ do bọn CAVC nghĩ ra. Bọn Nga Cộng đã làm chuyện ruồi bâu, kiến đậu này từ những năm 1922.

NTBKCB do hai anh Nam Thi – Minh Kiên, Tổng và Phó Tổng Biên Tập báo Công An Thành Hồ viết, được xuất bản thành sách, chỉ là một trong số năm bẩy loạt bài viết về nhóm văn nghệ sĩ chúng tôi. Cái gọi là “truyện” đã được in thành sách một lần vào năm 1987. Những trang in tôi trích đăng ở đây lấy ở bản in năm 1994 do nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố HCM tái bản. Ấn bản NTBKCB năm 1994, ngắn hơn, chỉ còn 200 trang. Có nhiều đoạn bịa đặt, dựng đứng trắng trợn, làm chính những người cộng sản cũng cảm thấy lố bịch, ruồi bâu, kiến đậu, có tác dụng phản tuyên truyền trong ấn bản 1987 được bỏ đi trong ấn bản 1994. Chẳng hạn như đoạn tả ông Biệt Kích Doãn Quốc “thả lời ong bướm” với em Lý Thụy Ý, đoạn bịa chuyện anh bạn Không quân Trần Ngọc chở em Nguyễn Thị Nhạn đi chơi quán Cây Dừa Xa lộ làm bà xã anh bạn chúng tôi có cái gọi là “cơ sở” để nghi ngờ và mất cảm tình với anh em chúng tôi. Như đoạn viết về ông Ngoại tôi với câu kết mà bất cứ người viết nào có chút thông minh nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng cũng không hạ bút. Đó là câu: “...Ngày xưa... tri phủ, tri huyện nào mà không nghiện thuốc phiện...”

Người viết cộng sản phấn khởi, hồ hởi vu cáo mạ lỵ, bịa đặt những chuyện xấu gán cho đời ông, đời cha những người bị chúng bắt giam. Đó không phải là chuyện mới lạ. Bọn Nga Xô đã làm cái việc tệ mạt ấy từ năm 1922, tiếp đó là bọn Đức Cộng, bọn văn nô các nước chư hầu Đông Âu, rồi Tầu Cộng. Bọn Việt Cộng chỉ làm cái việc học mót đàn anh.

Trước khi nổ ra vụ Nhân Văn Giai Phẩm đòi văn nghệ phải được tự do năm 1956-1957 ở Hà Nội, Phùng Quán, với bài thơ Lời Mẹ Dặn, được coi là thi sĩ cách mạng vô sản điển hình, là hình ảnh người đảng viên cộng sản kiên cường, bất khuất. Phùng Quán có viết trong tập hồi ký Vượt Đảo. Chế Lan Viên ca tụng Phùng Quán trong bài tựa quyển này là: “... người đảng viên trung kiên, đứa con ưu tú của tổ quốc...” Sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm những bài viết chửi bới tàn tệ Phùng Quán có chi tiết “Ông bố hắn làm Mật thám cho Pháp. Bố như thế thì con không thể khá được v.v...”

Sau Tháng Tư 1975, người Việt Nam đói sách báo, không có sách báo để đọc “từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mâu” như lời những ông rao bán thuốc ho bà Lang Trọc trong những tác phẩm của ông Vũ Trọng Phụng. Tiểu thuyết hoàn toàn không có mặt trong xã hội gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa”. Cái gọi là “truyện” được ấn hành ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ là những bản ca tụng Đảng, ca tụng Bác Hồ và bọn đảng viên, diễn tả những cuộc sống giả tạo, những tâm trạng và những mẫu người không có trong đời sống thật. Anh Công An Huỳnh Bá Thành tung ra quyển “Vụ án Hồ Con Rùa”. Vì nhu cầu đọc của nhân dân quyển sách này bán khá chạy. Từ đó một lô những “Vụ Án...” đủ thứ được in ra. “Bọn xấu” trong những vụ án này là nhân dân. “Bọn tốt” là những chiến sĩ công an phẩm chất đạo đức sáng như gương Tầu, trình độ nghiệp vụ đạt đến đỉnh cao của loài người tiến bộ, tác phong mẫu mực, trong sạch, chí công, vô tư, xả thân vì nước, vì nhân dân, hành động không chỗ nào chê. “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút”, do Nam Thi – Minh Kiên viết, nằm trong loại sách “Vụ Án” này.

Nhưng không mấy lâu, dù cần đọc, nhân dân cũng rất mau chán ngấy loại sách “Vụ Án”. Vậy thì đã xuất bản năm 1987, nếu không có người mua, tại sao năm 1994 quyển NTBKCB lại được tái bản? Nguyên nhân vì Công An Việt Cộng là lực lượng mạnh nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay. Hàng năm họ có khoản tiền lớn chi vào việc cung cấp tài liệu, văn hóa phẩm bồi dưỡng chính trị cho cán bộ Công an. Hai anh Đại tá Nam Thi – Minh Kiên đã về hưu. Quỹ công an mua sách của hai anh để hai anh có khoản tiền.

Tôi trích đăng vài trang hai anh Nam Thi – Minh Kiên viết về chúng tôi để bạn đọc thấy họ đã vu cáo, đã chửi rủa chúng tôi như thế nào. Bị CAVC “chửi rủa” không phải là chuyện nhục nhã mà cũng chẳng phải là một vinh hạnh. Tôi chẳng cần “trả lời” họ. Tôi đăng vài trang họ viết để quý bạn thấy việc làm đê tiện của bọn họ và để tôi viết lên, ghi lại những cảm nghĩ của tôi về những năm tháng u ám tôi sống ở Thành Hồ Ngục Tù.

Khi viết bài này, tôi không hỏi ý kiến các bạn tôi, những người có tên trong quyển “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút.” Chúng tôi tám người bị bắt năm 1984 – hai anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt và Dương Hùng Cường đã chết trong tù ngục cộng sản – năm 1996 chúng tôi còn sống sáu người. Hai người hiện ở Thành Hồ. Cô Nguyễn thị Nhạn hiện ở đâu tôi không được biết. Ba người: anh Doãn Quốc Sĩ, Khuất Duy Trác và tôi ở Hoa Kỳ. Tôi một mình chịu trách nhiệm về những chuyện tôi viết ở đây.

Mời bạn đọc Lời Giới Thiệu truyện “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút” do Cán Cộng Phan Hiền viết.

Lời Giới Thiệu

Trong cuộc chiến tranh trường kỳ bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh hoạt động quân sự mà mọi người đều biết, có những chiến công thầm lặng của các chiến sĩ an ninh, trên một mặt trận không có tiếng súng nhưng rất gay go quyết liệt.

Đặc biệt từ khi cuộc kháng chiến cứu nước giành được thắng lợi hoàn toàn, một cuộc đấu tranh mới lại tiếp diễn vì các lực lượng thù địch vẫn mưu toan phá hoại nền độc lập, xóa bỏ thành quả cách mạng của nhân dân ta trong một cuộc chiến tranh mới. Cuộc chiến tranh trên mặt trận văn hóa – tư tưởng lúc đầu được kẻ thù hoạch định trong “kế hoạch hậu chiến”, sau trở thành một chiến lược diễn biến hòa bình.

Nhận biết rõ bộ mặt thật của các thế lực thù địch, trong khi nhân dân ta tập trung sức xây dựng lại đất nước và mở rộng các mối quan hệ quốc tế, nhân dân Việt Nam không lúc nào xao lãng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững thành quả mà ông bà ta và các thế hệ tiếp nối đã xây đắp nên bằng bao nhiêu máu xương, mồ hôi, nước mắt suốt mấy ngàn năm lịch sử oai hùng.

Cùng với các lực lượng yêu nước trên mọi lĩnh vực xây dựng và bảo vể Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa, các chiến sĩ an ninh nhân dân lại bước vào cuộc chiến đấu mới đầy cạm bẫy và đòi hỏi nhiều trí thông minh, tinh thần sáng tạo trên mặt trận chính trị, văn hóa và tư tưởng. Những chiến công thầm lặng trên mặt trận này cần được phản ảnh, ghi lại một cách đầy đủ với nội dung phong phú, hình thức đa dạng để nêu cao những tấm gương cao đẹp của chiến sĩ và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút” của Minh Kiên – Nam Thi là một trong những tác phẩm văn học góp phần làm phong phú thêm truyền thống đấu tranh bất khuất và ý chí quyết thắng của dân tộc, bảo vệ và phát huy hồn thiêng sông núi Việt Nam.

Phan Hiền

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 4)

Hai trang 5,6 NTBKCB, người viết Phan Hiền. Có thể đây là anh Phan Hiền, nhân viên Bộ Ngoại Giao VC. Lời lẽ chung chung, bài tựa này có thể dùng để làm tựa cho tất cả những “quái phẩm Cộng sản” mạ lỵ nhân dân ta trên cõi đời này. Phan Hiền nhắc lại những lời cũ rích từ khươm mươi niên. Theo đúng thông lệ anh ca tụng bọn công an Việt cộng – những kẻ bị nhân dân căm thù nhất – là những “chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc” hy sinh, mẫu mực, đấu tranh gian khổ trường kỳ.

Bài học đầu tiên trong những khóa dậy nghề Công an Việt cộng có câu: “Quân đội bảo vệ Tổ quốc, Công an bảo vệ Đảng...” Bẩy mươi mùa đói rét trôi qua trên đất nước Liên Xô vĩ đại, Thành trì của Chủ Nghĩa Xã Hội Thế Giới, đến những năm 1988. 1989 bức tượng tên tội đồ Dherzinsky, tên lập ra cơ quan KGB ác ôn nhất lịch sử nhân loại – Tượng đá Vĩ Nhân Dherzinsky oai dũng đứng trước trụ sở KGB – bị nhân dân Nga tròng xích sắt vào cổ, kéo xuống cho ra nằm ở bãi rác. Bọn nhân viên Công an Nga, Tiệp, Đức, Hung trở thành những tên “mặt người dạ thú”. Tờ báo Tuổi Trẻ Thành Hồ năm 1992 đăng một bài dịch từ một tạp chí Tiệp Khắc. Anh công an Tiệp được phỏng vấn trong bài báo này than:

– Đảng đã làm chúng tôi trở thành những kẻ thù của nhân dân.

Quyền lợi của Đảng Cộng sản và quyền lợi của nhân dân chưa bao giờ và không bao giờ đi đôi với nhau. Chuyện ấy, trẻ con lên ba, cụ già chín bó đều biết. Với những người cộng sản, việc “bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân” có nghĩa là bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của bọn đảng viên cộng sản, giữ vững mãi cái chế độ trong đó “người đối xử với người tàn tệ hơn là lang sói”, để yên cho bọn cộng sản mặc tình ăn trộm, ăn cướp, ăn hại, đái nát, hủy hoại đất nước, đầy đọa nhân dân, làm những thế hệ con em sống dở, chết dở trong ngu dốt, nghèo đói.

“Trí thông minh, tinh thần sáng tạo...” của công an cộng sản được biểu hiện bằng việc phóng tay “bắt hết, nhốt hết, cho đi tù chết bỏ”. Kể từ ngày Lenin “vĩ đại” gọi những người chống đảng cộng sản là “bọn sâu bọ”, Công an cộng sản tất cả các nước chẳng may bị bọn cộng sản cướp chính quyền, thẳng tay đàn áp, giết tróc những người không may cùng một dân tộc với chúng.

Tôi sống ở K3 – Trại Cải Tạo Z30A trọn năm 1989, cùng sống với tôi trong trại cải tạo này năm ấy có Thượng Tọa Thích Đức Nhuận, Linh Mục Trần Đình Thủ, Dòng Đồng Công Thủ Đức, Linh Mục Nguyễn Công Đoan, Trưởng Dòng Tên Việt Nam, Tu Sĩ Phật Giáo Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, anh Doãn Quốc Sĩ, Tiến sĩ Sử học Mã Thành Công, Giáo sư Nguyễn Quốc Sủng, Kỹ sư Lê Công Minh cùng khoảng năm trăm người tù chính trị từ khắp lãnh thổ Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1994 khi tôi đi khỏi thành phố HCM, Trí Siêu Lê Mạnh Thát còn ở Z30A, Thượng Tọa Thích Đức Nhuận mãn án đã trở về mái chùa xưa, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương năm 1990 bị điều ra Trại cải tạo Phú Khánh. Trại này nằm trong rừng giữa hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, nên được gọi là Phú Khánh.

Năm 1989 là năm cộng sản không rẫy chết mà chết ngắc ở Đông Đức. Trong Z 30A chúng tôi phấn khởi truyền nhau những tin tức như tin Bức Tường Ô Nhục Bá Linh bị phá đổ, “Đồng chí Eric Honecker vĩ đại” – danh hiệu Việt Cộng tôn xưng “Đồng chí Eric Honecker, Chủ tịch Đảng Cộng sản Đức”, Honecker có sang thăm Thành phố HCM năm 1976 – phải bỏ Đảng chạy ra nước ngoài. Chúng tôi phấn khởi nghe tin nhân dân các nước Đông Âu, theo gương nhân dân Ba Lan, tự phá gông xiềng Búa Liềm, tin vợ chồng Sô-xét-cu, Chủ Tịt Đảng Cộng Lỗ Ma Ni, bị nhân dân lôi cổ ra dí súng vào đầu, bắn bỏ. Những chuyện chúng tôi không thể ngờ có thể xẩy ra trong đời mình.

Tháng Hai năm 1990, mãn án tù lần thứ hai sáu mùa cóc chín, tôi trở về Ngã Ba Ông Tạ. Mang giấy ra trại đến phường công an khai báo để ghi tên trở vào sổ Hộ Khẩu – vừa bị bắt là tên bị xóa ngay trong sổ – anh công an khu vực, nay đổi tên là công an đường phố, bảo tôi:

– Chú viết bản tự kiểm...

Bị coi là có tội, bị bắt, bị ra tòa, bị kết án, mãn án tù, về nhà, còn tự kiểm, tự cáo gì nữa? Tôi nghĩ. Tôi hỏi:

– Tôi tự kiểm về chuyện gì?

– Về những việc chú đã làm – Anh công an Ông Tạ trả lời tôi, anh giải thích – Chú đã làm gì để bị bắt? Chú làm những gì trong thời gian cải tạo. Chú có suy nghĩ gì? Và bây giờ về chú dự định sẽ làm gì?

Tôi nghĩ thầm: “Anh mới là người phải viết tờ tự kiểm những tội lỗi của anh và của bọn anh với nhân dân chứ? Tại sao đến bây giờ tôi vẫn còn phải viết tờ tự kiểm với anh...?” Cộng sản nó sụp ở những đâu đâu, ở quê hương tôi nó còn vững lắm. Tôi bùi ngùi cầm bút viết trang tự kiểm cho xong. Tôi vụng dại đủ mọi thứ, làm việc gì cũng bê bối không giống ai, được cái viết vớ vẩn vô thưởng vô phạt thì tôi mần khá dễ dàng.

Bọn công an cộng sản Nga, Đức, Tiệp, Hung, Ba Lan, Lỗ đã phải “trả lời những tội trạng của chúng trước nhân dân”, đã “phải cúi đầu nhận tội”, đã nhục nhã vì bị nhân dân chửi rủa, khinh bỉ, vợ con tủi hổ, xa lánh.

Sẽ có ngày đẹp trời bọn cộng sản Việt Nam cũng phải chịu chung số phận với bọn đàn anh của chúng. Ngày đẹp trời ấy bao giờ đến? Tháng mấy? Năm hai ngàn mấy? Tôi có được thấy ngày đẹp trời ấy chăng? Thôi thì đành tự an ủi bằng ý nghĩ: “Mình đã thấy cộng sản sụp ở gốc rễ của nó rồi. Trước sau gì mấy cành cây mục cũng chết theo thôi. Đừng có nóng...”

Nhưng tại sao tôi lại bi quan nhỉ? Đời tôi còn những hai bó nữa kia mà? Hai bó nhiều lắm, lâu lắm chứ. Hai bó là hai mươi quyển lịch Tam Tông Miếu. Chịu khó bóc vài ba tập lịch nữa thôi, ngày đẹp trời sẽ đến. Có thể lắm chứ. Biết đâu đấy.

Trích NTBKCB, trang 7, 8, 9.

Hơn một tuần nay, Nguyễn Trí Văn được nhận vào làm lái xe cho một Công ty Xuất khẩu hải sản. Nhờ người anh họ từ miền Bắc vào công tác ở thành phố quen với Trưởng phòng Tổ chức cán bộ Công ty giới thiệu nên Văn được nhận dễ dàng, vả lại anh không có quan hệ chính trị gì phức tạp. Tuy là Thượng sĩ trong quân đội Saigon cũ, nhưng anh ta chỉ biết cầm súng khi còn ở quân trường, sau đó được tuyển vào đội bóng đá của Sư Đoàn 3 Không Quân. Từ giã vị trí trung phong trên sân cỏ đã mấy năm rồi nhưng phản xạ của cơ bắp vẫn còn tốt cho nghề lái xe. Anh ta cảm thấy xin được việc làm ở một cơ quan Nhà Nước là điều may mắn đối với mình.

Cũng trong thời gian này, điều may mắn thứ hai lại đến. Anh vừa nhận được món hàng nhỏ từ Paris gửi về. Thật là của từ trên trời rơi xuống, giữa lúc gia đình anh gặp khó khăn túng thiếu. Gói hàng có kèm theo lá thư với mấy dòng vắn tắt:

Paris ngày...

Văn thân mến,

Xin gửi cho em món quà nhỏ. Gọi là của ít lòng nhiều. Mong rằng em vẫn còn ở chỗ cũ và nhận được thư này. Hãy viết thư ngay cho anh sau khi nhận được thư.

Thân ái,

Trần Tam Tiệp

Thật là một niềm vui bất ngờ đối với Nguyễn Trí Văn.

Khi nhận quà về, Văn đã khoe với vợ con, bạn bè rằng Tiệp là anh em “kết nghĩa”, mặc dầu ông ta vốn là Trung tá, “Mạnh thường quân” của đội bóng ngày xưa của anh. Và đây là lần đầu tiên anh được tin tức của cấp chỉ huy cũ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975

Lúc này, nhiều sĩ quan cũ mà anh biết đi học tập chưa về, môt số người được về lại đã dông ra nước ngoài. Trước đó, Văn cho rằng có liên lạc với các ông “xếp” ấy cũng chả cần thiết. Thật tình anh không còn nghĩ đến ai. Cái quá khứ ấy cũng nên quên đi, trừ những lần đi xem những trận bóng ở sân Thống Nhất, anh vẫn nhớ lại quãng đời cầu thủ ngắn ngủi của mình. Nay được thư kèm theo quà, anh thấy cũng hay. Quá khứ lại sống dậy trong anh. Hơn một tháng sau khi trả lời thư của Trần Tam Tiệp, anh lại nhận được lá thư thứ hai của ông ta. Gói quà lần này sộp hơn lần trước nhiều, đem ra chợ trời bán gần được 4000 đồng, đủ trang trải mấy món nợ, còn dư may sắm cho vợ con. Trong thư Trần Tam Tiệp nhờ tìm gặp Trung úy Không quân Trần Ngọc Thự và một số người khác để lấy địa chỉ gửi qua cho Tiệp. Ông ta bảo những người đó là bạn thân, ông ta cần biết địa chỉ để gửi quà về giúp. Văn thấy không thấy gì trở ngại, vả lại đây là chuyện”tình nghĩa” không có lý do từ chối. Chỉ trong hai Chủ nhật, Văn đã tìm gặp được mấy người bạn cũ, và từ người này hỏi thăm người nọ, cuối cùng anh đã gặp hầu hết những người Tiệp cần biết tin tức.

Sau lần ấy, Văn còn nhận thêm vài món quà nữa, rồi Tiệp viết thư báo sắp bận đi làm ăn xa. Từ đó bặt tin luôn. Văn thấy như vậy cũng đủ rồi. Làm một cái gạch nối cho viên chỉ huy cũ liên lạc với anh em bạn bè, anh đã hoàn thành và cũng đã được trả công. Anh trở về với nếp sống cũ và hầu như quên đi chuyện ấy, chỉ còn giữ lại mấy cái hộp giấy đựng quà làm kỷ niệm

Nhân vật Nguyễn Trí Văn có thật. Là một cầu thủ khá nổi trong đội banh Không quân, Nguyễn Văn Trí được anh em không quân biết tên, biết mặt. Nghe nói anh vẫn được gọi bằng cái tên thân thương Trí Lùn.

Những Tên BKCB mở đầu bằng 3 trang nói đến Nguyễn Trí Văn tức Nguyễn Văn Trí. Và từ Trí Lùn “giới thiệu” đến Trung tá Không quân VNCH Trần Tam Tiệp, ông “Dượng Ba” thương mến của anh em chúng tôi...

Công an Thành Hồ cay cú Dượng Ba của chúng tôi nhất. Mấy ảnh kết tội Trần Tam Tiệp là người chủ động trong những việc:

  1. Tranh đấu trong những tổ chức văn học – chính trị quốc tế để bảo vệ những văn nghệ sĩ Saigon bị cộng sản đàn áp.

  2. Tố cáo trước dư luận thế giới những hành động bạo tàn của VC ở Việt Nam.

  3. Làm nhịp cầu liên lạc giữa những văn nghệ sĩ Saigon sống dưới ách đàn áp thô bạo của cộng sản với những tổ chức văn học-nhân quyền quốc tế như PEN International, Amnesty International: Hội Văn Bút Quốc Tế, Hội Ân Xá Quốc Tế.

  4. Cung cấp sự giúp đỡ về tinh thần và tiền bạc cho những văn nghệ sĩ kẹt giỏ ở Thành Hồ đỡ tả tơi, cuộc sống bớt chút màu sắc đen hơn mõm chó mực.

Công an Thành Hồ gán cho Trần Tam Tiệp cái tội “thúc đẩy chúng tôi viết và gửi tác phẩm ra nước ngoài...”

Và Công an Thành Hồ cay cú nhất vì mấy ảnh cóc đụng được vào cái lông chân nào của Trần Tam Tiệp. Dượng Ba của chúng tôi sống ở Paris. Các anh Công an VC hung hăng con bọ xít bắt, bỏ tù mút chỉ cà tha mấy tên dzăng nghệ sỡi kẹt giỏ bị mấy anh gọi là Biệt Kích Cầm Bút – mấy ảnh là công an VC cầm súng –
nhưng mấy ảnh hận mà hổng có làm gì được Dượng Ba Trần Tam Tiệp của chúng tôi. Vì vậy mấy ảnh cay cú dữ dội.

Trong thời gian tôi bị thẩm vấn ở Nhà Giam Số 4 Phan Đăng Lưu – những tháng 5,6,7 năm 1984 – Sáu Khôi, một nhân viên cấp trung của sở Công an thành phố HCM, đến nhà giam chỉ huy bọn thẩm vấn chúng tôi. Sáu Khôi không đích thân thẩm vấn chúng tôi. Y chỉ ghé vào các phòng đang thẩm vấn, ngồi nghe, góp vài ý kiến. Tôi thấy rõ Sáu Khôi căm thù Trần Tam Tiệp. Mỗi lần nói đến Dượng Ba của chúng tôi, Sáu Khôi đều gằn giọng: “... Thằng Tiệp... Thằng Tiệp...”

Đọc mấy trang NTBKCB trên đây, ta thấy hai anh Nam Thi – Minh Kiên viết về Trí Văn nhẹ hều. Đi tìm những ông không quân vất vưởng ở Thành Hồ để những ông này liên lạc với Trung tá Trần Tam Tiệp ở Paris, nhận được vài thùng quà. Rồi thôi. Chẳng có tội gì cả. Nhưng... “Dziệc cộng dziếc dzậy mà hổng phải dzậy...” Dziệc cộng công an nói và dziếc lại càng khác nhau. Sự thực não nùng bi đát đúng kiểu VC là chỉ vì cái tội đi tìm mấy ông bạn đồng ngũ không quân giúp Trung tá Trần Tam Tiệp, anh Nguyễn Trí Văn, tức Nguyễn Văn Trí, tức Trí Lùn Đội Bóng Không Quân Quân Lực VNCH, bị công an Thành Hồ cho xe bông đến tận nhà – nghe đâu Trí ở Gò Vấp – ưu ái đưa vào Số 4 Phan Đăng Lưu cho nằm ngâm thơ Gãi Háng – cơm tù bưng đến tận cửa xà lim, nước tù xịt xà lim cho tắm vì những ống nước nhà tù đặc cứng rỉ sét – Không hề bao giờ là Biệt Kích Cầm Bất Cứ cái gì, Nguyễn Trí Văn cũng nằm xà lim, ăn cơm nhạt xỉu xỉu mười tháng.

... Văn thấy không có gì trở ngại, vả lại đây cũng là chuyện tình nghĩa không có lý do gì từ chối...

Nguyễn Trí Văn không đến nỗi phải chết vì “tình nghĩa”. Anh chỉ vì “tình nghĩa” mà bị Công an Việt cộng cho đi tù gần một mùa lá rụng...

... Anh trở về với nếp sống cũ và hầu như quên đi câu chuyện ấy, chỉ còn giữ lại mấy cái hộp giấy đựng làm quà kỷ niệm...

Poste Phú Lang Sa văn minh hơn Post Mẽo ở những hộp các-tông đựng quà. Những hộp giấy vàng vuông vắn, gọn đẹp. Những năm đầu thập niên 80 một trong những lạc thú hào hứng nhất của những Anh Con Trai, những Chị Con Dâu Bà Cả Đọi ở Thành Hồ là đến Bưu Điện hay vào phi trường Tân Sơn Nhất lãnh đồ. Gần như cả nước sống nhờ đồ ngoại quốc gửi về. Có đồ là có tất cả. Có đồ là nỗi tuyệt vọng mênh mang trong lòng ta dịu bớt, vơi đi, ta được tiếp đôi chút hy vọng để có thể không chết. Nỗi sợ hãi công an trong ta cũng nhạt đi khi ta có đồ. Đồ càng lớn, càng nhiều, càng tốt. Tất nhiên. Nhưng đồ nhỏ cũng rất tốt. Chỉ một paquet một ký lô thuốc Tây từ Pháp quốc văn minh phồn hoa trữ tình lãng mạn sông Seine mờ sương trắng – là áo sương mù hay váy em. Ga Lyon đèn dzàng... Những anh Con Trai Bà Cả Đọi từ muôn kiếp trước đến muôn kiếp sau chưa từng một lần được đặt những bước loạng quạng đến Paris, chưa từng biết mùi Đầm là gì... vẫn xúc động khi nghe chuyện lên xe tiễn em đi. Chưa bao giờ buồn thế... – những paquet quà thơm phức từ Pháp quốc gửi về Thành Hồ. Mỗi paquet – tuy không đủ lãng quên đời – cũng đủ cho hai vợ chồng và ba con nhỏ sống được một tháng.

Đấy là thời gian những anh Con Trai Bà Cả Đọi ở thành Hồ được gọi là những anh Tư Đê. Đúng ra mấy ảnh là mấy anh Năm Đê. Ngoài một tiếng Đê, ngôn ngữ thuần túy dân tộc, mấy ảnh luôn luôn sài bốn tiếng vần Đê:

– Đi, Đồ, Đói, Đợi

– Sao không đi? Còn ở đây?

– Đi không được. Sao lại không đi!

– Có tính đi không? Có đường đi không?

– Có đồ không?

– Đói thấy mồ...

– Đành đợi vậy...

Mấy ảnh nói mấy ảnh đợi, nhưng chính mấy ảnh cũng không biết mấy ảnh đợi ai, đợi cái gì, đợi đến bao giờ...

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 5)

Thời ấy – những năm đầu thập niên 80 Thành Hồ có mấy câu Phóng Dao tả cảnh những anh Con Bà Cả Đọi đi lãnh đồ:

Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Đôi tay anh vín đôi cành
Quả chín anh hái quả xanh anh vồ
Năm sáu năm nay anh ăn ở Thành Hồ
Anh ra Bưu điện lãnh đồ em cho
Đồ em vừa nặng vừa to
Anh đã con mắt, anh no cái mồm...

Thấy mấy cái hộp đồ Poste Pháp tốt quá Trí Văn giữ lại làm kỷ niệm. Anh đâu biết mấy cái hộp giấy vô thưởng vô phạt đó sẽ bị công an VC coi là những bằng chứng về tội anh liên lạc với người nước ngoài. Tôi không gặp Trí Văn lần nào, nhưng tôi biết chắc mà không cần hỏi là khi bắt Trí Văn, bọn công an CS tịch thâu mấy cái hộp đựng quà, ghi vào biên bản bắt, coi đó là “tang vật”.

Vợ chồng Anh Con Trai Bà Cả Đọi trong mấy mùa thu lá rụng ở Thành Hồ – từ 1980 đến 1984 – có may mắn được hai vị sống ở Pháp gửi thuốc tây cứu trợ nhiều nhất. Hai ân nhân của anh chị là:

– Dượng Ba Trần Tam Tiệp, Tổng Thư Ký Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.

– Cô Phương Hương Cao Ngọc Phượng, tu sĩ Phật giáo. Từ năm 1992, cô đã xuống tóc quy y, pháp danh Thích Chân Không.

Trong mấy mùa lá đa rụng ấy Alice làm hoa vải tại gia. Nàng giữ lại những hộp giấy đựng đồ làm hoa. Trong căn nhà nhỏ ở Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ của vợ chồng anh chị có đến mấy chục cái hộp giấy của Poste Pháp.

Trong đêm công an Việt cộng đem chiếc xe bông thứ hai đến Cư Xá Tự Do đón anh chồng đi lần thứ hai – đúng là tội nghiệp anh Con Trai Bà Cả Đọi. Anh chỉ can tội dính líu tí ti vào bộ phim Hai Chuyến Xe Bông dưới bóng cô đào Thanh Nga thôi. Dzậy mà đời anh cũng tả tơi hoa lá vì hai chuyến xe bông thực sự. Trong vòng mười niên mà hai lần đi xe bông công an Việt cộng thì đúng là đời anh đen hơn mõm chó mực – Trong đêm anh bị bắt lần thứ nhì, công an xếp một đống hộp đựng đồ từ Pháp gửi về ở giữa nhà, bắt vợ chồng anh đứng “chụp ảnh với tang vật”.

Trong đống “tang vật” có hai hộp cạc tông không phải hộp đựng quà trả công cho gián điệp. Anh Con Trai đứng rũ liệt chân tay, chị Con Dâu vẫn còn cố tranh đấu đến cái gọi là hộp giấy cuối cùng:

– Mấy cái hộp đó không phải là hộp đựng đồ ngoại quốc gửi về. Tôi yêu cầu mấy anh bỏ ra...

Anh Con Trai nói với vợ:

– Thôi em ơi. Nếu không có tội thì dù ta có cả ngàn cái hộp như thế này ta cũng không có tội. Còn có tội thì chỉ cần một cái hộp cũng đủ rồi...

Như vậy là trong đêm Công an Thành Hồ đến bắt tôi lần thứ hai – hai giờ đêm ngày 2 tháng 5 năm 1984 – Alice có vài bức ảnh chụp chung với anh chồng vất vả trước đống tang vật. Những tấm ảnh này hiện nằm trong Kho Hồ sơ Nhân dân Tù tại Sở Công an thành phố HCM.

Hơn mười mùa mít chín trôi qua, hôm nay ngồi bình an viết những dòng này ở Rừng Phong Arlington, bang Virginia của những người Còn Trinh và Yêu Nhau, hồi tưởng lại giây phút vợ chồng sánh vai nhau đứng trước ống kính máy ảnh của bọn công an Việt cộng nửa đêm trong căn nhà nhỏ tôi có một nỗi bực mình nho nhỏ.

Tôi bực mình vì chính tôi. Đêm ấy khi bọn đầu trâu, mặt ngựa ùn ùn kéo vào căn nhà nhỏ của tôi rồi tôi vẫn còn mong đợi một cách ngu si, đần độn quá mức là chúng chỉ vào “xét sổ hộ khẩu” sơ sơ rồi đi. Bởi nghĩ như vậy và muốn chúng ra mau mau đi ra khỏi nhà để mình tiếp tục ngủ lại, tôi đã không sửa sang cho người ngợm tôi đừng tả tơi quá.

Nửa đêm về sáng, đang ngủ mệt, bị công an đập cửa dựng dậy, hào hoa phong nhã đến như các ông Phan An, Tống Ngọc, Tư Mã Tương Như cũng... nát như tương. Lúc ấy tôi đầu bù, tóc rối, mắt có ghèn, miệng hôi, áo quần xộc xệch. Phải chi tôi cứ mặc cho chúng ngồi đợi – khi chưa đọc lệnh bắt giam, chúng chưa sẵng giọng với mình – tôi đàng hoàng đi làm vệ sinh, đánh răng, rửa mặt, chải đầu, bận sơ mi, quần tây săng pờli đàng hoàng rồi mới ra tiếp chúng. Thì đã sao? Đầu tóc tả tơi, quần áo xộc xệch, mặt mũi nhơm nhếch thì chúng cũng bắt, cũng tù. Trang phục chỉnh tề, bộ dạng hào hoa phong nhã thì cũng chỉ đến đi tù thôi. Đằng nào cũng tù nhưng tù đường hoàng, tại sao mình lại tù rúm ró thiểu não?

Than ôi... Khi tôi có được cái kinh nghiệm ấy thì đã muộn màng. Tôi không còn có dịp dùng đến kinh nghiệm ấy... Qua hai lần bị Việt cộng bắt, bị Việt cộng thẩm vấn, tôi có cảm tưởng như tôi là một em trinh nữ lần đầu tiên bị đàn ông hiếp dâm – trinh nữ bị hiếp dâm lần đầu, tôi không nói đến những trinh nữ bị hiếp dâm năm bẩy chục lần dài dài và đều đều – Em trinh nữ bị hiếp dâm lần đầu thường mềm nhũn chân tay, không chống cự mà cũng chẳng phản ứng, thuận ứng gì cả – Với bọn Việt cộng bắt tôi, hỏi cung tôi, đe dọa tôi, tôi cũng mềm như bún. Nhiều đêm nằm vắt chân lên trán trong biệt giam nhớ lại buổi hỏi cung trong ngày tôi vẫn bực bội với chính tôi:

– Sao mình lại có thể ngu đần quá đến như dzậy? Sao lúc nó hỏi câu ấy mình lại không trả lời như vầy... như vầy... Trả lời như thế thì tội mình đâu có nặng hơn? Tại sao mình lại trả lời một câu ngu đến như thế chứ?

Tôi giống như các em trinh nữ bị hiếp dâm lần đầu nhưng tôi cũng có một điểm khác các em. Đó là điểm có một số các em dường như cũng mong, cũng thích bị hiếp dâm còn tôi, tôi không thích công an Việt cộng hiếp dâm tôi một ly ông cụ nào.

Khi viết về những người bị các anh gọi văn huê là “Những tên biệt kích cầm bút”, những người bị các anh bắt giam mút mùa trinh nữ và khép vào tội nặng “Gián Điệp Tử Hình” v.v... hai anh cớm Minh Kiên – Nam Thi đã cố tình không viết một chi tiết quan trọng. Hai anh đánh bài vờ như chuyện đó không có. Họ chỉ nhắc qua đến chuyện đó trong có một dòng.

Đó là sự kiện trong số 8 Biệt Kích Dzăng Bút bị bắt ở Thành Hồ Tháng 5 năm 1984, có đến 6 mạng đã bị bắt đi cải tạo, đi tù từ hai đến năm, sáu mùa lá rụng. Kể tên:

1. Gián điệp đầu sỏ Doãn Quốc Sĩ: Đã tù năm niên, năm 1981 từ trại Gia Trung – Gia Lai trở về đường An Dương Vương, Sàigon.

2. Khuất Duy Trác: Năm niên, năm 1981 từ miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa trở về đường Lý Thái Tổ, Sàigon.

3. Trần Ngọc Tự: Năm niên, từ Phú Quốc, Hoàng Liên Sơn trở về khu bên trong Cổng Xe lửa số 6, Sàigòn.

4. Dương Hùng Cường: Ba niên, từ đâu đó hổng nhớ trở về căn nhà ở gần cái gọi là “Trung tâm Nữ Quân Nhân” đường Lý Thường Kiệt. Ngày xửa, ngày xưa trên mục “Cà Kê Dê Ngỗng”, báo Con Ong, chủ nhiệm Minh Vồ, Dê Húc Càn, bút hiệu của Dương hùng Cuờng, từng viết một bài về cái gọi là “Trung Tâm Nữ Quân Nhân”. Anh théc méc không hiểu cái Trung tâm ấy nó mô tả ký gì.

5. Lý Thụy Ý, nữ biệt kích, từng có thời giữ Trang Kaki Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, tù hai mùa mít chín.

6. Hoàng Hải Thủy: tù nhẹ nhất, 23 tháng ngồi rù trong trại giam số 4 Phan Đăng Lưu, cuối 1979 trở về khu Hồ tắm Cộng Hòa Ngã Ba Ông Tạ nổi tiếng về bộ môn Cầy Tơ dân tộc.

7 và 8: Khứa lão Hiếu Chân Nguyễn Hoạt và Em Ghế Tơ Nguyễn Thị Nhạn là hai người mới nếm mùi tù cộng sản lần thứ nhất.

Minh Kiên – Nam Thi bị bắt buộc giả vờ không biết bọn văn nghệ sĩ Sàigòn bị bắt lại đã chịu một lần tù tội – ngôn ngữ Việt cộng học mót Trung cộng là “cải tạo” – bởi vì nếu họ viết ra chi tiết này thì kỳ quá. Té ra mấy tên Sè Goòng bại trận này chúng nó gan cóc tía hay sao? Đã một lần tù rồi chúng vẫn không tởn? Chúng vẫn coi như “nơ pa”? Dzậy là sao? Nếu không phải bọn chúng gan lì thì chế độ “giáo dục cải tạo bằng lao động” do đảng ta học mót và áp dụng chẳng có qua một tí ti giá trị thực tiễn gì cả sao?? Mà nào có phải là bọn chúng bị đi tù năm bẩy tháng gì cho cam? Tên nhẹ nhất cũng hai mùa lá rụng, tên nặng là năm, sáu năm.

Khi phịa ra cảnh Hoàng Hải thả lời ong bướm kiểu cải lương miệt vườn với bà chủ Vi-la Kiều Trang, Nam Thi – Minh Kiên gài cho Hoàng Hải nói:

– Tôi gác bút rồi. Viết ký gì bi giờ???

Sai. Dziệc cộng dzô Sè Goòng, Hoàng Hải – cũng như những Anh Con Trai Bà Cả Đọi khác – bị bắt buộc phải gác rất nhiều thứ nhưng bút thì anh không bao giờ “gác” cả. Bằng chứng: Tạp chí Thời Tập, do Viên Linh chủ trương, ấn hành số 1 tháng Tư năm 1979 ở Hoa Kỳ đã đăng bài viết gửi đi từ Thành Hồ của Hoàng hải Thủy, có cả ảnh đương sự ở trần, rầu rĩ triển lãm bộ xương bọc da trước lá cờ đỏ sao vàng ở giữa lòng Thành Hồ.

Tôi đăng lại một số bài tôi viết trước 1977 và trước 1984, được đăng ở hải ngoại trước nhất là để khoe, thứ hai là để làm bằng chứng hai anh Nam Thi – Minh Kiên bảo tôi “gác bút” là viết không đúng.

Ngay từ đầu năm 1976 tôi đã lai rai viết ra ngoại quốc với mục đích diễn tả thực trạng đời sống của nhân dân Sàigòn. Tôi diễn tả những nỗi buồn sầu tuyệt vọng nhiều hơn là chửi bới Việt cộng, những bài tôi viết không hô hào người khác cầm súng bắn Việt cộng. Nhưng dầu sao thì bọn văn nghệ sĩ Sàigòn không nhanh chân bỏ của chạy lấy người kịp chúng tôi cũng đã tìm cách viết ra nước ngoài rất sớm – sớm đến cái độ có thể gọi là “Sớm nhất thế giới”. Chỉ xỉu xỉu sáu tháng sau ngày nón cối, dép râu, răng cải mả, tóc bím, đít bự như cái thúng, ngơ ngáo kéo vào Sàigòn chúng tôi đã có thư, tin, bài, thơ linh tinh đủ thứ gửi ra nước ngoài. Chẳng phải là vì chúng tôi can đảm hay giỏi giang gì hơn người, phần lớn tại vì đến năm 1975 tình hình chính trị thế giới đã bắt đầu có những chuyển biến bất lợi cho bọn cộng sản. Sự liên lạc bằng thư giữa những nước tư bản Âu Mỹ với thành phố Sàigòn bị cưỡng hiếp đổi tên được tái lập ngay sau ngày 30 Tháng Tư 75; thư từ Xê Kỳ, Pháp gửi về Sàigòn tới tấp, thư con cá Sàigòn vượt đại dương đi các nước tự do, tư bổn cũng nườm nượp. Nhờ vậy bọn chúng tôi mới lén gửi được những bức thư tả oán ra khỏi nước. Xin so sánh với tình trạng các nước đàn anh Xã hội Chủ nghĩa: Khi bức màn sắt rơi xuống nước Nga, hai mươi mùa trứng caviar đóng hộp sau vẫn chưa có một văn nghệ sĩ Nga nào sống trong nước gửi được những tác phẩm chống chế độ bạo tàn ra nước ngoài. Khi bức màn tre chụp xuống Trung Quốc, sau hai mươi mùa lệ chi được gửi Express đến Đảo Bồng Lai cho nàng Dương Thái Chân thưởng thức, mới có lẻ tẻ vài ông chính khứa Tầu cộng bỏ đảng dzọt được sang các nước Pháp, Anh lai rai viết tố cáo những tội ác ghê rợn của chế độ Trung Cộng.

Le Parisien: Hoang Hai Thuy a refusé de se taire

Dưới đây là bản dịch bài báo viết về “Kiệt kích dzăng bút Hoàng Hải Thủy” đăng trên nhật báo Le Parisien, Tháng Tư năm 1988. Người viết là Nữ ký giả Catherine Monfazon:

Đáp ứng lời kêu gọi của Hiệp Hội Phóng Viên Không Biên Giới – L’Association Reporters sans frontières – 38 cơ sở truyền thông Pháp quốc đã nhận bảo lãnh mỗi cơ sở một ký giả bị tù vì làm tròn công việc của mình. “Le Parisien” tự chọn tranh đấu cho sự tự do của Hoàng Hải Thủy, ký giả Việt Nam, hiện đang bị bỏ quên trong một trại lao động cải tạo.

Chúng tôi yêu cầu chính phủ Pháp quốc không những chỉ vận động để đưa ông Thủy ra khỏi nhà tù mà còn, theo sự đòi hỏi của gia đình ông ta, đưa ông ta ra khỏi quốc gia của ông ta...

Hoàng Hải Thủy không chịu câm miệng

Đừng nói đến cái tên Hoàng Hải Thủy ở Việt Nam, nói đến cái tên đó trong điện thoại, đường dây sẽ bị cắt, trong đường phố những đôi mắt sẽ nhìn xuống đất. Được nhờ đến Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, được coi như là một động lực của công cuộc đổi mới của Việt Nam, sẽ bực bội gạt bạn sang Bộ Tư pháp, một cách từ chối, không tiếp khéo léo.

Hoàng Hải Thủy năm mươi chín tuổi, đêm đêm nằm ngủ trên tấm ván rộng năm mươi phân giữa ba ngươi người bạn tù chung phòng giam trong trại cải tạo Xuân Lộc, một nơi cách thành phố HCM (Sàigòn) một trăm hai mươi cây số. Những lời buộc tội thật mơ hồ “Lên tiếng chống chủ nghĩa cộng sản” Người ta trách ông ta đã gửi ra nước ngoài những bài thơ, bài viết không sao có thể đăng được trong những tờ báo Việt Nam bị rọ mõm.

Hoàng Hải Thủy biết rất rõ những người cộng sản. Bên cạnh họ ông đã tham gia kháng chiến năm 1945. Nhưng kề từ đó ông chỉ đi theo một con đường: nhân bản. Thi sĩ, văn sĩ, ký giả, dịch giả: ông được nhiều người biết vì tính tình hay nói thẳng, vì niềm hăng say tố cáo những sự bất công. Ông tự ý làm những việc ấy. Trước năm 1975 ông công khai chỉ trích chế độ cũ trên những tờ báo châm biếm như tờ Con Ong (nghĩa đen là con ong chuyên châm chích). Ông cũng là viên chức của Trung tâm Thông Tin Hoa Kỳ, USIS.

Năm 1974, ông dịch “Trăm năm cô đơn” của Garcia Marquez. Bản dịch truyện này bị cấm xuất bản. Bản dịch “Quần đảo ngục tù” (Archipel du Goulag) cũng bị cấm. Lần này là đảng cấm. Sau năm 1975 Hoàng Hải Thủy phải sống nhịn nhục. Nhưng ông từ chối không chịu im tiếng. “Ông ấy không thể im lặng trước những đau khổ của đồng bào ông. Ông ấy tức giận khi thấy bọn cán bộ kêu gọi người khác hy sinh nhưng chính chúng lại sống như vương giả”. Đấy là lời một người bạn của Hoàng Hải Thủy nói về ông.

Năm 1977 ông ta đã bị bắt lần thứ nhất, bị giam hai mươi ba tháng trong nhà tù Chí Hòa. Vừa ra khỏi tù, ông lại cầm bút. Ông bị bắt lần thứ hai năm 1984. Năm 1988, ông bị xử ở tòa án. Người bạn của ông nói tiếp về ông: “Trong phiên xử, ông ấy có nói ông không viết vì thù hận chính quyền mà viết để chống lại tất cả những kẻ dối trá từ trong trái tim...”

Bị tuyên án sáu năm tù Hoàng Hải Thủy chỉ được trả tự do vào tháng Năm năm 1990. Ông còn phải chịu đựng nhiều tháng sống trong trại cải tạo vì thái độ tự do tư tưởng của ông, một thái độ mà cái chính phủ vẫn tự nhận là đã mở nắp nồi và đổi mới vẫn không thể chấp nhận được.

Nữ ký giả Catherine Monfazon
Nhật báo Parisien

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 6)

Quý vị vừa đọc bản dịch bài báo của nữ ký giả Catherine Monfazon, Nhật báo Le Parisien, ấn hành ở Paris. Năm 1988, nữ phóng viên Monfazon đi Bắc Kinh, Trung Quốc, rồi đến Hà Nội và thành phố HCM. Vì nhật báo Le Parisien nhận bảo trợ và đòi trả tự do cho người viết Hoàng Hải Thủy, cô Monfazon tìm đường đến gặp vợ con Hoàng Hải Thủy. Khi cô thất vọng hoàn toàn và sắp lên phi cơ về Paris tình cờ cô gặp một người bạn của Hoàng Hải Thủy. Nhờ vậy cô đến được căn nhà nhỏ của vợ chồng Công Tử Hà Đông trong Cư xá Tự Do giữa Ngã ba Ông Tạ và Ngã tư Bảy Hiền.

Đây là bài báo nữ ký giả Monfazon viết về vợ con Hoàng Hải Thủy đăng cùng trên trang báo Le Parisien với bài báo trên.

Chúng tôi mạnh vì chúng tôi yêu ông ấy

Hoàng Hải Thủy và cả gia đình ông phải trả giá đắt vì niềm khao khát tự do của họ. Nhưng họ vẫn sát cánh với nhau và họ hy vọng.

Đêm đen như mực ở thành phố HCM. Cô con gái của Hoàng Hải Thủy, Giang, ba mươi hai tuổi, di chuyển vòng vèo giữa rừng xe đạp và xe xích lô trên chiếc xe gắn máy mua trả góp. Cô dừng xe trong một xóm đông dân cư. Con đường trở nên sình lầy. Im lặng. Giang dựng xe trước cửa vào nhà, cạnh mấy chuồng gà. Anh con và bà vợ Thủy chờ đón chúng tôi. Vài cái ghế, hai cái giường không nệm, một tủ lạnh rỉ sét, sân nhà lát gạch bông đỏ trắng rất sạch: tất cả toát lên một sự nghèo túng được che dấu cẩn thận.

Mái tóc bạc được chải tươm tất, xanh xao, rất gầy, rất đường hoàng, bà vợ của Thủy nói tiếng Pháp lần thứ nhất từ hơn hai mươi năm nay.

Một bức ảnh rất đẹp của ông chồng trang hoàng bức tường lở vôi, bên cạnh hai tờ thông cáo tuyên truyền của cộng sản mà nhà nào cũng phải dán. Đỗ Thị Thủy không được gặp mặt chồng từ hai tháng nay. “Ông bố tôi mạnh khỏe, bà mẹ tôi mới chịu không nổi. Bà mất mười ký lô,” anh con trai hai mươi tám tuổi nói nhỏ.

Họ nói đến ông bố và ông chồng của họ với niềm kiêu hãnh, họ nhắc đến những bài ông đã viết, những bài này đều bị công an tịch thu, những gì ghi lại nỗi tuyệt vọng, sự đau khổ và cái đói của nhân dân. “Ông ấy nói ít, viết nhiều”. Bà Đỗ nói. Tôi hỏi: “Có bao giờ bà yêu cầu ông ấy đừng viết để cả nhà được an ninh không?” “Không bao giờ...” bà trả lời ngay, gần như bà giận dữ vì câu hỏi ấy. Bỗng bà mỉm cười dịu dàng, xúc động: “Chúng tôi đói, chúng tôi không có tiền, nhưng chúng tôi chấp nhận tất cả những cái đó. Chúng tôi mạnh vì chúng tôi yêu thương ông ấy, chúng tôi kiêu hãnh vì sự can đảm của ông ấy”.

Cái giá của sự tự do tư tưởng của Thủy là một giá đắt. Để có thể sống, họ phải bán hết. Nữ trang, đồ đạc, quần áo. Đến cả ba ngàn quyển sách của Thủy, từ tủ sách lớn ấy, họ còn giữ được khoảng trăm quyển cất kỹ trong một ngăn tủ nhỏ. Camus, Nabokov, Nietzche, Zola, Sacha Guitry... Những sách này đều được những người con của Thủy đọc đi, đọc lại. Từ nhiều năm nay các con của Thủy bán bánh ngoài đường. Tất cả việc học của họ đều bị cấm. Hiện nay họ đang muốn tin vào việc Thủy sắp được thả tự do. Rồi sau sẽ ra sao? Họ lo âu. “Ông ấy lại sẽ bị kiểm soát, bị theo dõi khắp nơi. Lại có sợ hãi. Ông ấy có thể lại bị bắt. Chính phủ phải để cho chúng tôi ra đi. Không có tờ báo nào ở đây nhận cho ông ấy làm việc. Với cái tên ấy, ông ấy sẽ bị từ chối ở khắp nơi. Chúng tôi chỉ có thể có tự do ở một miền đất khác. Cô có thể làm gì được không? Ở đây người ta chỉ cho phép chúng tôi im lặng...”

Xin viết cho rõ: Người dịch The Gulag Archipelago của Alexandre Sozhenytsin ra bản Việt ngữ “Quần đảo Ngục tù” là Ngọc Thứ Lang Nguyễn Ngọc Tú. Anh đã từ trần trong trại cải tạo Phú Khánh khoảng năm 1980. Tôi dịch The First Circle của A. Sozhenytsin, “Tầng đầu Địa ngục” ấn hành ở Sàigòn năm 1973.

Năm 1977 đến năm 1979, thời gian là hai mươi ba tháng tôi bị bắt lần thứ nhất ở trại giam Số 4 Phan Đăng Lưu. Bị bắt lần thứ hai năm 1984 tôi sống bốn mùa lá rụng ngoài song sắt trong Thánh thất Chí Hòa. Nữ ký giả Monfazon viết nguyên văn trong bài “...la presse muselée vietnamienne...” tạm dịch: “... nền báo chí Việt Nam bị rọ mõm...

Năm 1994 nữ phóng viên Catherine Monfazon lại đến thành phố HCM, lần này tôi được gặp cô, được ăn với cô một bữa tối trong nhà hàng Mini của bà Nguyễn Phước Đại đường Nguyễn Du. Từ năm 1990 tình hình kinh tế tài chánh của những Anh Con Trai Bà Cả Đọi kẹt giỏ ở thành Hồ có vẻ khá hơn, tôi vẫn dùng xế đạp đi lại loanh quanh khu Ông Tạ, nhưng tôi đã có cái Honda 91. Tôi dùng Honda đến khách sạn đón cô Monfazon, chở cô trở lại căn nhà nhỏ của vợ chồng tôi ở Cư xá Tự Do, nơi cô đã đến năm năm trước. Cô kém Kiều Giang con gái tôi hai tuổi, nói thông thạo tiếng Anh. Catherine Monfazon là một trong những người đã đối xử ân cần và giúp đỡ vợ chồng tôi trong cơn hoạn nạn. Vợ chồng tôi vẫn nhớ ơn cô.

Chúng tôi như những người sắp chết đuối vớ được cái phao – được ấm lòng và có thêm hy vọng để không chết nhờ rất nhiều người, những người bạn ở nước ngoài. Trong khi bọn Việt cộng thù hận chúng tôi, chỉ muốn chúng tôi khóc mếu, khổ sở, cố tình đầy ải cho chúng tôi phải chết hoặc dở sống, dở chết, phải quỳ gối lậy van chúng, những người bạn không quen biết từ xa ngoài vạn dặm đã gửi tình thương cho chúng tôi. Xin cảm ơn tất cả.

Ngày xửa, ngày xưa...

Những năm 1940... trong thị xã Hà Đông nhỏ bé, hiền hòa chú thiếu niên hai mươi mùa mít chín sau đó tự nhận là Công Tử Hà Đông được đọc lại hai câu thơ:

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm

Hai câu không nhớ của thi sĩ nào làm. Sau tìm và biết là của Xuân Diệu. Chú thấy ý thơ hay hay. Hai câu ấy ở mãi trong trí nhớ của chú.

Bốn mươi mùa sầu riêng trổ bông sau đó một người tù cải tạo ở trại Lao động Xã hội chủ nghĩa Z30A Xuân Lộc Đồng Nai được con trai lên thăm, đem cho quyển Anthology of English Poems do Đại học Oxford ấn hành. Tuyển tập thơ Anh dầy hai ngàn trang giấy, hơn một ngàn bài thơ của Shakespeare, Shelly, John Donne, Robert Browing, Mary Elizabeth Coleridge. Trong tập thơ, người tù yêu thơ tìm thấy bài thơ

The Call

Sound, sound the clarion, fill the file!
Throughout the sensual world proclaim:
One crowded hour of glorious life
Is worth an age without a name.

Thomas Osbert Mordaunt

Đêm buồn nằm thao thức trong tù nghe tiếng gió vi vu thổi đến từ núi Chứa Chan, người tù cảm khái bèn mần thơ dịch:

Tiếng gọi

Kèn vang lên, trống nổi lên
Lặng yên nghe – Tiếng loa truyền
Sống một giờ quang vinh rực rỡ
Hơn tầm thường trọn kiếp không tên!

Như vậy là phải chăng năm sáu mươi mùa ổi chín trước đây, Xuân Diệu đã đọc bài tứ tuyệt The Call của T.O Mordaunt và lấy ý ra làm hai câu

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm!

Hai câu thơ làm người tù đi một đường cảm khái, nhớ lại cả một thời thơ ấu “ngày xưa còn bé”.

Vèo trông lá rụng đầy sân.
Ái ân phù thế có ngần ấy thôi

Thấp thoáng đấy mà đã năm mươi mùa tu hú kêu trong những vườn vải đỏ. Còn nhớ như in những ngày Tháng Tám năm 1945 chú thiếu niên Hà Đông náo nức đi biểu tình giành độc lập, những ngày đi kháng chiến thật đẹp ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, gót chân liên lạc viên đi dưới núi Thiên Thai, cửa Chùa Tiêu Sơn, Rừng Khế, nơi có lăng tẩm của các vị vua triều Lý ở trước làng Đình Bảng, từng sống trong thành Cổ Loa có giếng nước tục truyền được dùng để rửa ngọc trai thật tốt, trừng sống trong làng Phù Đổng ven đê sông Đuống, quê hương của Thánh Gióng, những đêm mùa đông nước cạn, buộc quần áo lên đầu, ôm cây chuối bơi qua sông Đuống... Những năm xưa ấy, người tù Z30A “yêu mê” Việt Minh đến là chừng nào.

Vật đổi sao dời, khi nón cối, dép râu, súng AK, cờ đỏ ngơ ngáo vào Sàigòn, chú thiếu niên năm xưa nay đã ở vào số tuổi của Mã Giám Sinh cùng không biết bao nhiêu người khác bị Bác và Đảng cho đi tù mút mùa Lệ Thủy. Chú không bị Bác giết là may, chú không chết vì bị Bác xách cổ đem đi trồng cũng là may.

Đã cảm khái người tù Z30A còn xúc động hơn khi anh đọc bài thơ Respice Finem của Francis Quarles. Đêm cuối năm lạnh lẽo trong tù anh nằm dịch bài thơ ra tiếng nước anh. Đây là nguyên bản:

Respice Finem

My soul, sit thou a patient looker-on
Judge not the play before the play is done
Her plot hath many changes , every day
Speaks a new scence, the last act crowns the play!

Francis Quarles

Vở tuồng đời

Ôi hồn ta ngồi yên mà coi
Vở tuồng đời
Đừng phê phán trước khi tuồng hết
Còn bao nhiêu màn khóc, màn cười
Tuồng đang diễn, làm sao ta biết
Mỗi ngày qua là một đổi đời
Chờ đến lúc coi xong màn kết
Mới biết tuồng hay dở mà thôi.

Trại cải tạo Z30A. Tháng 10-1989

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 7)

Vài anh tù lỡ lời gọi cai tù là “đồng chí” liền bị các “đồng chí” cự:

– Anh nói ký gì? Ai “đồng chí” mí anh? Bậy bạ...

Nội quy nhà tù Xã hội chủ nghĩa có điều bắt buộc người tù phải gọi cai tù bằng cái tên chung là “Cán Bộ”, không có ông, anh, nhất là không có “đồng chí”, “đồng rận” gì ráo trọi. Ngược lại cai tù cộng sản gọi tất cả những người dân bị chúng bỏ tù là anh, chị, dù cho anh, chị có bẩy bó, tám bó bằng tuổi ông bà nội ngoại chúng.

Nhưng Hà Huy Giáp, một trong số những cán bộ lãnh đạo văn nghệ Đảng những năm 1975-1985 lại ưu ái gọi một số văn nghệ sĩ Sàigòn lơ láo đi dự cái gọi là “Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị” năm 1976 ở Nhà Hát thành phố HCM là “đồng chí”. Số là Việt cộng vào được Sàigòn từ Ba Mươi tháng Tư năm 1975, nhưng mãi một niên sau – Tháng 5 năm 1976 – họ mới nhân dịp cho cái gọi là Chánh phủ và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đi chỗ khác chơi không xơi nước, phát động chiến dịch hỏi thăm sức khỏe văn nghệ sĩ Sàigòn VNCH. Nhiều văn nghệ sĩ, ký giả VNCH lớn nhỏ được xe bông công an thành phố HCM đến tận nhà rước đi liền tù tì trong mấy ngày đêm đầu tháng Ba năm 1976.

Xin kể tên những người bị bắt theo trí nhớ của tôi: Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Sĩ Tế, Lý Đại Nguyên, Trần Việt Sơn, Nguyễn Hải Chí tức họa sĩ Chóe, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Duyên Anh, Đằng Giao, Trịnh Viết Thành, Dương Nghiễm Mậu, Mặc Thu, Thái Thủy, Hồ Nam, Cao Sơn, Minh Vồ chủ nhiệm Con Ong, Hoàng Vĩnh Lộc, Hồng Dương, Minh Đăng Khánh, Thân Trọng Kỳ, Lê Xuyên Chú Tư Cầu, Anh Quân, Tú Kếu Trần Đức Uyển, Lê Văn Vũ Bắc Tiến, Hồ Văn Đồng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Hữu Hiệu, Sao Biển, Hoàng Anh Tuấn đạo diễn “Hai chuyến xe bông” v.v... Nhiều không nhớ xiết.

Chiến dịch bắt bớ rầm rộ mấy ngày đêm đầu tháng, lai rai kéo dài mãi đến cuối tháng Ba năm 1976 mới chấm dứt. Không phải tất cả văn nghệ sĩ Sàigòn đều bị bắt hết. Những người chưa bị mặt mũi xanh xám không biết xe bông công an đến rước mình lúc nào. Tháng Năm năm 1976, cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng Thành Phố HCM tổ chức cái gọi là “Khóa Bồi dưỡng Chính trị” cho văn nghệ sĩ Sàigòn “kẹt giỏ” hàng dân lơ láo ở Thành Hồ. Khóa Bồi Dưỡng Một có những văn nghệ sĩ thượng thặng của giới văn nghệ Sàigòn đi dự: Thái Thanh, Hoài Bắc, Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều, Thẩm Thúy Hằng, Lệ Hằng Bản Tango Cuối Cùng, Nguyễn Thụy Long Loan Mắt Nhung, Phạm Thiên Thư Động Hoa Vàng v.v... Ông Mai Thảo may mắn trốn thoát cuộc bắt bớ, ở ẩn đến hơn hai năm cho đến đêm ông xuống tàu đi tìm đường cứu nước. Tử vi ông này không có Sao Quả Tạ nên ổng không bị ở tù.

Khóa Bồi Dưỡng Một không được tổ chức linh đình, không nhiều người tham dự bằng Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai Tháng Bẩy năm 1976. Khóa Hai có trên năm trăm khóa viên hăng hái và rầu rĩ đăng ký tham gia. Giới nghệ sĩ cải lương đông người nhất. Tất cả những anh em kéo màn, chạy đề co – tức bầy dọn ngai vàng, bàn thờ Phật, bàn ghế, giường tủ trên sân khấu – những người bà con xa gần với bà Bầu, cô Đào v.v... đều là nghệ sĩ và đều tự thấy có quyền được dự khóa bồi dưỡng chính trị cho văn nghệ sĩ. Trong số 500 khóa viên có trên 300 mạng là nghệ sĩ cải lương, số 200 ngoe còn lại chia đều cho các tổ Thơ Văn, Điện ảnh, Tân nhạc, Cổ nhạc...

Cái gọi là tổ Thơ Văn – tức tổ chấy của các anh ký giả, văn nghệ sĩ viết tiểu thuyết kiểu “phơi-ơ-tông” – là tổ “được” Cán Cộng chú ý nhất. Cán Cộng coi bộ môn sáng tác gồm những người tự mình chống cộng bằng tư tưởng, bằng tác phẩm của mình, không mượn tác phẩm hay ý tưởng của người khác. Cán Cộng không coi quan trọng lắm những người thuộc bộ môn trình diễn, tức là những người khi được giao vai trò chống Cộng thì chửi Cộng ra rít theo lời người khác, khi được giao đóng vai chửi Quốc gia thì lại mặt trơ, trán bóng chửi bới Việt Nam Cộng Hòa ra trò.

Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai được khai mạc ở Nhà Hát Thành Phố. Người khai mạc là Hà Huy Giáp. Người lãnh đạo văn nghệ của miền Bắc Xã hội chủ nghĩa có nhiều người dân không đến chết đói mà chỉ đói đến chết, lại có thể hình béo tốt, hồng hào, mặt mũi, da dẻ láng bóng quá cỡ thợ mộc. Khi ban huấn từ “Lãnh đạo” nói một câu xanh rờn:

– Tôi gọi các bạn là “đồng chí” vì tất cả chúng ta đều chung một chí nguyện: làm cho nước Việt Nam được giầu đẹp, làm cho nhân dân Việt Nam được ấm no...

“Lãnh đạo” nói tiếp:

– Khóa này được gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị vì những người tổ chức thấy các văn nghệ sĩ Sàigòn có thành kiến, có ác cảm với hai tiếng “cải tạo”. Thực ra cải tạo chẳng có gì đáng sợ. Chúng ta phải tự cải tạo mỗi ngày để trở thành người tốt...

Khóa học trong 21 ngày, khóa viên được bồi dưỡng sinh hoạt phí 1 đồng tiền Hồ mỗi ngày, được một lần cấp “nhu yếu phẩm”: nửa ký đường, hai hộp sữa, hai gói thuốc lá, một lạng bột ngọt. Được đớp hai bữa trưa ở Nhà Hát: bánh mì mỗi mạng một ổ, nước ngọt, bia gọi là bia hơi được đựng trong thùng phuy. Khóa nào muốn uống phải mang theo ca hoặc mượn ca của khóa khác.

Những anh ký giả Sè Goòng trước đó một niên đã làm Ngày Ký Giả Đi Ăn Mày để bỉ mặt Tổng Thiệu, nay được dịp “ăn mày” thật sự. Ký giả là những người đói nhất trong giới văn nghệ sĩ bỏ nước chạy lấy người không kịp. Không phải anh em ký giả, văn nghệ sĩ Sàigòn ta ngày xưa không kiếm được tiền, anh em kiếm được nhưng tuyệt đại đa số anh em ăn chơi, tiêu hoang, kiếm được năm thì tiêu mười. Việt Cộng vào Sàigòn, anh em đói đến không có cơm mà ăn, không phải chỉ đói phở, đói cơm sườn, đói giả cầy quán Bà Cả Đọi. Cùng dự khóa bồi dưỡng với kẻ viết bài này có Nguyễn Ngọc Tú tức Ngọc Thứ Lang dịch giả Bố Già The Godfather của Mario Puzzo. Hôm được phát “nhu yếu phẩm” như vừa kể người ta thấy vắng bóng Ngọc Thứ Lang ngay lập tức, rồi vắng bóng chàng suốt ngày hôm sau. Khóa viên không đến lớp vì còn bận tự “bồi dưỡng” bằng hai hộp sữa, nửa ký đường, hai gói thuốc, lạng bột ngọt. Chàng phát mại ngay những thứ không nhu yếu gì với đời sống của chàng để lấy tiền “choác.”

Và Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai có Cô Khóa Mộng Tuyền. Tháng Bẩy năm 1976 ở Thành Hồ, Mộng Tuyền còn trẻ, đẹp. Ký giả đói, nhưng các em đào cải lương vẫn đông vàng, đông kim cang. Các em như Mộng Tuyền – bận bà ba phin nõn, quần đen, đi guốc – phây phây đến lớp. Các em không đi xế hộp, nhưng các em cũng không đi xế đạp, các em đi học bằng xe xích lô.

Sau Hà Huy Giáp ban huấn từ khai mạc, khóa bồi dưỡng có từng này vị lên lớp, mỗi vị một ngày:

– Huy Cận nói về Thơ.

– Chế Lan Viên nói về Người Nghệ Sĩ đi theo Đảng

– Hoàng Trinh, lý thuyết gia văn nghệ nói về “Sự bế tắc văn học – nghệ thuật của xã hội tư bản”

– Vũ Khiêu nói về văn nghệ chung chung...

– Bẩy Lý, Tổng biên tập báo Sàigòn Giải Phóng lên lớp về “Chủ nghĩa Mác-Lê-nin”

Huy Cận mập khỏe, nước da bánh mật, trông không có qua một vẻ gì là người làm được những câu “Nắng chia nửa bãi chiều rồi. Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu...” Huy Cận nói đúng là nói vung xích chó, nói văng bọt mép. Ngoài việc khoe anh sung sướng, thoải mái mần thơ trong chế độ xã hội chủ nghĩa, anh còn khoe anh vẫn mần thơ tình, anh quả quyết chế độ xã hội chủ nghĩa không tiêu diệt thơ tình v.v... Chế Lan Viên yếu hơn Huy Cận về mọi mặt. Buổi nói chuyện của Chế Lan Viên được tổ chức ở rạp Olympic đường Hồng Thập Tự. Rạp không đủ đèn sáng. Chế Lan Viên ngồi bàn nói chuyện, đặt ly bia trên bàn. Mỗi lần diễn giả ghé mồm uống bia, micro bắt tiếng động làm người ta nghe thấy những tiếng “chụp choạp” rất xã hội chủ nghĩa.

Vũ Khiêu – nghe nói tên thật là Đặng Vũ Khiêu – là anh nói dở nhất trong cả bọn. Vốn liếng học thức của anh chỉ đủ cho anh nói láp nháp được trong một giờ. Buổi lên lớp của anh kéo dài cả ngày. Buổi sáng anh nói được hai tiếng thì tạm nghỉ để đi giải lao và đi đé, Ngọc Thứ Lang nói ngay:

– Thằng cha Vũ Khiêu này... hay chữ lỏng...

Thành ngữ Bắc kỳ gọi những anh chữ nghĩa đựng không đầy cái lá mít nhưng thích ba hoa nói những chuyện văn học, nghệ thuật là những anh hay chữ lỏng. Vũ Khiêu thuộc loại “Bắc Kít Hay Chữ Lỏng” điển hình. Anh nói ba lăng nhăng về Kiều, ca tụng Từ Hải như đại anh hùng dân tộc. Người nghe dốt nát nhất cõi đời này cũng biết anh quên, hay anh cố tình quên, ông cố, bà sơ anh có câu dặn con cháu:

Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều

Văn học lý luận gia Mác-xít Vũ Khiêu tỏ ra “hay chữ lỏng” rõ ràng nhất ở câu chuyện anh kể về cái gọi là “tình đoàn kết thân thương cố hữu” của dân tộc Việt. Anh đưa chuyện ngày xưa có nhà kia năm đời sống chung một nhà đoàn tụ gia đình hòa hợp với nhau. Vua nghe tiếng tốt bèn đến thăm và ban cho gia đình một trái lê với ẩn ý thử xem gia đình này chia nhau ơn Vua ra sao. Nhà đông tới hai, ba trăm miệng ăn. Làm sao chia cho mỗi người một miếng lê nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng? Trưởng gia bèn nẩy ra sáng kiến bỏ trái lê vua ban vào nồi ba mươi nước sôi, pha như pha trà, mỗi mạng uống một ly nước. Thế là cả nhà ai cũng được hưởng lộc vua.

Câu chuyện thuộc loại quân tử Tây gọi là “a-nết-đốt” – chuyện truyền khẩu, chuyện ngoài lề nghe chơi rồi bỏ – trái lê nấu nước chia nhau uống xưa như trái đất. Đó là chuyện xẩy ra dưới một đời vua nào đó bên Tầu – nếu người viết không lầm thì là đời vua Đường, vua Mật chi đó – nhưng người văn nghệ Mác-xít lại nói là chuyện xẩy ra đời vua Trần nước Việt.

Các đàn anh dzăng nghệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa lên lớp chung cho 500 đàn em dzăng nghệ, dzăng gừng, dzăng bút, dzăng báo, dzăng cơm, dzăng đủ thứ ở Thành Hồ tại Nhà Hát. Hôm sau, các khóa sinh trở về tổ mình thảo luận về đề tài đàn anh lên lớp hôm qua. Hướng dẫn viên Tổ Một Thi Văn Vũ Hạnh gọi việc này là “đèo seo...”, tức “đào sâu” vào đề tài. Thảo luận thêm, tham gia ý kiến của mình, thường là ca tụng: “... Hay quá, giúp cho người nghe có tư liệu chất lượng tốt để hiểu thêm về dân tộc, về dzăng nghệ v.v...”. Những cuộc thảo luận “đèo seo” học hỏi này có biên bản để nộp các lãnh đạo dzăng nghệ.

Khi ấy, người viết bài này đã có ý định phát biểu mấy nhận xét để ghi vào biên bản gửi đến ông Vũ Khiêu Hay Chữ Lỏng. Đại khái:

– Chuyện trái lê nấu nước chia nhau uống là chuyện người Tầu đời Đường, không phải chuyện xẩy ra đời nhà Trần nước ta. Nhận vơ không hay hướm gì và tôi nghĩ ta không cần nhận vơ. Khi ông nói trước cả trăm người Sàigòn chúng tôi về chuyện đó, tôi thấy:

– Nếu ông không biết chuyện trái lê nấu nước là chuyện Tàu thì ông ngu quá.

– Nếu ông biết chuyện trái lê nấu nước là chuyện Tàu mà ông cho chúng tôi hổng biết, ông có nói đó là chuyện đời nhà Trần chúng tôi cũng mù tịt thì ông cũng... quá ngu.

– Nếu ông biết chúng tôi cho việc ông nói chuyện trái lê nấu nước là chuyện người Việt là nói bậy mà ông vẫn cứ nói thì ông mặt trơ, trán bóng quá đỗi. Chúng tôi không có lời gì để đánh giá con người dzăng nghệ Mác-xít như ông.

Nhưng... nghĩ vậy người viết bài này đã không nói ra. Tâm trạng anh Khóa bất đắc dĩ Tháng Bẩy năm 1976 đang đen hơn mõm chó mực. Các bạn anh đang ngồi rù trong tù, anh không bị bắt như anh em, vợ con anh không khổ nhục như vợ con anh em, anh vác bản mặt nhẵn hơn cái đũng quần lĩnh cô đầu đi dự “Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị”, anh ngồi tễu mặt nghe Việt cộng nó dậy dỗ nó chỉ bảo, anh không câm miệng, cúi mặt xuống, anh còn ọ ẹ bắt bẻ Việt cộng nỗi gì.

Nghe nói có lần nói chuyện xong Vũ Khiêu hỏi Đoàn Phú Tứ:

– Anh thấy tôi nói ra sao?

Đoàn Phú Tứ trả lời:

– Anh nói thì con rắn ở trong lỗ nó cũng phải bò ra nó nghe, nó bò ra nó nghe nhưng không thấy gì cả nó lại bò vào lỗ.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 8)

Hoàng Trinh – nghe nói là sui gia với Trường Chinh – lên bục nói về “Sự bế tắc văn học nghệ thuật tư bản” nói chung và nói riêng về tình trạng tắc tị trong lãnh vực tiểu thuyết ở các nước Âu Mỹ.

Hoàng Trinh nói dễ thôi. Các đàn anh lý thuyết văn nghệ Liên Xô ăn lương tháng viết vung xích chó cả ngàn bài nghiên cứu về văn học nghệ thuật tư sản – tư bản, các đàn em chỉ việc dịch và đọc. Tất nhiên là văn học nghệ thuật tư bản đồi trụy, thối nát, tắc nghẽn, cuồng dâm, ca tụng bạo lực, ăn bám, thối nát, đang rẫy chết và chết đến đít rồi. Chuyện tất nhiên khỏi cần nói thêm. Hoàng Trinh kể một tác phẩm kịch điển hình làm bằng chứng là “văn học nghệ thuật tư sản thối nát quá cỡ...”

Vở kịch Hoàng Trinh đưa ra là vở Le Balcon của Jean Genet. Việc dùng kịch Le Balcon để đả kích văn nghệ tư sản cũng chẳng phải là sáng kiến của Hoàng Trinh, đàn anh Nga Cộng viết, Hoàng Trinh chỉ việc nhai lại.

Jean Genet là văn sĩ thuộc loại “thiên tài hắc ám, quỷ ám” của Pháp. Người Pháp có tiếng “maudit” chỉ loại người này. Ra đời năm 1911 ở Paris, bị mẹ bỏ rơi, được nuôi trong Viện Cô Nhi, năm 13 tuổi Jean Genet bị đưa đến Trại Trừng Giới, bỏ trốn, đi bụi đời, bị bắt nhiều lần vì những tội trộm cướp; năm 1948 phạm trọng tội bị án tù chung thân. Nhiều văn sĩ Pháp, trong đó có Jean-Paul Sartre, người vận động tích cực nhất, gửi kiến nghị thư lên Tổng thống Pháp xin ân xá cho Jean Genet, tác giả những tác phẩm Notre Dames Les Fleurs, Journal d’un voleur, Querelle, Miracle de la rose v.v... Jean Genet được ân xá, Jean Paul Sartre phong thánh cho Jean Genet, gọi Jean Genet là một thiên tài văn nghệ. Jean Genet qua đời năm 1986.

Đây là lời Hoàng Trinh kể kịch Le Balcon:

– Kịch xẩy ra trong một nhà ăn chơi ở thủ đô một quốc gia Âu châu. Nhà ăn chơi này do một phụ nữ làm chủ. Khách chơi là bọn đàn ông giàu tiền có ẩn ức sinh lý, những anh muốn được làm đại tướng, chánh án, giáo chủ. Chị chủ nhà tổ chức những phiên tòa cho chánh án rởm xử, những trận đánh cho đại tướng rởm chỉ huy, những thánh lễ cho giáo chủ rởm hành lễ. Đêm ấy có cuộc nổi loạn nổ ra trong thủ đô.

Anh Tổng Giám đốc Cảnh sát là tình nhân của chị Chủ Chứa. Anh đến cho mọi người trong nhà biết với lực lượng cảnh sát anh có thể dẹp được đám nổi loạn nhưng phiền một nỗi là Nữ hoàng, Chủ tịch Quốc hội, Tổng Chưởng lý, Đại tướng, Giáo chủ v.v... nghe tiếng súng nổ và biết có loạn đã bỏ thủ đô phú lỉnh ra nước ngoài hết. Anh Xếp Phú lít than thở: “Phải chi bây giờ có Nữ hoàng, Chủ tịch Quốc hội, Giáo chủ, Đại tướng v.v... xuất hiện trên ban-công Hoàng cung cho nhân dân thấy thì nhân dân bỏ bọn nổi loạn ngay.

Chị Chủ nẩy ra sáng kiến:

– Khó gì? Ở đây mình có đủ triều đình. Mình có ông Đuy Quốc Tô đây là Đại tướng, ông mần vai đại tướng quen rồi, ông còn oai phong hơn cả đại tướng thứ thiệt. Mình có ông Đờ Cốc Si Cốc đây là Chủ tịt Quốc hội, có ông Lơ Poan vẫn mần Giáo chủ hành lễ trang trọng. Ông Pip Pơ Lô đây đóng vai Chánh án đẹp lão nhất thế giới. Còn em. Em đóng vai Nữ hoàng? Được hông? Ai cũng nói trông em giống Nữ hoàng lắm. Người ta còn khen em đẹp hơn Nữ hoàng năm bẩy thành...

Và thế là – xin bạn đọc nhớ đây là lời kể của kép Hoàng Trinh ở Nhà Hát Thành Hồ tháng Bẩy năm 1976 – kế hoạch được chấp thuận. Triều đình Nhà Thổ đủ mặt Nữ hoàng, văn võ bá quan, lãnh đạo tôn giáo, tư pháp, lập pháp, quân đội, cảnh sát đàng hoàng xuất hiện. Nhân dân thấy triều đình vẫn vững như chum vại bèn bỏ rơi đám nổi loạn, tan hàng trở về nhà. Cuộc nổi loạn bị diệt thê thảm.

– Đây chỉ là chuyện kịch thôi – lời Hoàng Trinh – nhưng xin quý bạn nhớ rằng bọn văn sĩ tư sản đồi trụy đã khinh khi tất cả những giá trị của xã hội. Nữ hoàng của họ là chị chủ chứa, những nhà cầm quyền của họ là những tên đàn ông bệnh hoạn tâm-sinh lý. Không những bọn văn sĩ tư sản chỉ miệt thị những giá trị tư sản mà thôi, họ còn miệt thị cả nhân dân nữa. Nhân dân trong kịch Le Balcon được trình bày như một lớp người ngu đần chuyên bị đánh lừa và chỉ bị lợi dụng.

Lý luận gia Mác-xít ăn theo Hoàng Trinh nhận “nhân dân” thuộc phe anh, bọn văn sĩ tư sản đồi trụy phỉ báng những nhân vật lãnh đạo tư sản thì anh cho là đúng, là được, nhưng khi văn sĩ tư sản miệt thị “nhân dân” thì anh phẫn nộ. Anh hằn học:

– Jean Genet chửi cả “nhân dân”...

Tất cả những gì xấu xa trên cõi đời này đều của phe tư sản, tất cả những gì tốt đẹp trên cõi đời này đều của phe cộng sản. Thái độ nhận vơ lố bịch ấy của những người cộng sản – thường được gọi là “vơ vào” – đã làm họ bị kê tủ đứng vào miệng khi Liên Xô, thành trì xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, phơi bầy những tội ác ghê rợn của cộng sản đối với loài người. Chuyện ấy ta chẳng cần phải nói nhiều hơn.

Chi tiết cần ghi lại về buổi nói chuyện của Hoàng Trinh là khi anh ta nói:

– Thưa quý bạn, Le Balcon kết thúc bằng câu nói của chị chủ nhà thổ. Khi cuộc nổi loạn đã bị dẹp, chị nói với cử tọa: “Kịch đến đây là hết. Trời sắp sáng. Mời quý vị trở về nhà. Xin quý vị nhớ cho rằng chẳng phải chỉ ở đây quý vị mới thấy kịch, mói đóng kịch. Ở bất cứ đâu cũng kịch mà thôi. Ở những nơi khác còn kịch cợm, còn giả dối hơn ở đây nữa”.

Hoàng Trinh vừa nói đến câu trên – “Ở đây kịch, ở đâu cũng kịch, kịch cả mà thôi” – thì khựng lại vì tiếng vỗ tay ồ ạt nổi lên.

Quý anh văn nghệ sĩ bộ môn Cải lương ngồi trên lầu Nhà hát vỗ tay trước. Bọn chúng tôi vỗ theo. Tôi – thú thực vẫn không coi trọng lắm quý anh cải lương – nhưng tôi thán phục quý anh quá cỡ thợ mộc khi tôi dự Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai cùng với quý anh và được thấy quý anh biểu diễn phản ứng tuyệt vời hai lần bằng những cái vỗ tay điệu nghệ thần sầu, quỷ khốc, nhân kinh, cán cộng ngẩn ngơ của quý anh.

Quý anh vỗ tay đây là vỗ tay hoan hô Jean Genet. Hổng phải quý anh vỗ tay hoan hô Kép Cộng Hoàng Trinh. Tất nhiên Jean Genet viết đã hay, quý anh sử dụng Jean Genet cũng tuyệt chiêu, bằng những tràng pháo tay ấy quý anh nói với bọn cán cộng:

– Đúng. Kịch cả mà thôi. Chúng tôi đến đây xem các anh đóng kịch. Chúng tôi cũng đóng kịch với các anh.

Nhưng quý anh nào là người đã nghĩ ra cách nói ấy đầu tiên? Quý anh bộ môn cải lương nào là người thứ nhất đã vỗ tay để cả nhà kịch chúng tôi bắt chước hôm ấy?

Trong Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị tháng Bẩy năm 1976, quý anh cải lương không chỉ phát biểu bằng cách vỗ tay một lần, các anh vỗ tay hai lần. Lần nào tôi cũng thấy thán phục sự linh động, óc thông minh của quý anh.

Hai mươi mốt ngày học xong, ngày bế mạc cũng được tổ chức linh đình ở Nhà Hát Lớn. Mỗi tổ cử một đại diện lên phát biểu cảm tưởng sau khóa học. Ông Nguyễn Hữu Ba đại diện tổ Cổ Nhạc lên máy.

Tội nghiệp ông già Nguyễn Hữu Ba. Ông lên nói láp nháp vài câu là được rồi. Không ai, kể cả cán cộng, muốn ông nhiều lời. Ông nói dai quá. Đã nói dai, ông còn ngắc ngứ, vô duyên.

Khi ông nói:

– Đã bao nhiêu năm chúng ta ôm người đàn bà Phi Luật Tân và gọi bà ta bằng mẹ... Bi giờ đã đến lúc chúng ta trở về với bà mẹ Việt Nam đích thật của chúng ta...

Ý ông Nguyễn Hữu Ba muốn nói bao nhiêu năm nay bọn đàn địch Sègoòng vẫn ôm cây đàn ghi-ta ét-ba-nhon mà coi đó là đàn của mình, nay nhờ Bác và Đảng cho sáng mắt, sáng lòng, hãy trở về với cây đàn cò...

Một lần nữa phải nói “Tội nghiệp...” bọn đàn địch Sègoòng có bao giờ nhận những cây đàn ghi-ta ét-ba-nhon, ha-uây-iên, vi-ô-lông là đàn Việt Nam đâu. Bọn đàn đúm cũng chẳng bao giờ ôm một người đàn bà Phi Luật Tân mà gọi là mẹ. Khi ông Nguyễn Hữu Ba nói đến bà mẹ Việt Nam bị các con yêu bỏ rơi, bỏ quên, bỏ xó, có vẻ xúc động ông ngừng lại.

Ông Ba vừa ngừng lại thì tiếng vỗ tay nổi lên từ trên lầu Nhà Hát. Một lần nữa, lại quý anh cải lương Sègoòng vỗ tay... đuổi. Ông Ba ngẩn người, ông chờ tiếng vỗ tay ngừng để tiếp tục nói. Nhưng những người vỗ tay không chịu ngừng. Ông Nguyễn Hữu Ba còn đứng đó, họ còn vỗ tay. Cuối cùng đương sự phải chịu nhận mình bị đuổi và cúi đầu đi xuống.

Quân tử Tầu có câu: “Quân tử trả thù mười năm chưa muộn”

Người viết bài này cảm khái thêm câu: “Tiểu nhân ca tụng hai mươi năm chưa muộn”

Tháng Bẩy năm 1976, tháng Mười năm 1995... Hai mươi mùa lá rụng đã rơi trên đường đời của chúng ta. Sáng nay bình yên ngồi viết ở Rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Đốn, Virginia Đất Tình Nhân, tôi ca tụng quý anh nghệ sĩ cải lương Sàigòn ta. Tôi thán phục hai lần vỗ tay tuyệt vời của quý anh tháng ấy, năm ấy.

Chúng ta đã thấy những trò, những cảnh ruồi bâu kiến đậu trong cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị chúng ta tham dự ở Thành Hồ. Nhiều anh em ta bắt buộc phải lên micro phát biểu đã tránh né, đàng hoàng, rất khéo như Ngọc Chánh, Bạch Tuyết. Nhiều anh chị em ta lên nhận mình “mắt mù, tai điếc, nay may mắn được Đảng cho sáng mắt sáng lòng” làm chúng ta tủi hổ. Nhưng thôi, chúng ta nên quên. Tết đến, ngày xuân, năm mới. Ở xứ người chúng ta nên vui vẻ, thương yêu nhau. Tôi không bới móc tội lỗi của người khác để tội lỗi của tôi không bị người khác bới móc.

Vở tuồng nhạt nhẽo màn chưa hạ
Vai kép tuồng kia vẫn diễu hoài

Thơ Thanh Nam, Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi, làm ở Saigon năm1970. Và đây là thơ Francis Quarles:

Ôi hồn ta... ngồi yên mà coi
Vở tuồng đời
Đừng phê phán trước khi tuồng hết
Còn bao nhiêu màn khóc, màn cười

Thi sĩ khuyên ta ngồi yên mà coi. Nhưng làm sao ta ngồi yên mà coi được? Ta không phải là khán giả ngồi xem cái vở tuồng đời. Ta là một nhân vật trong vở tuồng ấy, ta bị quay cuồng, ta khóc, ta cười trên sân khấu Đời ấy.

Nếu nói được như chị chủ Le Balcon: “Kịch cả mà thôi. Giả hết”, chắc ta có thể thản nhiên sống trong vở tuồng đời. Khổ nỗi, đôi khi ta không thể đóng kịch, ta không giả dối được. Vì không đóng kịch được nên đôi khi ta bị roi đời quất hằn trên mặt. Song cuối cùng tôi thấy khi ta bị hổ nhục ta thấy hổ nhục, còn khá hơn là khi ta bị hổ nhục mà ta vẫn nhơn nhơn mặt trơ, trán bóng cho là ta không có gì để phải nhục nhã.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 9)

Tôi hổ thẹn khi phải vác mặt mo đến dự cái gọi là Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Văn Nghệ Sĩ Sài Gòn. Có hôm xớ rớ trong hành lang Nhà Hát Lớn, thấy Lệ Thu đi đến, tôi không dám để nàng nhìn thấy mặt. Lẽ ra tôi phải hỏi thăm Lệ Thu về Hồng Dương, bạn tôi đang ở trong tù: “Ở đâu có biết không? Sức khỏe ra sao? Gửi đồ tiếp tế thế nào? Có tin gì gửi ra không? Có được gặp mặt không? v.v...” Nhưng thay vì hỏi Lệ Thu những câu ấy, tôi xấu hổ nên quay mặt đi hướng khác.

Ngày bế mạc khóa học được tổ chức ở Nhà Hát Lớn, tôi là người được anh chị em Tổ Thi Văn bầu làm đại diện Tổ, sẽ lên nói cảm tưởng sau khóa học. Nhưng đến phút cuối cùng những người tổ chức không cho tôi lên nói, tôi bị bất ngờ và tôi cũng sợ nên tôi ngồi im. Nếu tôi không ngán sợ lúc ấy lẽ ra tôi phải đứng lên phản đối: “Tôi là đại diện Tổ. Sao không cho tôi lên nói mà lại để người khác nói...?” Lẽ ra tôi phải làm như thế rồi bỏ ra về.

Tan hàng lúc 5 giờ chiều. Tôi u uất đến độ không muốn đạp xe về căn nhà tối của vợ chồng tôi ở Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, tôi đến nhà ông anh kết ngãi với tôi ở đường Ký Con để nói với ông vài câu, uống chạc của ông mấy ly rượu cho bớt sầu đời. Thấy tôi vào, ông hỏi tôi:

– Làm cái gì mà mặt mũi cậu trông ghê như mặt tù cải tạo vậy?

Tôi rầu rĩ trả lời:

– Hôm nay tôi đi xem một số người tự bốc phân vứt lên mặt họ. Tôi không làm việc ấy nhưng vì tôi ngồi cạnh họ nên phân văng cả sang mặt tôi.

Hai anh An Khê Nguyễn Bính Thinh, tác giả tiểu thuyết Hai Chuyến Xe Bông, Nguyễn Ngọc Tú Ngọc Thứ Lang, dịch giả Bố Già The Godfather, Quần đảo ngục tù The Gulag Archipelago, cùng dự Khóa Bồi Dưỡng với tôi đã qua đời. Anh An Khê mất ở Pháp, Ngọc Thứ Lang chết ở trong trại cải tạo Phú Khánh, Nguyễn Đình Toàn Áo Mơ Phai, Cao Nguyên Lang hiện lúc này – năm 1995 – đang sống trong Làng Báo chí An Phú. Rất nhiều bạn đồng khóa với tôi hiện sống ở Hoa Kỳ: Lệ Thu, Ngọc Minh, Băng Châu, Ngọc Chánh v.v...

Nhân vật Đảng Ủy quan trọng nhất phát biểu kết thúc Ngày bế mạc Khóa Bồi Dưỡng là “Đồng chí Thành Quỷ” Tư Tân – người Sàigòn gọi “Thành Ủy” là Thành Quỷ – “Đồng chí Thành Quỷ” Tư Tân tức Trần Trọng Tân, người năm 1994 giữ chức vụ chính trị lãnh đạo cao nhất, nhì, ba ở Thành Hồ. Trần Trọng Đăng Đàn là em Tư Tân, viết quyển “Kết án văn nghệ đồi trụy, phản động Sàigòn”. Quyển này kê khai đầy đủ tên cúng cơm, tên tác phẩm của những người viết Sàigòn bị cấm đoán. Năm 1976 rất nhiều người đến Nhà hát Thành Phố dự lễ Bế mạc Khóa học Bồi dưỡng Chính trị còn khá trẻ. “Đồng chí” Tư Tân năm ấy cũng chưa già. Năm 1994, đọc trong quyển Hoa Xuyên Tuyết của Bùi Tín tôi thấy mấy dòng:

– “... Người dân Quảng Bình, ai còn lạ gì những việc làm của anh em ông Trần Trọng Tân trong thời quân Nhật làm chủ Quảng Bình...”

Không rõ ràng lắm nhưng người đọc dù có kém thông minh cũng có thể hiểu: “Đại tá” Bùi Tín tố cáo “Đồng chí Thành ủy Trần Trọng Tân và người em trai làm mật thám, làm tay sai, làm chó săn cho Nhật.

Kể từ khi đọc những dòng ấy về anh em “Đồng chí thành quỷ” Trần Trọng Tân mỗi lần nhìn thấy bộ mặt nghiêm trọng của “đồng chí Thành Quỷ” trên Tivi tôi lại cứ tủm tỉm, lỉm rỉm cười một mình.

Trích” Những tên biệt kích cầm bút“. Trang 10 đến trang 20

Khi chủ nhà xin lỗi vào bên trong, còn lại một mình ở sa- lông, Hoàng Hải nhồi thuốc vào ống vố, đánh diêm rít một hơi dài. Lâu lắm anh ta mới mua được loại thuốc “Half and Half” quen thuộc ấy. Anh ta đưa bịch thuốc bọc giấy thiếc lên mũi ngửi. Mùi thơm phảng phất dịu ngọt. Ngày xưa những người bạn Mỹ trong cơ quan USIS biết anh ta nghiền loại thuốc này, nên vẫn mua ở PX để biếu hàng lố.

Bà chủ nhà bưng ly trà ra vồn vã:

– Mời ông xơi nước. Tôi nghe tên ông đã lâu, nay mới biết mặt. Thật là “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”.

Bà ta cố tình làm ra có vẻ suy nghĩ để tìm câu chữ cho phù hợp trước khi nói ra câu chữ Hán ấy.

– Vâng xin cảm ơn bà – Hoàng Hải lấy vẻ lịch thiệp nói – Trước đây chúng tôi và cô Kiều Trang vốn là chỗ quen biết. Vả lại một minh tinh màn bạc như Kiều Trang thì cả nước đều biết tiếng. Thưa bà, lâu nay Kiều Trang có gửi thư, quà về không nhỉ? À, xin lỗi... Bà là thế nào với Kiều Trang.

– Tôi là chị. Cô ấy vẫn gửi thư, nhưng quà thì thỉnh thoảng thôi.

– Thảo nào, trông bà giống Kiều Trang quá!

Biết là khách khen nịnh nhưng bà vẫn cố tình vuốt mấy sợi tóc vương trên trán làm như không chú ý đến những lời khách vừa nói. Hoàng Hải cũng tự thấy mình khen quá đáng. Người đàn bà ngồi trước mặt anh tuổi đã ngoài bốn mươi, đôi má bắt đầu chẩy sệ xuống. Không có một chút gì giống tấm ảnh Kiều Trang treo trên tường với cái cổ tròn lẳn hấp dẫn, cái liếc mắt rất tình.

Thấy khách ngồi im, bà chủ nhà gợi chuyện:

– Mời ông xơi nước. Lâu nay ông có sáng tác gì không ạ?

Hoàng Hải nhấp ngụm trà nóng, lắc đầu:

– Thú thật với bà, tôi đã treo bút. Viết cái gì bây giờ? Hơn nữa, viết để làm gì? Chẳng lẽ mình lại là độc giả duy nhất của chính mình.

– Tiếc thật, không riêng gì ông, nhiều người khác cũng thế. Thật phí những tài năng...

Hoàng Hải khẽ nhún vai:

– Tôi có đến sớm quá không, thưa bà? Hôm qua tôi được anh Khuất Duy nhắn đến đây để gặp anh em. Lâu quá chưa có dịp gặp anh em làng văn, làng báo cũ, kể cũng nhớ. Chẳng hay vị nào có sáng kiến tổ chức cuộc gặp mặt này, thưa bà?

Bà chủ nhà chưa kịp trả lời thì có thêm mấy người khách nữa đến, Hoàng Hải nhận ra các nhà văn Đoàn Quốc, Dương Hùng. Thật ra, thỉnh thoảng họ vẫn uống cà phê với nhau, nhưng lâu nay chưa có cuộc họp mặt nào nhiều người. Hơn thế, họ chắc nội dung cuộc gặp gỡ này khác hẳn với những lần bàn chuyện phiếm ở các quán cà phê. Do vậy, họ siết chặt tay nhau, ôm choàng lấy nhau như nhiều năm chưa gặp.

Khi Dương Hùng lấy ra chai rượu để lên bàn. Hoàng Hải đón lấy, mở nút chai đưa lên mũi ngửi, làm bộ nhăn mặt:

– Johnny Walker hay Beehive đây ông bạn? Ông vẫn nghiện Johnny Walker đấy chứ?

– Thôi mà chế nhau làm gì ông bạn già – Dương Hùng vỗ vai Hoàng Hải – “Cây Lý” đấy “gặp thời thế, thế thời phải thế”! Thời buổi này phải trở về nguồn thôi! Xem ra, ông chưa chịu “cải tạo” chút nào cả – Dương Hùng cười ha hả.

Hoàng Hải cười theo và rút túi đặt gói thuốc “Half and Half” lên bàn, gõ gõ ống vố để trút tàn thuốc vào cái gạt tàn bằng sành, chậm rãi nhồi một cối thuốc khác.

Dương Hùng liếc thấy hiệu thuốc kêu lên:

– Tôi nói có sai đâu. Cậu vẫn ghiền “đế quốc” mà. Còn phải đưa đi cải tạo mút mùa.

Hoàng Hải cắn đầu ống vố nơi mép, nhếch môi cười khì. Đoàn Quốc nãy giờ vẫn ngồi im, lúc này mới lên tiếng:

– Xin hai ông. Tôi nghĩ họ không đưa chúng ta đi cải tạo vì cái món thuốc hay rượu đâu.

Mọi người hướng về phía ông ta. Kể ra trong làng văn trước đây, ông ta được xem là người thuộc “chiếu trên” vì ngoài nghề viết lách, ông ta còn dậy ở Đại học. Ông ta lại là người còn giữ “nho phong” luôn luôn đạo mạo, không ăn hút vung vít như những người khác trong “làng”

Nét mặt Đoàn Quốc có vẻ nghiêm nghị hơn:

– Một khi kiếm sĩ mà bị tước kiếm thì có khác gì người cầm bút bị người ta tước mất bút. Hắn đâu còn là hắn nữa thì cần gì phải cải tạo. Các ông thử nghĩ xem có đúng không?

Cả bọn như bị điểm huyệt, ngồi chết lặng cho đến khi bà chủ nhà lên tiếng:

– Chắc còn một số vị nữa chưa tới kịp. Nhà chúng tôi kể cũng khó tìm, nhất là đêm hôm tăm tối. Xin quý vị cảm phiền và cứ tự nhiên như nhà của mình. Bà ta nói xong lui ra nhà sau.

Nghe chủ nhà nói, Hoàng Hải bấm đùi Dương Hùng nói nhỏ:

– Này, ông biết ai mời bọn mình tới đây không?

– Chịu, tôi nghe Khuất Duy nhắn, còn ông?

– Tôi cũng thế. Hôm qua uống cà phê ở đường Phủ Kiệt cũng nghe là Khuất Duy cho địa chỉ, bảo đến đây.

Người này hỏi người kia, cuối cùng dường như không ai biết người xướng ra cuộc họp này. Thôi thì ráng chờ chút nữa hẵng hay.

Bỗng có tiếng xe đậu ở trước nhà. Mọi người đều dồn mắt nhìn ra. Không ai khác mà chính là Khuất Duy. Bước vào nhà, anh ta rối rít bắt tay từng người.

Chủ nhà dọn món nhậu lên. Khuất Duy rút từ túi xách của mình ra một chai Camus còn nguyên trong hộp rót vào những cốc nhỏ rồi cho vào những ly sô đa đầy đá.

Anh ta mời mọi người nâng cốc và tuyên bố:

– Hẳn là quý vị muốn biết là tại sao có cuộc họp mặt hôm nay. Tôi xin được phép trình bày ngay. Thật ra, cá nhân chúng tôi không dám nghĩ đến cuộc gặp gỡ này, câu chuyện còn dài, xin mời quý vị hãy cạn chén, chúng tôi sẽ thưa sau.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 10)

Trích NTBKCB, tiếp theo:

Mặc dầu hơi rượu thơm nóng, đầy sức quyến rũ, nhưng các vị khách tự cho mình là người văn chương nho nhã, nên dẫu đang thèm vẫn phải nhâm nhi mà không dám nốc một hơn cạn chén.

Những kỷ niệm trong cuộc đời viết lách lại được nhắc đến. Tin tức về những bạn bè của họ chạy được ra nước ngoài cũng chiếm một phần câu chuyện. Hoàng Hải than phiền Việt Định Phương đem tái bản sách của anh ở Mỹ không thèm xin phép anh mà không trả tiền bản quyền cho tác giả. Nhà văn Đoàn Quốc cũng đồng tình, nhưng lập luận tác phẩm là tài sản chung, nó đến được với người đọc là tốt là niềm vui đối với tác giả, còn chuyện tiền nong là chuyện thứ yếu.

Khuất Duy niềm nở chuốc rượu cho khách. Anh ta lắng nghe mọi chuyện, khiêm tốn tự xác nhận mình là người “học trò” trong làng văn, hết lời ca ngợi sự nghiệp văn chương của các vị khách. Thật ra nhiều vị khách đang ngồi trong buổi tiệc không những biết hắn là Trung úy Tâm lý chiến quân đội Sàigòn cũ mà còn biết hắn qua đài VOA với mấy bản nhạc mà hắn mới sáng tác trong mấy năm gần đây.

Đến khi nghe Hoàng Hải và Đoàn Quốc bàn đến việc tái bản sách của họ ở nước ngoài, hắn mới chen vào:

– Bác Đoàn Quốc là nhà văn chân chính nên nói vậy. Còn tôi là người đọc, tôi nghĩ rằng Việt Định Phương làm như vậy không khác gì chiếm đoạt công lao của người khác, nhất là đối với những nhà văn như quý vị đây đang sống trong cảnh vô cùng khó khăn, lý ra những đồng nghiệp ở nước ngoài phải hết lòng giúp đỡ.

Dương Hùng hưởng ứng ngay:

– Đúng vậy! Anh Duy nói chí lý. Tôi còn lạ gì thằng ấy. Hồi còn ở đây nó cũng lưu manh còn hơn bọn đá cá lăn dưa ở chợ Cầu Muối. Dương Hùng định chửi thề, nhưng kịp hãm lại vì thấy không thể văng tục trước bà chủ nhà.

Khuất Duy nói tiếp:

– Tôi may mắn được biết một số tình hình của anh em văn nghệ sĩ ở nước ngoài. Theo chỗ tôi được biết, không phải ai cũng làm ăn bất chính, bán đứng bạn bè như Việt Định Phương đâu. Chắc quý vị đã biết “Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại”. Nếu tôi không lầm thì nhiều vị đã nhận được thư của Hội, có phải vậy không bác Hoàng Hải?

Hoàng Hải chột dạ. Hắn chợt nhớ ra Khuất Duy không chỉ là ca sĩ mà còn là Luật sư Tòa Thượng Thẩm Saigon. Cái nghề thầy kiện, theo hắn còn là trùm đá cá lăn dưa. Hẳn là Duy Khuất muốn moi móc việc cách đây không lâu, Hoàng Hải nhận được thư của Trần Tam Tiệp, Tổng Thư Ký “Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” và Hoàng Hải có viết thư yêu cầu Tiệp can thiệp hộ vụ tái bản sách. Chưa rõ kết quả thế nào, nhưng Trần Tam Tiệp đã hai lần gửi cho Hoàng Hải nhiều món quà có giá trị gần cả một ngàn đô la. Sở dĩ anh ta biết chính xác số tiền ấy vì Trần Tam Tiệp có gửi kèm bảng chiết tính từng món hàng, bảo rằng sau này sẽ khấu trừ vào khoản tiền tái bản sách của Hoàng Hải. Hoàng Hải đã giấu biệt chuyện đó không dám cho bạn bè biết, một phần sợ bị vay mượn, sợ phải đãi đằng, phần khác sợ lộ ra nhiều người biết không tiện. Thế mà Khuất Duy dường như biết tỏng vụ này.

Khuất Duy nhìn Hoàng Hải mỉm cười cảm thông và nói tiếp:

– Như quý vị đều biết, Tổng Thư Ký Hội là ông Trần Tam Tiệp, sở dĩ tôi biết như vậy là vì ông Tiệp có viết thư cho tôi. Không những ông Tiệp nhờ tôi mà còn nhờ anh Dương Hùng nữa tổ chức cuộc họp này. Anh Tiệp đặc biệt tỏ lòng trân trọng cụ Đoàn Quốc, một trong những nhà văn lớn còn có mặt trong nước để làm nhân chứng lịch sử trong tám năm qua. Việc cụ Quốc nhận lời mời đến với chúng ta hôm nay là điều rất quý giá.

Mọi người hết nhìn về phía Đoàn Quốc lại nhìn Dương Hùng, ngầm ý trách hỏi:

– Thế mà các người cứ giả bộ không biết ai tổ chức cuộc họp mặt này.

Khuất Duy lại rót rượu, trịnh trọng:

– Xin mời quý vị nâng cốc lần nữa để chúng tôi được thưa chuyện. Xin mời...

Khuất Duy chạm cốc với từng người và uống cạn chén. Hơi men đã làm hứng chí các vị khách. Ngay cả Đoàn Quốc cũng trút vẻ đạo mạo, uống một hơi cạn nửa ly Camus vàng sánh và lên tiếng:

– Tuy ông Tiệp trước đây chưa cùng chúng tôi tham gia làng văn và cả làng báo nữa, nhưng bậc trí giả bao giờ cũng biết xuất hiện đúng lúc cần thiết để “cầm chính đạo để tịch tà, cự bí”. Chúng tôi đều đã nghe tiếng và dành sự kính trọng đối với ông Tiệp.

Một vài người dự họp biết rõ về Đoàn Quốc nên thấy hơi lạ về thái độ của ông ta. Trước đây, ông ta rất khinh thường “lũ nhãi nhép” tập tễnh làm văn, viết báo. Thế mà nay ông ta lại đi ca tụng một con người không biết gì về văn học nghệ thuật. Phải chăng vì con người ấy đang là Tổng thư ký “Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” mà ông định tìm chỗ dựa?

Dương Hùng phụ họa:

– Vâng, cụ Đoàn Quốc nói chí lý: Thời nào anh hùng nấy mà lị!

Khuất Duy bắt đầu hùng biện:

– Thưa quý vị, như tôi đã trình bày, anh Tiệp... là bạn cũ của tôi. Anh ấy cùng với “Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” đang hết sức quan tâm đến tự do sáng tác của quý vị trong nước. Nhưng vì hoàn cảnh chưa cho phép trực tiếp gặp quý vị, nên anh ấy yêu cầu chúng tôi thay mặt hầu chuyện với quý vị.

Nói đến đây, hắn móc trong túi quần Jean ra một tờ giấy mầu xanh và tiếp:

– Đây là lá thư anh Tiệp gửi chung cho quý vị, tôi xin phép được đọc nguyên văn:

“Thưa các văn hữu,

“Hôm nay, được sự chấp thuận của Hội, chúng tôi hân hạnh mời quý văn hữu khả kính đến cùng nhấp chén rượu mừng xuân. Do hoàn cảnh chưa cho phép chúng ta đoàn tụ đông đủ với nhau, chúng tôi phải nhờ anh bạn thân bên nhà thay chúng tôi hầu chuyện cùng quý vị. Xin quý vị nâng cốc, coi như chúng tôi đang có mặt cùng chung vui.

“Như quý vị đều biết, tuy xa xôi cách trở, nhưng anh em bên này vẫn thường hướng về quê hương, luôn luôn tìm mọi cách để chia xẻ những nỗi cay đắng cùng quý vị đem cả tấm lòng và sức lực đấu tranh cho một nền văn nghệ chân chính, cho sự nghiệp tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ chúng ta. Nhân dịp này, thay mặt Hội, chúng tôi xin gửi lời chia buồn với các anh chị em đang bị nhà cầm quyền giam giữ và gia đình họ. Chúng tôi hứa vận động để họ sớm được tự do và rời khỏi đất nước, nếu họ muốn.

“Chúng tôi hy vọng rằng, từ đất nước thân yêu bất hạnh, quý vị sẽ gửi cho chúng tôi những tác phẩm mới nhất, có giá trị nhất để cộng đồng người Việt hải ngoại và dư luận thế giới biết rằng những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Việt Nam yêu tự do trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không ngừng sáng tạo nghệ thuật.

Anh bạn của chúng tôi sẽ lo việc gửi bài vở thay quý vị.

“Để đền đáp lại, chúng tôi sẽ có thù lao xứng đáng. Hơn nữa, chúng tôi xin nhấn mạnh rằng những tác phẩm của quý vị sẽ làm dư luận thế giới quan tâm, trở thành sự bảo đảm tốt nhất cho quý vị đối với nhà cầm quyền.

“Trân trọng kính chào.

Paris, ngày...

Trần Tam Tiệp, Tổng Thư ký Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại

Khuất Duy đọc xong thư, đảo mắt quan sát từng người. Hoàng Hải trầm tư rít từng hơi thuốc. Đoàn Quốc ngả người trên ghế sa-lông, lơ đễnh nhìn mấy con thằn lằn đuổi bắt mồi bên ngọn đèn nê-ông trên trần nhà. Những người khác thì chờ đợi thái độ của hai bậc đàn anh. Im lặng kéo dài.

Dương Hùng lên tiếng trước:

– Kể như bạn bè bên ngoài còn nhớ tới anh em như vậy là tốt lắm rồi. Không biết các anh khác thế nào, còn tôi từ lâu đã gác bút, chắc là không làm được trò trống gì nữa.

Nhiều tiếng xì xào. Một tay ngồi cạnh nói nhỏ với Dương Hùng:

– Tớ thấy vụ này phiền lắm đấy. Tớ rút lui thôi. Thà bán thuốc lá lẻ cho vợ mà yên tuổi già.

– Chúng ta ở đây toàn là chỗ anh em cả, có thể yên tâm.

Dương Hùng trấn an mọi người và hướng về phía Khuất Duy, nói lớn:

– Chuyện này để...”hạ hồi phân giải”. Giờ ta tiếp tục “cuộc chiến”, đánh ngã chai rượu này đi các ông ạ.

Anh ta nâng cốc uống một hơi không chờ ai.

Khuất Duy hiểu ý, cố làm ra vẻ tự nhiên:

– Thưa quý vị, anh em ta ở hải ngoại, không hiểu hết hoàn cảnh của chúng ta. Tôi đề nghị hãy gác chuyện này lại, để quý vị suy nghĩ thêm. Hôm nay, chúng ta có dịp gặp lại nhau là quý lắm rồi. Xin mời quý vị tiếp tục nâng cốc. Xin mời.

Họ tiếp tục uống. Chai Camus được tiếp nối bằng chai rượu Cây Lý của Dương Hùng. Không còn ai nhắc đến chuyện văn chương cũng như lá thư của Trần Tam Tiệp nữa. Đến lượt chai Cây Lý cũng bị đánh ngã.

Thấy khách ngồi im, bà chủ nhà gợi chuyện:

– Mời ông xơi nước. Lâu nay ông có sáng tác gì không ạ?

Hoàng Hải nhấp ngụm trà nóng, lắc đầu:

– Thú thật với bà, tôi đã treo bút. Viết cái gì bây giờ? Hơn nữa, viết để làm gì? Chẳng lẽ mình lại là độc giả duy nhất của chính mình.

– Tiếc thật, không riêng gì ông, nhiều người khác cũng thế. Thật phí những tài năng...

Trên đây là một đoạn trích trong quyển “Những tên biệt kích cầm bút”. Nhưng không có chuyện nhân vật bị gọi là Biệt kích Văn nghệ Hoàng Hải được hân hạnh nói chuyện với bà chủ vi-la Kiều Trang ở cư xá Lữ Gia, Saigon. Đoạn này hoàn toàn do hai anh Đại tá cớm cộng dựng đứng lên trong tưởng tượng của hai ảnh. Nhưng cứ giả vờ như đó là chuyện xảy ra có thật đi, ta thấy gì?

Trước hết bà chủ vi la Kiều Trang, hay bà chị nữ minh tinh Kiều Trang cũng rứa, là đàn bà lương thiện. Bà không dính dấp gì đến những cái gọi là dzăng nghệ, dzăng gừng, dzăng bút, dzăng mực tùm lum trên cõi đời này. Chắc chắn bà phải sống cùng nhà với cô em từ trước tháng Tư 1975, bà có tên trong sổ gia đình, nên bà mới giữ được cái vi la bạc tỷ tiền Hồ này. Theo đúng lời Thánh Tổ Lênin dậy bọn con cháu cộng sản khi nắm được chính quyền là “việc đầu tiên tịch thu tất cả tài sản của bọn bỏ trốn ra nước ngoài”. Nếu tui nhớ không lầm thì giữa mùa Thanh Minh trong tiết tháng Ba, lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh năm ấy – năm 1975 – nữ minh tinh Kiều Trang đang là khách mời của Air Vietnam đi khai trương một văn phòng ở Singapore hay đâu đó. Số nàng là số đẻ bọc điều, nên nàng đang ở nước ngoài, Saigon thất thủ, nàng dzọt luôn.

Ngày xưa xa lắm tui còn trẻ, còn ngây thơ, tui nghe người ta bảo nhau: “Đẻ con gái đừng đặt tên cho nó là Kiều... Con gái tên Kiều là chém chết cũng có cuộc đời tình ái vất vả như em Kiều Thúy: chồng con chẳng ra gì, tài sắc đổ nước, nghiêng thùng, thơ phú, đàn địch, nhẩy đầm như máy vậy mà phải đem thân đi hầu hạ người ta, bị người ta khinh khi, đánh đập, phải vào nhà chứa rồi nhà chùa v.v...”

Ngày xưa ấy như đã nói xa lắm rồi trong cái gọi là dĩ vãng man mác thời gian tím ngắt, tui thơ dại nên tin lời thiên hạ nói về những nàng Kiều trên cõi đời này như thế là đúng.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 11)

Thời gian qua, những ngày như lá, tháng như mây – Thơ Thanh Nam Si-a-tồ -khi tuổi đời sáu bó lẻ mấy que tôi mới thấy những lời người ta nói như thế về những nàng Kiều là không đúng. Bằng chứng rõ ràng không thể cãi cọ được là cuộc đời ái tình và sự nghiệp của nữ minh tinh Kiều Trang. Tên nàng cũng là Kiều đấy nhưng đời nàng vẫn sáng choang như gương Tàu. Thử hỏi có em Ngọc Côn, Kim Lệ, Huỳnh Hoa nào có cuộc đời an nhàn mọi mặt như nàng Kiều Trang được công an Việt cộng nhắc đến một cách kính nể đầy tính nâng bi trong quyển NTBKCB? Hai nữa, cần gì cứ tên Kiều Nọ, Kiều Kia mới vất vả năm bẩy đời chồng, ba bốn chục đời nhân tình, lúc thì áo xanh, lúc thì áo hồng. Số em có nhiều đàn ông là em có nhiều đàn ông, không phải là vì cái tên Kiều của em. Vô tư mà nói cuộc đời em Kiều Thúy nhiều lúc đoạn trường thật nhưng cũng có nhiều lúc sáng giá đền bù đã lắm đấy chứ? Sao chỉ nhắc đến những lúc nàng bị Mã Giám Sinh xơi tái, Sở Khanh bỏ rơi, Tú Bà đánh đòn, Hoạn Thư bắt hầu rượu, gảy đàn kìm, Hồ Tôn Hiến gỡ gạc mà không nói đến lúc nàng đường đường ngồi ghế Chánh án phu nhân. Khi ấy nàng vinh quang biết chừng bao? Nàng ơn đền, oán trả nặng nề, thẳng tay, Hoạn Thư quỳ mọp dưới sân, Thúc Kỳ Tâm người cũ không những chỉ run như cầy sấy mà còn sợ đến són đé ra quần. Lại còn Tú Bà rập đầu lậy côm cốp như chày giã gạo. Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh nhìn thấy Tử thần vác lưỡi hái lù lù ngay trước mặt. Ba anh này lúc cuối đời mới ăn năn thì sự đã rồi, rất có thể lúc ấy ba anh nghĩ; ” Mèn ơi... Biết sự đời như thế này thì lúc ấy bà có cho em cũng chẳng để vào làm chi...” Về mặt giá trị tính theo vàng Kiều Thúy có giá nhất không những chỉ trong cõi đời Gia Tĩnh triều Minh mà là ở mọi cõi đời, nhất là ở cõi đời này hôm nay... Đằng nào cũng mất, chẳng mất trước thì mất sau, mất mà có 400 lượng vẫn hơn là mất mà hổng có lượng nào, hoặc bán mà giá chỉ có năm chỉ.

Vì không phải là những văn nghệ sĩ chân chính nên hai anh cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên – dù có là đại tá đi nữa – tác giả “Những tên biệt kích cầm bút” đã cho nhân vật Hoàng Hải nói:

– ...Tôi đã treo bút. Viết cái gì bây giờ? Viết để làm gì? Chẳng lẽ mình lại là độc giả duy nhất của chính mình?

Vật bất kỳ bình tắc minh. Khi đau khổ chúng ta kêu, rên, khóc ti tỉ. Khi sung sướng chúng ta kêu, rên, cười toe toét. Văn nghệ sĩ cũng là người nên khi đau khổ, sung sướng văn nghệ sĩ cũng kêu, rên, khóc cười như bất cứ ai. Song vì văn nghệ sĩ là... văn nghệ sĩ nên khi buồn đau, vui sướng văn nghệ sĩ còn sáng tác ra những cái gọi là tác phẩm văn nghệ. Chẳng hạn các thi sĩ mần thơ, nhạc sĩ mần bài ca, văn sĩ viết truyện ngắn, truyện dài. Nói cách khác người thường khi đau buồn chỉ khóc, vui sướng chỉ cười, văn nghệ sĩ ngoài khóc cười như đã nói còn có sự cần thiết bức bách phải cho ra đời tác phẩm văn chương. Sự cần thiết ấy là bắt buộc, không mần không được. Nó như nhu cầu về sinh lý: ăn dzô thì phải tống ra. Chỉ có đầu dzô mà không có đầu ra là chết năm bẩy cửa tứ. Vì vậy văn nghệ sĩ nào nói: “... Viết cái gì? Viết để làm gì? Viết cho ai...?” là văn nghệ sĩ rởm. Bất bình tắc minh. Không bình thường thì kêu lên. Khi xúc động đập vào trái tim người nghệ sĩ, anh ta bắt buộc phải mần thơ nếu anh ta là thi sĩ, mần nhạc nếu anh ta là nhạc sĩ, viết truyện nếu anh ta là văn sĩ. Không mần thì anh sẽ mặt mũi bần thần, ngẩn ngơ, ăn nói vô duyên. Nói rõ hơn và hình tượng dễ hiểu hơn là nếu không sáng tác văn nghệ sĩ sẽ bị táo bón tinh thần rất nặng.

Vì vậy nếu là văn sĩ anh bắt buộc phải viết lên giấy những xúc động trong tim anh, trong hồn anh. Anh không thể dửng dưng, lửng lơ con cá vàng nói: “Viết làm chó gì? Viết cho ai đọc? Không lẽ viết để mình đọc ư?” Anh có thể nghĩ: “Viết ra nó tóm được là bỏ mẹ. Không cần chửi chúng nó hay kêu gọi ai thủ dao phay đứng chờ ở đầu ngõ thấy thằng công an Việt Cộng nào đi qua là chém cho nó năm bẩy nhát. Chỉ cần mình than buồn, than khổ thôi là đủ để nó đem mình đi cất năm bẩy niên. Xa vòng tay gầy lạnh của vợ hiền. Chán lắm...” Anh có thể tự khuyên những câu đầy tính minh triết xanh rờn: “Chịu đi. Đừng có dại mà viết. Bút sa gà chết. Với Việt cộng thì bút sa người chết. Quanh quẩn trong xó nhà như vầy năm bữa, nửa tháng may ra cũng có tô phở chợ, lâu lâu được vợ an ủi, khuyến khích một lần. Thơ mí phú làm ký gì. Vạ vào thân...” Anh nghĩ thì quá khôn, nhưng anh nghĩ dzậy mà anh thường không mần như dzậy.

Những văn nghệ sĩ trong cõi đời này còn có cái tật nữa là ngoài việc mấy ổng dùng buồn vui của mấy ổng làm thành tác phẩm, mấy ổng còn buồn vui vì những buồn vui của người khác. Và mấy ổng cũng có thể vì buồn vui của người khác mà làm thành tác phẩm nghệ thuật. Mấy ổng được người đời yêu mến vì cái tài ấy.

Năm 1994 ở Thành Hồ, tôi xem cuộn băng Vidéo Văn Phụng – Châu Hà, thấy MC Nguyễn Ngọc Ngạn hỏi Văn Phụng trong trường hợp nào nhạc sĩ sáng tác bản “Tạ Từ Đêm Mưa“? Văn Phụng trả lời:

– Đêm ấy chơi nhạc ở Đăng-xinh Văn Cảnh. Khi ra về tôi thấy một cặp tình nhân chia tay nhau. Cảnh họ quyến luyến nhau trong đêm mưa gợi hứng cho tôi làm nhạc...

MC Nguyễn Ngọc Ngạn:

– Như vậy là anh giả vờ buồn...

Nhạc sĩ Văn Phụng không nói gì.

Khi gặp Văn Phụng ở thành phố Arlington, nơi có Rừng Phong thu vẫn nhuốm mầu quan san của Công tử Hà Đông, tôi hỏi anh:

– Anh nhớ trong Vidéo của anh Nguyễn Ngọc Ngạn hỏi anh về bản Tạ Từ Đêm Mưa chứ? Khi Nguyễn Ngọc Ngạn nói “anh giả vờ buồn...” sao anh không nói gì cả? Anh thấy người khác chia ly nhau người ta buồn. Anh không chia ly ai cả nhưng anh buồn cái buồn của những người phải xa nhau, anh làm bản Tạ Từ... Làm sao anh có thể giả vờ buồn mà làm được bản nhạc buồn đến thế...?

Tôi suốt một đời đi ở nhà thuê. Bi giờ về già hết lộc rồi nghĩ lại thật xấu hổ. Chẳng gì cũng mang danh ký giả, văn sĩ, có mấy chục bộ truyện được in, nhân viên Sở Mẽo! Mà nếu vợ bị tra tấn tàn nhẫn sống dở chết dở bẩy ngày cũng không xì ra được nửa chỉ vàng nào để hối lộ, kim cang, hột xoàn lại càng không có. May mắn cho vợ chồng tôi là mẹ tôi có một cái nhà nhỏ vẫn bỏ không trong cái gọi là cư xá Tự Do ở giữa Ngã Ba Ông Tạ và Ngã Tư Bảy Hiền. Ba tháng sau ngày oan nghiệt vợ chồng tôi về căn nhà đó ở. Không có căn nhà này thì chúng tôi còn vất vả nhiều. Và chúng tôi đã sống lúi cúi với nhau, đã yêu thương, nhớ thương và chờ đợi nhau trong căn nhà nhỏ ấy đúng mười chín mùa lá rụng lẻ sáu tháng mây bay. Hai lần Công An Thành Hồ cho xe bông đến trước cửa căn nhà ấy rước tôi đi, hai lần tôi từ nhà tù cộng sản sống sót trở về đó.

Cư xá Tự Do có hai khu do Gia Cư Liêm Giá Cuộc xây lên bán trả góp cho dân. Khu ngoài là khu vi-la song lập đắt tiền. Khu trong là khu nhà có gác lửng rẻ tiền. Sau những trận mưa đầu mùa con đường trong khu nhà tôi nước ngập đến đầu gối. Trong căn nhà tối ấy những chiều buồn quá không có việc gì làm, không biết đi đâu, đến nhà ai, tôi đứng sau khung cửa sổ nhìn vẩn vương ra con đường nhỏ. Xế cửa nhà tôi có một thiếu phụ tuổi trạc ba mươi, ông chồng là đại úy đi cải tạo, nàng thường bồng đứa con nhỏ đứng trong khung cửa sổ nhà nàng nhìn vơ vẩn ra đường. Tôi biết nàng buồn. Tôi cảm được nỗi buồn của nàng. Thêm vào đó là nỗi buồn của tôi. Bên nhà tôi – năm ấy tôi bốn bó lẻ hai, ba que – tôi cũng buồn quá. Không thể chịu được tôi mần thơ:

Buồn

Như cánh lá vàng sau trận cuồng phong
Anh rạt về đây, xóm hẹp, đường đông.
Nhà em, nhà anh cách hai thước ngõ
Những chiều mưa buồn nước ngập như sông
Anh đứng võ vàng sau khung cửa sổ
Như người tù nhìn đời qua chấn song.
Em đứng mỏi mòn bên dàn ván gỗ
Như người chinh phụ ôm con đợi trông.
Anh đứng trông mây, em đứng trông chồng
Vắng chồng con bế, con bồng em mang.

Cái bống là cái bống bang
Mẹ bống yêu bống , bống càng làm thơ...
Tiếng ru hờ, tiếng khóc ơ
Vương trên khung cửa bây giờ tang thương.
Đìu hiu cuối ngõ, cùng đường
Bên anh tuyệt vọng, đoạn trường bên em.
Ngày lại ngày, đêm lại đêm
Ngày rơi tàn tạ, đêm chìm phôi pha
Buồn từ trong cửa buồn ra
Buồn từ ngã bẩy, ngã ba buồn về
Ta đang sống, ta đang mê
Hay ta đang chết não nề, em ơi...!

Những tháng cuối 1975 đầu 1976 ngẩn ngơ giữa mấy rừng cờ đỏ, quá buồn tôi làm thơ. Tôi chép những bài thơ này vào một tập. Tháng 10 năm 1977, công an Thành Hồ đến nhà bắt tôi, vớ được tập thơ này. Khi thẩm vấn tôi, Ba Trung. tức Huỳnh Bá Thành, tức họa sĩ Ớt, nhật báo Đồng Nai Chủ nhiệm Hồng Sơn Đông, hỏi mỉa tôi:

– Bây giờ anh đã được làm người tù nhìn trời qua chấn song, anh không còn phải tưởng tượng nữa, anh thấy sao?

Và Ba Trung nói về bài thơ Buồn của tôi:

– Các anh sĩ quan Ngụy phải đi cải tạo là cần thiết. Cứ để mấy ảnh ở nhà sao được. Vợ mấy ảnh có mong chồng thì cũng phải chịu thôi. Trong khi nhân dân cả nước đang phấn khởi hồ hởi tiến lên xã hội chủ nghĩa, một mình anh kêu than buồn khổ đâu có được. Bài thơ buồn của anh có thể ảnh hưởng xấu đến người khác, làm người khác buồn lây, có hại đến việc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Ba Trung, họa sĩ Ớt Huỳnh Bá Thành, tác giả truyện Vụ Án Hồ Con Rùa có hai ba tiểu thuyết được làm thành phim. Từ năm 1990 Ba Trung giữ chức vụ quyền Tổng biên tập Tuần báo Công An Thành Hồ. Loại báo này đúng ra chỉ là báo phổ biến tin tức nội bộ cơ quan công an, nhưng bọn cớm cộng làm thành báo bán để kiếm lời. Cớm cộng có đặc quyền khai thác hồ sơ những vụ giết người, hiếp dâm, ăn cắp, ăn cướp v.v... – đặc quyền và toàn quyền – nhiều người dân mua, đọc Tuần báo Công An, trong số này có cả tôi, chỉ để đọc những vụ hiếp dâm tàn bạo, những vụ giết người kinh khiếp, những vụ đảng viên ăn cắp công khai, làm bậy bất chấp Đảng với Nhà Nước, đọc tin về những ổ mãi dâm, ma túy, hàng giả, hàng lậu, vidéo sex v.v... Có thể nói tờ tuần báo Công An Thành Hồ là tờ báo bới móc, phơi bầy những cái xấu của xã hội XHCN một cách ác ôn nhất.

Trong một xã hội mà những tờ báo chuyên đăng những tin tức hiếp dâm, giết người, cướp trộm, sa đọa bán chạy, có nhiều người đọc chứng tỏ cái xã hội đó thối nát tàn tệ, bẩn thỉu quá đỗi. Bọn Tuần báo Công An Thành Hồ không chút hổ thẹn vì báo của chúng chỉ bán được nhờ đăng những vụ hiếp dâm, giết người. Không những không biết hổ thẹn chúng còn vênh váo khoe khoang là báo của chúng bán chạy nhất.

Ba Trung là cán bộ công an thẩm vấn tôi trong lần tôi bị bắt lần thứ nhất – 1977-1979 – Lần ấy tôi chưa “phạm tội” gì nhiều, tôi chỉ viết một số bài kiểu Tạp ghi Văn Nghệ Văn Gừng gửi cho một nữ độc giả của tôi bỏ nước chạy lấy người sang Xê Kỳ – một số bài viết có thể gọi là vô thưởng vô phạt về những ngày sống u buồn của tôi ở Thành Hồ, tả cảnh nón cối, dép râu, tóc bím, mông đít to như cái thúng, lính cụ Hồ đực rựa hai mươi nhăm, ba mươi tuổi nắm tay nhau đi rung răng, rung rẻ ngay trên đường Lê Lợi, Tự Do, cùng một số bài thơ than thân, trách phận, thương khóc kẻ ở, người đi kiếp sau chắc mí gặp nhau não nùng, ai oán. Người độc giả của tôi gửi những bài viết của tôi đến các báo Việt ở hải ngoại. Trong số những báo đăng loạt bài ấy của tôi có Tạp chí Đất Mới ở Seattle, tạp chí Thời Tập của Viên Linh, Nhất Việt của Du Tử Lê... vv...

Cộng sản thù ghét nhất những người sống dưới chế độ chúng mà dám viết những bài tả cuộc sống khốn khổ, khốn nạn của mình và của nhân dân gửi ra nước ngoài. Với cộng sản “cứ viết gửi ra nước ngoài” là có tội rồi, bất kể bài viết có nội dung ra sao. Có lần thẩm vấn tôi Ba Trung nói với tôi:

– Anh biết viết bài gửi ra nước ngoài là nguy hiểm nhưng anh cứ viết, cứ gửi...

Và Ba Trung nói đến chuyện tôi được “mời cộng tác”

– Khi các văn nghệ sĩ Sàigòn phải đi cải tạo, chúng tôi đã để cho anh được yên ở nhà. Không những chỉ để anh yên, chúng tôi còn mời anh cộng tác. Anh không làm thì thôi, anh ở yên đi. Anh còn chống chúng tôi nữa. Chúng tôi bắt buộc phải bắt anh thôi. Tiếc cho anh. Chúng tôi có đối xử gì nặng tay với anh đâu? Anh vẫn còn được ngồi ngang hàng với Vũ Hạnh...

Trước hết việc “được ngồi ngang hàng với Vũ Hạnh” làm tôi xấu hổ. “Ngồi ngang hàng” đây là việc sau khi một số văn nghệ sĩ Sàigòn được công an Thành Hồ ưu ái cho xe bông đến tận nhà rước đem đi cất kỹ vào tháng Ba, tháng Tư năm 1976. Quần hùng đi tù thật đông, không sao nhớ hết và cũng không thể kể hết. Sau đợt bắt tập thể ấy cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng Thành Phố HCM tổ chức hai khóa bồi dưỡng chính trị cho những anh chị chưa bị bắt. Tôi đi dự Khóa Bồi Dưỡng Hai như tôi đã kể. Ý Ba Trung muốn nói là trong những cuộc hội họp như thế tôi vẫn được ngồi ngang hàng với Vũ Hạnh. Khi nghe Ba Trung nói như thế tôi ngồi yên, tôi không nói cho anh ta biết là tôi xấu hổ, tôi cay đắng mỗi lần tôi phải vác cái mặt mo của tôi đến ngồi nghe bọn cán cộng ưu ái lên lớp.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 12)

Và đây là chuyện tôi được Việt Cộng “mời cộng tác”:

Khoảng ba, bốn tháng sau ngày 30 Tháng Tư tôi được gặp anh Ba Trinh, một trong những cán bộ phụ trách biên tập tờ nhật báo Sàigòn Giải Phóng. Những năm 1960 Ba Trinh có đến tòa soạn nhật báo Sàigònmới nên anh biết tôi, rồi anh bị bắt, thả ra, bị bắt lại hai ba lần, lần cuối cùng anh từ Côn Đảo về miền Bắc năm 1972, theo thỏa hiệp trao đổi tù binh giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt Cộng, Tháng 5 anh từ Hà nội vào Sàigòn. Ba Trinh hơn tôi khoảng mười, mười lăm tuổi. Anh nói với tôi:

– Chúng tôi cần loạt bài phóng sự về cuộc sống của bọn tướng tá Ngụy, chúng tôi không viết được loại phóng sự ấy. Cậu có biệt tài về loại đó, chúng tôi mời cậu viết cho chúng tôi. Nhưng nếu viết cậu đừng để tên cậu. Cậu mà dùng tên cậu thì ngay cả các bạn cậu cũng chửi cậu. Cậu dùng một tên khác. Mai đây chúng tôi có thể nói với các ông ấy người viết loạt bài đó là cậu. Sẽ đỡ cho cậu nhiều lắm. Và cũng có ít tiền giúp cậu đỡ khó khăn trong lúc này.

Tôi ừ ào cho qua nhưng tôi không viết. Khi còn Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa tôi có thể viết những phóng sự hoạt kê châm biếm bọn có quyền thế, có địa vị, bọn giầu tiền, như tôi đã từng viết những phóng sự Bà Lớn, Yêu Tì đăng trên nhật báo Ngôn Luận những năm trước 1963, nhưng bây giờ Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa của tôi vừa bị diệt, những bộ trưởng chính phủ, tướng tá, tỉnh trưởng, thẩm phán, dân biểu của tôi không chạy ra nước ngoài được nay đang bị tù đày, họ đang khổ cực hơn tôi, vợ con họ khổ cực hơn vợ con tôi, dù sao họ cũng là anh em tôi, có xấu xa đến mấy đi chăng nữa họ cũng là anh em tôi, trong tình cảnh khốn khổ, nhục nhã chung này tôi không thể viết chửi bới họ.

Chuyện “cộng tác” thứ hai: Sau Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị Hai chừng hai tháng tôi nhận được giấy gọi lên Sở Công An Thành phố. Tôi hồi hộp đến Nha Cảnh Sát Đô Thành của ta. Một anh công an trẻ tuổi, có vẻ là người Sàigòn, tiếp tôi trong cái vi-la ngay bên cạnh trụ sở. Anh ta nói:

– Những người có tội như Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh đã bị bắt. Anh không phải là không có tội nhưng chúng tôi thấy anh tội nhẹ nên không bắt anh song anh có bổn phận phải cộng tác. Chúng tôi cần biết về tình hìng các văn nghệ sĩ Sàigòn, họ làm gì, nghĩ gì, họ sống ra sao. Không phải anh cứ báo cáo là chúng tôi bắt họ đâu, anh có thể cho chúng tôi biết những khó khăn của anh em văn nghệ sĩ để chúng tôi giúp họ.

Những người công an bắt tôi làm việc cho họ không cho tôi biết tên họ – tôi chỉ biết tên có một chị: chị Chanh, Việt Cộng nằm vùng, từng hành nghề buôn cây để có dịp vào rừng liên lạc với đồng bọn. Họ hẹn tôi một, hoặc hai tuần đến gặp họ và báo cáo một lần. Những lần họ gặp tôi đều ở những vi-la tư nhân họ chiếm được. Tôi chẳng có gì để báo cáo với họ cả. Sau chừng ba tháng dằng co như thế một sáng tôi nói với vợ tôi:

– Anh không thể làm chỉ điểm cho bọn này. Nếu anh báo cáo về anh em mình anh không thể nhìn mặt anh trong gương. Anh không làm đâu. Nó muốn bắt anh thì bắt.

Alice đồng ý với tôi.

Lần gặp sau tôi đưa cái thư “Kính gửi ban lãnh đạo...”, trong thư tôi viết tôi không có điều kiện cộng tác với Sở Công An, việc gặp tôi chỉ làm mất thì giờ của anh chị em công an, xin lãnh đạo cho tôi được nghỉ; tôi có thể dịch các tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp, nếu cơ quan cần người dịch thuật tôi xin làm vv...

Tháng Ba, tháng Tư năm 1976 tôi chờ đợi tôi cũng bị bắt như các bạn tôi. Nhưng tôi đã không bị. Tôi xin nói rõ – và nói đi nói lại nếu cần – tôi không muốn được đi tù một ly ông cụ nào cả. Anh Triều Đẩu từng giải cho tôi biết Tử Vi của tôi không có sao Quả Tạ, tức là không có số ở tù. Tôi chỉ tỏ ra hung hăng con bọ xít, du đãng, du côn, du thủ, du thực, hào huê, phong tình trong những chuyện tôi viết mà thôi. Trong đời thực tôi lành hơn cục đất thó. Và cũng hơn một lần tôi đã viết: Sau ngày oan nghiệt tôi quanh quẩn trong xó nhà, ngày ngày quét nhà, lau nhà, đổ rác, giặt quần cho vợ, thuốc lá Vĩnh Hảo Bốc En Xe Ông Già Le Lưỡi Liếm... giấy vấn thoải mái, lâu lâu có chầu rượu đế, lạc rang, hột vịt lộn, nghêu sò ốc hến vỉa hè... Tất nhiên là so với cuộc sống trước tháng Tư năm 1975 thì tối tăm ảm đạm thật đấy, nhưng nếu so với những cuộc sống trong những nhà tù Việt cộng thì chắc chắn còn đỡ khổ hơn nhiều.

Không phải là Alice không giặt được quần áo của nàng hay nàng bắt chồng nàng phải giặt, chỉ vì anh Con Trai Bà Cả Đọi, người anh em cùng vợ với chàng Công Tử Hà Đông, suốt ngày đêm chẳng có việc gì mần cho đỡ buồn nên anh tranh làm cái việc giặt quần áo. Có những lần ngồi giặt anh lơ mơ nhớ lại ngày xưa anh viết những bài chửi bới thiên hạ dưới hai cái tên Gã Thâm, Công Tử Hà Đông, anh thường rủa: “Cho thằng đó về nhà giặt quần áo cho vợ”. Không biết trong số những người bị anh rủa có ai phải về nhà giặt quần cho vợ hay không. Anh chỉ biết anh bị Việt cộng nó cho về xó nhà giặt quần cho vợ dài dài, mệt nghỉ...

Vẫn biết cuộc sống quanh quẩn trong xó nhà làm những việc chân tay lặt vặt, lâu lâu được rờ đôi mông teo của vợ hiền... tuy tăm tối cũng còn khá hơn cuộc sống trong tù nhiều, nhưng khi các anh em tôi bị bắt tù tôi không bị như anh em, tôi thấy kỳ quá. Mỗi lần đi ra, di dzô cư xá tôi cứ cúi mặt xuống mà đi. Tôi có mặc cảm người ta nhìn tôi với ánh mắt muốn hỏi: “... Bao nhiêu văn nghệ sĩ bị bắt, sao tên này không bị? Nó làm gì mà bọn Việt cộng không bắt nó?” Nếu bà con cô bác có ai théc méc đặt câu hỏi như vậy thì cũng đúng thôi: việc tôi bị Việt cộng bắt không có gì lạ, việc VC không bắt tôi mới là lạ. Tôi nói lại cho rõ: ngày ấy, tháng ấy, năm ấy tôi không mong tôi cũng bị bắt như anh em, tôi chỉ thấy anh em bị bắt tôi không bị sao kỳ quá...

Những năm 1976, 1977 những anh con trai bà Cả Đọi không bị đi cải tạo ở nhà làm việc giữ nhà, giặt giũ, nấu cơm, đổ rác là chuyện thường – đàn bà đi chợ trời, chợ đất, mua đi, bán lại kiếm sống – ngồi buồn trong xó bếp căn nhà tối tăm trong cư xá Tự Do mãi cũng chịu không nổi, có những chiều nấu cơm xong, tôi tắm rửa sạch sẽ, ra đầu cư xá ngồi chờ Alice đi chợ trời Hàm Nghi về bằng xe ô-tô-buýt, tôi mần bài Sẩm Xoang:

Gió lay cành trúc, gió đập cành tre
Thuyền tình anh vẫn le te đợi nàng
Gió lắc cành vông, gió lật cành bàng
Thuyền tình anh chẳng đợi nàng thì anh đợi ai?
Ối cô nàng ờ... Ới cô nàng ơi... Anh nói để cô nàng hay
Chứ mà... Cô nàng nghe anh hỏi cô nàng này
– Lương Mẽo được mấy trăm đồng?
Dầm sương, dãi tuyết má hồng nàng phai.
Đi lắm thì vú nàng quai
Chẳng thà ăn sắn, ăn khoai thành Hồ.
Nàng đói thì nàng bán đồ
Để anh cơm nước, chăm lo cửa nhà.
Riêu cua nàng chan cơm cà
Nàng mà đau bụng thì đà có anh
Nàng còn xẻo đất trồng hành
Anh trui cá lóc nấu canh tập tàng.
...
Cá lóc còn ở trong hang
Cái rau tập tàng còn ở ruộng dâu
Anh về anh chuốt cần câu
Ngoắc con cá lóc nấu rau tập tàng...

Với những bằng chứng như trên chi tiết hai anh cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên cho nhân vật Hoàng Hải trong “Những tên biệt kích cầm bút” nói với bà chủ vi la Kiều Trang:

– ...Tôi đã treo bút. Viết ký gì bi giờ? Viết để làm gì???... Là hổng có đúng sự thật.

Quý bạn vừa đọc một số trang trích từ quyển “Những tên biệt kích cầm bút” do hai đại tá công an Việt cộng viết ở Thành Hồ về nhóm anh em chúng tôi. Chương truyện này là cuộc họp mặt nhân lễ Giáng Sinh năm 1983, Trần Tam Tiệp năm ấy là Tổng thư ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, gửi một khoản tiền về cho chúng tôi nhân Lễ Noel có một bữa ăn gặp gỡ. Chúng tôi mượn vi-la của Nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh ở Cư Xá Lữ Gia làm nơi tổ chức bữa ăn họp mặt. Vi-la này năm ấy do bà chị của Kiều Chinh làm chủ. Riêng Trần Tam Tiệp được hai anh Nam Thi – Minh Kiên, Tổng và Phó Biên tập tuần báo Công an thành Hồ gọi nguyên tên là Trần Tam Tiệp. Tên anh em chúng tôi đều bị cắt bớt một phần: Doãn Quốc Sĩ trở thành Đoàn Quốc, Dương Hùng Cường trở thành Dương Hùng, Khuất Duy Trác là Khuất Duy và tôi là Hoàng Hải.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 13)

Hoàng Hải, anh Con Trai Bà Cả Đọi là nhân vật thứ hai được diễn tả trong NTBKCB sau Trần Tam Tiệp. Hình ảnh của anh có vẻ hào hoa phong thấp, nhưng cái hình ảnh đó hổng thật, hổng đúng tí nào. Hai anh cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên hoàn toàn phịa ra hình ảnh Hoàng Hải những năm 81, 82 tả tơi giữa lòng thành Hồ mà vẫn “hút thuốc píp Half and Half...”

Thời còn bị Mỹ Ngụy kìm kẹp anh con trai bà Cả Đọi quả thực có nghiện thuốc lá Mẽo – thời ấy anh nghiện nhiều thứ. Anh phì phèo thuốc điếu từ những năm 1950, năm anh mới mười tám, đôi mươi, mắt sáng, môi hồng, tâm hồn trắng như tờ giấy trắng trái tim trong suốt như nước hồ thu, thời anh chưa biết rõ về cái gọi là chi tiết người đàn bà khác người con gái ở cái gì – Thoạt đầu anh rít mỗi ngày vài điếu Cotab – Trước năm 1954 Công tử Nam kỳ hút Ách Chuồn Golden Club, Grand Prix, Công tử Bắc kỳ hút Cotab. Đến năm 1958 anh đổi sang Lucky Strike, rồi Pall Mall, Philip Morris Vàng dài dài cho đến ngày tan hàng.

Anh là người đưa câu “Lucky Ba Hàng Chữ” vào phóng sự. Nhiều người Sègòong ngày xưa cũng hút Lucky nhưng không biết “Lucky Ba Hàng Chữ” là gì, tại sao lại là “Ba Hàng Chữ”. Số là Lucky Strike có ba loại: Lucky Một Hàng Chữ – đúng ra là hổng có hàng chữ nào – là loại thuốc phát không cho binh sĩ Mẽo, giống như thuốc điếu Quân Tiếp Vụ của quân đội ta ngày xưa, phẩm chất loại này tồi, bán rẻ. Lucky Hai Hàng Chữ là loại thuốc bán cho thường dân, có in hàng chữ Lucky Strike ở đáy bao. Lucky Ba Hàng Chữ, ngoài hai hàng chữ Lucky Strike còn thêm hàng chữ “For Export Only”. Loại thuốc này chỉ dành để xuất ra ngoại quốc. Vì cạnh tranh loại thuốc này phải làm với phẩm chất cao. Vì vậy Lucky Ba Hàng Chữ giá đắt nhất. Năm 1960, thời Việt Nam Cộng Hòa còn cực thịnh, giá Lucky như sau: Lucky Một Hàng 25 đồng, Lucky Hai Hàng 28 đồng, Lucky Ba Hàng 30 đồng. Thời này giá vàng 3000 đồng một cây.

Anh Con Trai Bà Cả Đọi chẳng có qua một tí tài nào, kể cả những tài vặt, xong về việc hút thuốc lá thì anh có thể khiêm tốn tự phong anh thuộc loại cao thủ. Những năm 1960 – 1975 trung bình mỗi ngày anh hút 50 điếu. Mười, mười một giờ tối khi vào giường đọc sách anh rít khoảng năm, sáu điếu mới tắt đèn ngáo. Ngoài 50 điếu thuốc lá mỗi ngày anh còn hút pipe, xì gà. Nón cối, dép râu ngơ ngáo vào Sàigòn, anh – cũng như những người Sègoòng nghiện thuốc lá – đi mua thuốc Vĩnh Hảo, Lạng Sơn về vấn lấy theo kiểu Bốc En Xe – bốc thuốc rời ra xe lại – và Ông Già Le Lưỡi– le lưỡi liếm giấy vấn thuốc. Tám năm ngồi rù trong tù anh hút thuốc rê liên tục từ năm giờ sáng đến mười giờ đêm.

Chẳng hay hớm gì việc hút xách. Chỉ là vì ngay những trang đầu NTBKCB đã thấy cớm cộng tả mình phây phây hút Half and Half giữa lòng Thành Hồ Xã hội Chủ nghĩa toàn dân đói rời, đói rạc, đói rệu, đói rã nên cảm khái đi một đường hoài niệm ngày xưa. Ngày xưa ấy là những năm 1960-1975 anh Con Trai đang ở số tuổi phong độ nhất đời anh. Anh làm nhân viên Nhật báo Sàigònmới, nhật báo có số báo bán cao nhất lịch sử Việt Nam kể từ ngày Việt Nam có nhật báo. Những năm 1960 Nhật báo Sàigòn Mới có số bán nhất Nam kỳ, nhất Trung kỳ, nhất Đông dương luôn. Anh Con trai bà Cả Đọi, anh em cùng vợ với Công tử Hà Đông, thanh niên Bắc kỳ chính cống Bà Lang Trọc, có duyên được vào làm nhân viên báo Sàigònmới, tờ nhật báo Nam kỳ điển hình, độc giả của Sàigònmới toàn là người Nam. Anh viết tiểu thuyết phơi-ơ-tông cho báo Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong của chủ nhiệm Hồ Anh, tuần báo Điện Ảnh của chủ nhiệm Nguyễn Ngọc Linh, rồi Kịch Ảnh của chủ nhiệm Quốc Phong, tuần báo Phụ Nữ Ngày Mai của chủ nhiệm Nguyễn Đức Khiết, anh con thứ sáu của bà Bút Trà. Anh ra dzô xoành xoạch nhà sách Xuân Thu, Pagode, Brodard, anh đớp bíp-tếch ở Diamond, Kim Hoa, bui-a-bét ở Choeng Nam và đều đều mỗi ngày anh hút vào phổi anh khói độc nhưng thơm, nhưng mê người của gần 60 điếu thuốc lá.

Xin cho hoài niệm chút thôi. Bạn có thể nói: “Ăn chơi hạng bét. Dzậy mà cũng kể...” Bạn có thể nói: “Mẹ kiếp. Việt cộng nó tuyên bố Đồng Khởi từ năm 1958. Thằng lớn chơi lớn, thằng nhỏ chơi nhỏ. Đầu hàng là đáng kiếp...” Bạn nói đúng. Tôi chỉ kể để nói rằng tôi hút thuốc lá Mẽo đến hết tháng 5 năm 1975 là ngừng. Ngày 5 hay 10 Tháng Năm năm 1975, tôi gượng đi lên trung tâm Sàigòn. Chị bán thuốc lá ở trước tiệm kem Mai Hương đường Lê Lợi còn vài gói Paul Mall và một hộp thuốc pipe Sir Walter Raleigh. Tôi mua cả số thuốc này. Tôi giữ hộp Sir Walter Raleigh để đựng thuốc lá Vĩnh Hảo. Năm 1982 anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Nguyễn Khánh Giư đến nhà tôi. Nhìn thấy hộp thuốc Mỹ để trên bàn anh Hiếu Chân ngạc nhiên:

– Cha... Giờ này mà cậu vẫn còn thuốc lá Mỹ để hút à?

Mấy tối trước tôi vừa nghe một phóng viên Đài BiBiXi diễn tả cuộc sống ở thành phố Hồ Chí Minh bằng câu: “Trái tim tư bản vẫn đập trong cái xác Xã hội Chủ nghĩa”, tôi trả lời anh Hiếu Chân:

– Có cái hộp Mỹ thôi, ông ơi. Trong nó đựng thuốc lá Vĩnh Hảo. Cái này gọi “gan ruột vô sản nằm trong cái xác tư bản”

Tôi ngừng viết năm phút vì bồi hồi tưởng nhớ những ông bạn tôi nay không còn nữa, các anh hơn tôi từ mười đến mười lăm tuổi. Các anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Nguyễn Khánh Giư, Trần Việt Sơn, Cao Hữu Đính, Nguyễn văn Đạt, Vương Văn Bách, Cát Hữu, Dương Thiệu Tước, Vũ Bằng, Hoàng vĩnh Lộc... Các vị đàn anh tôi đã sống, đã chết ở Sàigòn sau 1975. Hai mươi mốt mùa lá rụng đã rơi trên những lối mòn mờ vết chân xưa kể từ ngày oan trái ấy. Không biết bao nhiêu người tôi được quen biết, giao du nay đã ra người thiên cổ.

Buổi tối họp mặt của chúng tôi Noel 1983 ở vi-la của Nữ minh tinh Kiều Trang có sự tham dự của các đàn anh Tam Lang, Vũ Bằng, Doãn Quốc Sĩ, Tạ Tỵ. Bốn anh chỉ đến ngồi chơi, nói chuyện với anh em cho vui rồi về, không ở lại ăn uống. Mời 6 giờ, nhưng nhà khó tìm, người nọ chờ người kia, nên mãi đến 8 giờ tối mới bắt đầu ăn uống. Rượu, tôi nhớ có hai chai Napoleon, không phải Camus. Dương Hùng không mang Cây Lý đến như tả trong truyện. Thấy có hai gói Lucky, tôi hỏi Khuất Duy:

– Ê... mua cả gói cho anh em hút hay mua lẻ vài điếu đây?

Anh Vũ Bằng cười:

– Hoàng Hải Thủy bôi bác Khuất Duy Trác quá vậy...?

Tối ấy các anh Tam Lang, Vũ Bằng, Trần Việt Sơn hãy còn sống, hai anh Tạ Tỵ, Duyên Anh chưa vượt biên, chúng tôi chưa bị bắt, hai anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Dương Hùng Cường chưa chết trong tù.

Tôi bị bắt lần thứ nhất cuối năm 1977, hai mùa lá rụng sau tôi từ Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu trở về mái nhà xưa. Dương Hùng Cường đã đi cải tạo ba niên và đã trở về với vợ con trong căn nhà hẻm đường Lý Thường Kiệt, gần cái gọi là Trung tâm Nữ Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Gặp nhau, Cường bảo tôi:

– Trần Tam Tiệp trước có làm thơ tếu ký tên Đạo Cù đăng ở Con Ong... nay là Tổng thư ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại ở Paris, có gửi thuốc Tây về cứu đói văn nghệ sĩ. Tôi đã báo tin cho Tiệp biết ông về và gửi địa chỉ của ông cho Tiệp. Kỳ quà tới thế nào ông cũng có đấy.

Và thế là tôi được ghi danh vào sổ Con Cá Nó Sống Vì Nước Ngoài của Văn Bút Hải Ngoại. Tiệp viết thư về cho chúng tôi biết anh xin được PEN International – Hội Văn Bút Quốc Tế – một khoản tiền để cứu đói anh em kẹt ở nhà. Số tiền PEN Intern, cộng với số tiền Văn Bút Hải Ngoại quyên góp được, Tiệp mua thuốc tây gửi về cho chúng tôi. Khi Tiệp gửi tiền về cho chúng tôi tổ chức đêm Noel với nhau, vợ chồng Khuất Duy Trác – có Ngũ Long Công chúa, lúc này còn Tứ Long, một công chúa đã phú lỉnh sang được Xê Kỳ – được Tiệp nhờ tổ chức bữa ăn Noel họp mặt. Trác mượn vila của bà chị nữ minh tinh Kiều Trang – Kiều Chinh – để anh em gặp gỡ.

Vi-la ở Cư xá Lữ Gia cạnh trường đua Phú Thọ. Từ Cư xá Tự Do giữa Ngã Ba Ông Tạ và Ngã Tư Bẩy Hiền tôi đã đạp xe lóc cóc đến Cư xá Lữ Gia nhưng vì tôi ghi sai số nhà nên tôi không tìm ra vi-la. Trong khi ấy mấy cháu con gái của Khuất Duy Trác và Dương Hùng Cường- Vợ chồng Cường cũng có Ngũ Long Công chúa như vợ chồng Trác- đứng ở đầu ngõ chờ chú, bác nào lớ ngớ có vẻ tìm nhà thì chỉ đường. Tôi có đạp xe qua chỗ mấy cháu đứng nhưng tôi chẳng biết mặt đứa nào cả. Còn các cháu chắc cũng ngờ ngợ nhưng thấy tôi đạp đi luôn nên chẳng hỏi. Tôi về nhà ngồi được một lúc thì một anh bạn chạy xế Bridgestone đến. Anh biết tôi không tìm ra nhà nên đến đón tôi.

Sự thực là như vậy. Và vì vậy cho nên sáng nay ngồi viết ở Rừng Phong Arlington – Tết Mẽo, tết Mít qua đã lâu rồi nhưng đêm qua, trận mưa tuyết thứ tư trong năm mới đổ xuống Virginia Đất Tình nhân- sáng nay tuyết trắng trời, trắng đất, tôi – đại diện nhân vật Hoàng Hải trong NTBKCB, xin nói cho rõ:

1. Tôi có đến dự buổi gặp mặt tại vila Kiều Trang nhưng tối ấy tôi không có hút thuốc pipe Half and Half như được tả. Tôi không hút vì tôi không có mà hút. Từ năm 1980 có luật tất cả các loại thuốc lá ngoại quốc hằm bà lằng xíu oắt đều bị tịch thu hết. Thuốc Tylenol cũng vậy. Một lần khoảng năm 1982 tôi lên Kho Hàng Nước Ngoài ở Phi trường Tân Sơn Nhất lãnh một thùng quà từ Mỹ gửi về. Em kiểm hóa còn trẻ, trạc tuổi Kiều Giang con gái tôi, thấy số quà của tôi quá nghèo và chắc thấy nhan sắc tôi tiều tụy quá nên thương hại bảo tôi:

– Có mấy gói thuốc. Bác cất ngay đi. Đừng để người ta thấy...

Lần ấy trong số quà em tôi từ Mỹ gửi về có một cái pipe, bốn gói thuốc 79. Tôi mang thuốc 79 đi bán ở chợ Tân Định. Cái pipe được 500, 4 gói 79 được 200 tiền Hồ. Việc này có Cua Biển làm chứng. Cua Biển hiện cùng với Hoàng Anh Tuấn ở San Jose. Cua Biển dắt tôi đi bán. Có hàng tôi cũng chẳng biết phải đem bán ở đâu.

Bởi vậy tôi thấy tôi có quyền kêu “Oan Ơi Ông Địa” khi bị tả là phây phây hút thuốc pipe Háp ên Háp giữa lòng thành phố HCM muôn dân lầm than đói rách tả tơi. Tôi có hút nhưng là hút “Ngáp ên Ngáp” chứ không phải Háp ên Háp.

Tôi còn bị vu oan trong đoạn diễn tỏa tôi “nịnh” bà chị nữ minh tinh Kiều Trang. Em Thị Mầu bị nghi là còn trinh oan uổng như thế nào thì tôi cũng oan như thế. Sự thật là bà chủ nhà cho vợ chồng Khuất Duy mượn một gian phòng và nhà bếp trong một tối nhưng bà không ra tiếp tụi tôi, không ăn uống với tụi tôi. Tôi không những là không có hân hạnh được nịnh bà mà tôi còn cả đời chẳng bao giờ được gặp bà, được nhìn thấy dung nhan của bà.

Tội nghiệp tôi, tội nghiệp Hoàng Hải. Ngày ấy, năm ấy tôi đâu còn tí ti ông cụ hào hoa phong thấp nào. Còn đâu những ngày phì phèo Philip Morris Vàng, vào nhà Xuân Thu ôm một đống sách báo, ăn trạo tôm, ngọc dương hầm thuốc Bắc ở Ngân Đình Tửu Gia, phóng xế Hillman Đề-ca-pô-típ trên xa lộ, trải áo paraverse cho nàng nằm dưới hàng dừa, chiều chiều lên tuốt Chuồng Cu Nhà Quốc Hội ngồi với Từ Chung, Cát Hữu, Xuân Mai – hôm nào Từ Chung không đi thì có Phan Nghị – dự phiên họp Quốc hội để viết bài tường thuật trên báo Sàigònmới. Những ngày ấy đã xa rồi trong dĩ vãng. Những năm 1980, tôi gầy ốm xương xẩu, đen đủi, thân xác chỉ còn xương với da. Nhiều lúc đứng trước gương trong nhà tôi thấy tôi như con trâu già. Một cô em văn nghệ của tôi, cô Thục Viên, hiện ở Houston, Texas, có lần nói với tôi ở Thành Hồ những ngày xa xưa đó:

– Em thấy anh đi qua, nhưng em không biết có phải anh không nên em không gọi. Sao anh ốm quá...

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 14)

Trong những ngày đen hơn mõm chó mực ấy nhiều lần đạp xế lang thang trên những nẻo đường Thành Hồ tôi cũng có nhìn thấy vài người đàn bà trước 1975 có cảm tình với tôi. Tôi có thể ghé xe đạp vào vỉa hè nói chuyện vài câu với các nàng. Nhưng tôi không ghé. Ghé làm gì. Chỉ thêm buồn tủi. Nhan sắc tôi tàn phai thảm thiết quá đỗi. Tôi muốn giấu mặt tôi đi để các nàng đừng nhìn thấy. Hôm nay tôi xin nói rõ: Tôi không hề có hân hạnh được “nịnh bà chủ vila Kiều Trang” như chuyện diễn tả trong NTBKCB. Tự xét thân tôi, tôi thấy dường như cả đời tôi chẳng nịnh, chẳng bốc thơm, chẳng nâng bi qua một người đàn bà nào trên cõi đời này. Ca tụng những nữ nhân vật trong tiểu thuyết thơm hơn múi mít thì có, nhưng ca tụng đàn bà bằng xương, bằng thịt, bằng da, đàn bà có ăn, có ngáo thực sự trên đời này thì không. Nhiều người đọc truyện tôi viết thấy tôi có vẻ vi vút phong tình, nhưng đấy toàn là chuyện tôi phịa ra mà thôi. Tôi là anh đàn ông cơm nhà, quà vợ tầm thường nhất cõi đời này. Quả đáng tội cũng có vài người đàn bà chẳng may dính líu ái tình mí tôi nhưng đó là vì các nàng kiếp trước quỵt nợ tôi nên kiếp này các nàng phải trả. Dzậy thôi. Tôi không hề thả lời ong bướm quyến rũ rủ rê bất cứ người đàn bà nào.

Về nữ minh tinh Kiều Trang thì cái gọi là quen biết giữa nàng với tôi là như vầy: Năm 1956 có hai bộ phim Việt do đạo diễn Phi Luật Tân thực hiện ra đời: Phim “Chúng tôi muốn sống” và phim “Ánh sáng miền Nam“. Những tên tuổi Mai Trâm, Thu Trang, Khánh Ngọc, Lê Quỳnh nổi lên từ hai phim này. Anh Đỗ Bá Thế, Giám đốc hãng phim Đông Phương thực hiện phim “Ánh sáng miền Nam“, nhờ bạn tôi Minh Đăng Khánh, giúp phần quảng cáo trên các báo. Năm đó tôi đang phụ trách cái gọi là Trang Điện ảnh cho nhật báo Ngôn Luận và tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong của chủ nhiệm Hồ Anh.

Gần Tết hay vừa Tết xong, hãng phim Đông Phương tổ chức cuộc Thi Hoa Hậu Đông Phương ở Hội Chợ Quang Trung, Minh Đăng Khánh chở tôi lên hội chợ trên chiếc Lambretta của anh. Hội chợ buổi tối vắng còn hơn chùa Bà Đanh. Khách dự cuộc thi hoa hậu ngồi ngoài trời lạnh thấy mồ. Dự thi hoa hậu chừng mười lăm em. Các em toàn bận áo dài – không hở cổ vì bà Lệ Xuân chưa lăng xê mốt hở cổ, hở vai – có mặc quần đàng hoàng, đi qua đi lại vài vòng, không có mặc áo tắm một mảnh, hai mảnh chi cả. Ta có thể coi đây là cuộc thi hoa hậu thứ nhất ở Sàigòn.

Người về sau trở thành nữ minh tinh Kiều Chinh – người được gọi là Kiều Trang trong NTBKCB – cũng lên đài biểu diễn. Lẽ ra nàng được chọn làm Hoa Hậu Đông Phương, nhưng vì nàng không ghi danh dự tuyển nên Ban Giám khảo trao tặng nàng một giải đặc biệt. Tôi theo Minh Đăng Khánh vào cái gọi là hậu trường quây bằng cót để phỏng vấn nàng đôi câu về đăng báo.

Sau đó nàng bốc lên – không như diều gặp gió mà như phi cơ phản lực – nàng lên hình bìa tạp chí Kịch Ảnh Số Một, đóng phim “Hồi Chuông Thiên Mụ” v.v...và v.v... Thành công với phim “Người Tình Không Chân Tay“, nàng trở thành người cả nước biết mặt, biết tên v.v... và v.v...

Người có tài như cây kim nằm trong bọc chẳng ai bóp cũng thò ra. Người đã có tài mà lại là đàn bà đẹp thì mũi kim của các nàng còn thò ra nhanh gấp bội. Kiều Chinh có tài nên Kiều Chinh nổi. Anh Con trai bà Cả Đọi lục lục thường tài nên anh không nổi, không chìm, anh lình bình vất vả suốt một đời chẳng lúc nào được trội hơn người.

– Khuất Duy, Dương Hùng, Hoàng Hải không bao giờ gọi Đoàn Quốc bằng “cụ”, bằng “bác” cả.

– Hoàng Hải có nhờ Trần Tam Tiệp, với tư cách Tổng Thư ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, liên lạc với mấy nhà xuất bản bên Xê Kỳ đã tái bản vài quyển truyện của y để xin tí tiền cứu đói. Nhờ Tiệp tôi được chi – qua Tiệp – khoảng 400 đô. Trong mấy năm trời, tôi nhận được nhiều lần quà của Tiệp. Nhưng tôi chỉ nhận được phần quà của tôi như anh em có tên trong Danh Sách Con Cá của Tiệp. Khi tôi viết bài gửi sang, Tiệp đưa đăng báo, anh em thường nhờ Tiệp gửi tiền về cho tôi là tôi có tiền riêng mà thôi.

– Trong buổi gặp tối ấy chúng tôi có đọc một thư của Tiệp nhưng thư ấy không phải là lá thư được đăng ở đoạn trên. Thư của Tiệp viết cho chúng tôi có kèm theo một thư tiếng Anh của vị Trưởng ban Writers in Prison Committtee của Ban Chấp Hành PEN Intern gửi cho Tiệp, thư này nói đến chúng tôi.

Tháng Chín 1977 công an Thành Hồ đưa xe bông đến Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, đón tôi đi. Tôi nằm 12 tháng 2 ngày trong hai phòng Biệt giam 15 khu B, phòng biệt giam 6 khu C Một – kỷ lục nằm xà lim có thể là vô địch trong hàng ngũ văn nghệ sĩ Sàigòn kẹt giỏ bị giam ở cái gọi là Trại Tạm Giam số 4 Phan Đăng Lưu – Tháng Mười Một năm 1979 tôi trở về Ngã Ba Ông Tạ. Lần tù thứ nhất này tôi nằm ngâm thơ Ngồi Rù 23 tháng mây bay trong Số 4 Phan Đăng Lưu.

Người bạn tôi gặp lần đầu tiên khi vừa về đến nhà là Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều. Khi ấy Mai Thảo, Hoài Bắc Phạm Đình Chương, Lê Thiệp, Nguyễn Hữu Hiệu – Thiệp và Hiệu sống cùng khu Ông Tạ với tôi – đã vượt biên sang Mỹ. Nhiều bạn tôi bị bắt trước tôi: Thái Thủy, Duyên Anh, Thanh Thương Hoàng, Tú Kếu còn mỏi mòn trong những trại cải tạo. Những ngày tháng đen hơn mõm chó mực ở Thành Hồ cuối 79 tôi chỉ có một người bạn thân là Lê Trọng Nguyễn.

Lê Trọng Nguyễn đi sang Hoa Kỳ với vợ con theo diện đoàn tụ gia đình năm 1983. Gia đình vợ anh bảo lãnh cho con gái và thế là Nguyễn và bốn con đàng hoàng lên máy bay sang Mỹ. Gia đình Nguyễn là một trong số những gia đình đầu tiên đi đoàn tụ gia đình.

Nếu Lê Trọng Nguyễn không đi khỏi Thành Hồ năm 1983 anh đã bị bắt cùng chúng tôi trong đêm 2 tháng Năm năm 1984 hoặc ít ngày sau đó. Chuyện đó chắc hơn đinh đóng cột. Nếu Nguyễn bị bắt cùng chúng tôi, không biết đời anh sẽ ra sao? Khi nhìn thấy nhau xách túi quần áo đứng chờ trước cửa xà-lim, chúng tôi không ai nghĩ đến chuyện hai anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Dương Hùng Cường lại chết trong tù.

Nguyên nhân Lê Trọng Nguyễn – nếu còn có mặt ở thành Hồ tháng Năm 1984 – bị tóm là anh làm một bản nhạc hành khúc. Anh đưa cho tôi và bảo:

– Mày làm lời bài này cho tao. Tao tặng Kháng Chiến Quân...

Tôi nói chỉ có người soạn nhạc lấy thơ phổ nhạc, tôi không thể làm lời nhạc được vì lẽ giản dị tôi mù tịt về âm nhạc, mù tịt luôn cả dương nhạc. Nguyễn làm lời rồi đưa bản nhạc cho tôi gửi sang Mỹ. Tôi đặt tên cho bản nhạc rồi viết thêm vài dòng:

Tiếng hát trở về

Tặng các bạn Kháng Chiến Quân. Nhạc và lời Trung Nhơn.

Trung Nhơn là một nhạc sĩ nổi tiếng của chúng ta từ lâu trước 1975. Hiện ông đang sống ở Sàigòn. Vậy chúng ta cứ tạm biết ông với cái tên Trung Nhơn.

Tôi gửi bản nhạc đi. Năm ấy là năm 82. Thấm thoát vậy mà đã mười mấy mùa lá rụng. Những ngày như lá tháng như mây – Thơ Thanh Nam, – tôi không nhớ tôi gửi cho ai, cho báo nào. Thế rồi Nguyễn đi khỏi Thành Hồ vào cuối năm 1983, đi khỏi đường Nguyễn Minh Chiếu bị đổi tên là Nguyễn Trọng Tuyển, tôi mất thêm một người bạn tốt.

Vào hai giờ sáng ngày 2 tháng 5, 1984, bọn đầu trâu mặt ngựa cháu Bác Hồ, mười mấy tên kéo vào căn nhà nhỏ của vợ chồng tôi. Lực lượng công an đi vồ phản động lần này thật hùng hậu. Hai máy ảnh nháng đèn liên hồi. Ít nhất nội trong đêm ấy chúng cũng phái năm đội như thế đi bắt anh em chúng tôi: Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tự và tôi bị bắt trong cùng một đêm.

Xét nhà tôi chúng tóm được mấy bức thư Nguyễn từ Mỹ gửi về cho tôi. Nhờ có kinh nghiệm vì đã bị bắt một lần tôi cẩn thận cất giấu tất cả những gì tôi viết. Khi ta đã cất đến ông nội chúng nó cũng không tìm thấy. Chỉ vì ta như những em gái trinh hớ hênh, ta để tài liệu khơi khơi trên bàn, bên gối, trên giường, trong tủ nên chúng mới dễ dàng tóm được mà thôi. Chúng vớ được mấy lá thư của Nguyễn vì tôi thấy thư viết chuyện đời sống của Nguyễn và gia đình ở bên Mỹ, toàn chuyện vô thưởng vô phạt nên để thư trong ngăn kéo bàn.

Theo đúng thông lệ và thủ tục thẩm vấn người mới bị bắt vô là bị hỏi liên tiếp trong những ngày đầu. Tôi không chối tội vì tôi thấy tôi không có gì phải xấu hổ vì những việc tôi làm. Hai nữa tôi không chối vì tôi biết có chối cũng vô ích. Khi bắt mình chúng đã định trước mức án. Chối thì mười năm mà nhận thì cũng mười năm. Chi bằng nhận mình hách hơn. Ít nhất mình cũng không hổ thẹn với chính mình. Lý do thứ ba làm tôi dễ dàng khai báo nhận tội là tôi không thích nói dối. Tất nhiên không phải tôi nói dzậy là suốt đời tôi không bao giờ nói dối. Có chứ. Nhưng tôi đã viết: theo tôi thấy qua kinh nghiệm mồ hôi và máu tươi của tôi – mồ hôi vì trong tù đông người nóng quá, máu tươi vì phải đem thân gầy nuôi rệp xuất khẩu thâu ngoại tệ về cho đảng Cộng sản bỏ túi và nằm trần không mùng cho muỗi tha hồ đốt – với Công an cộng sản thì người tù chối hay nhận tội cũng vậy thôi. Thêm nữa tôi dễ dàng nhận tội vì tôi chỉ nhận những cái gì gọi là tội của tôi, tôi không phải khai báo việc làm của anh em tôi. Đây là điều thoải mái nhất cho lương tâm tôi. Những gì tôi biết về việc làm của anh em tôi bọn cớm cộng cũng đã biết. Chúng còn biết về những việc anh em tôi làm nhiều hơn tôi nữa.

Công an Thành Hồ có sách báo của người Việt hải ngoại dễ hơn chúng đớp cơm sườn. Tay sai của chúng ở các nước tư bản mua đủ thứ sách báo Việt gửi về. Chúng chỉ việc nghiên cứu những bài viết tìm xem tên nào đang sống trong vòng kìm kẹp ác ôn của chúng dám liều mạng viết những bài tố cáo tội ác của chúng gửi ra nước ngoài. Huỳnh Thành Trung, tên anh Công an thẩm vấn tôi, mang vào Phan Đăng Lưu chừng năm bẩy tờ tạp chí hải ngoại. Trong những tờ báo này có những bài chúng nghi là do tôi viết. Chúng mang báo vào cho tôi đọc và hỏi rằng có phải bài này do tôi viết không?

Chúng chỉ cho tôi đọc riêng bài nào chúng nghi tôi là người viết. Một trong những lạc thú của những người viết là được đọc những bài viết của mình được in rõ ràng, sáng sủa trên những trang sách báo. Lâu lắm rồi tôi không được hưởng cái lạc thú ấy. Tôi khoái chí đọc từ đầu đến cuối những bài tôi viết được in ở nước ngoài. Và tôi nhận của tôi nếu bài viết đó do tôi viết, tôi nói không nếu bài viết đó không phải do tôi viết. Tôi dùng nhiều bút hiệu dưới những bài ấy: Ngụy Công Tử, Văn Kỳ Thanh, Yên Ba, Con Trai Bà Cả Đọi, Dương Hồng Ngọc, Hồ Thành Nhân, Triều Đông, Hạ Thu v...v... Trên mấy bài chúng nghi tôi là tác giả tôi thấy tên nào đó ghi mấy chữ “H2T?”

Hát Đơ Tê và dấu hỏi. Như vậy là có tên nào đó biết khá rõ về lối viết, về cái gọi là “văn phong, ngôn ngữ” của HHT đã đọc bài viết này và nghi bài đó là của Hát Đơ Tê.

Trong một số báo như thế tôi thấy đăng bản nhạc “Tiếng Hát Trở Về tặng các bạn Kháng Chiến Quân, Nhạc và lời của Trung Nhơn,” đăng nguyên con, đăng y chang. Ông bạn nhà báo nào đó nhận được bản nhạc đã đưa luôn bản viết tay của chúng tôi lên máy chụp luôn, in luôn. Chữ tôi viết lời giới thiệu, chữ Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều Trung Nhơn Rởm lù lù trên trang báo. Còn chối chăng chi nữa. Chối là con nít. Chữ mình viết rõ ràng. Có là con nó thì may ra chối nó để yên, còn là bố nó mà đến nước ấy còn ngang ngạnh chối nó cũng đá cho hộc máu.

Tôi nói:

– Đúng. Bài này tôi viết. Bản nhạc này do tôi gửi đi. Tác giả nó là bạn tôi, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, anh bạn tôi đã sang Hoa Kỳ.

Anh công an nghiêm giọng:

– Anh nên khai báo nghiêm chỉnh. Đừng tưởng cứ đổ hết tội cho người đã ra đi nước ngoài là được đâu.

Tôi chỉ nói:

– Mấy dòng chữ trên bản này là của tôi, những dòng này là chữ Lê Trọng Nguyễn. Các anh đã bắt được thư của Nguyễn ở nhà tôi, so tự dạng là các anh biết ngay chứ gì.

Anh công an thẩm vấn tôi lần tôi bị bắt thứ hai này chưa đầy ba mươi tuổi. Anh sinh trưởng ở Sàigòn, thuộc loại con nhà “gia đình cách mạng”, tức có cha, anh, chú, bác là Việt cộng nên anh được đưa vào ngành công an. Tên anh, bí danh hay tên thật tôi không rõ, là Huỳnh Trung Thành. Tôi thấy tên anh ghi trên biên bản thẩm vấn tôi. Dường như tôi có duyên nợ với những anh công an Việt cộng họ Huỳnh tên Thành. Người thẩm vấn tôi lần trước 77-79 là Huỳnh Bá Thành, lần 84-90 này là Huỳnh Trung Thành.

Trong những buổi thẩm vấn tôi Huỳnh Bá Thành thường ngưng hỏi để trò chuyện với tôi, Huỳnh Trung Thành nói chuyện riêng ít hơn. Anh còn quá trẻ so với tôi, anh không biết gì nhiều để nói. Có lần anh tâm sự:

– Tôi sống ở Sàigòn nhưng các ông anh, bà chị tôi mới biết các ca sĩ Thái Thanh, Anh Ngọc. Tôi không biết.

Xin kể một chuyện bên lề dính dáng đến hai ông Mít nổi tiếng trong giới Mít Dzăng nghệ dzăng gừng hải ngoại nói chung, Xê Kỳ nói riêng. Hai ông đó là ông Lê Văn đài VOA, và ông Đỗ Ngọc Yến nhật báo Người Việt.

Như tôi đã viết hơn một lần: sau 1975 sợi dây liên lạc mong manh duy nhất mà những Anh Con Trai Bà Cả Đọi kẹt giỏ Thành Hồ còn có được với thế giới bên ngoài là những giờ phát thanh tiếng Việt của hai đài VOA, BBC: Vợ Ông Anh, Bà Bán Cam, Bà Bán Cháo. Mỗi ngày chỉ cần nghe hai đài này là chúng tôi có thể yên tâm là mình biết tạm đủ tin tức trên thế giới.

Nhưng cũng có nhiều ông nghiện nghe đài nặng – tiếng đài là do ta bị ảnh hưởng của người miền Bắc xã hội chủ nghĩa: Mua đài, nghe đài, đài nói láo, báo nói sai – ngoài việc chờ nghe hai đài VOA, BBC các ông này còn chịu khó nghe đài Úc. Có thể nói kể từ ngày những đài VOA, BBC bầy ra giờ phát thanh tiếng Việt chưa bao giờ hai đài lại được thính giả Mít chiếu cố nhiều như những năm sau 1975.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 15)

Việt cộng có luật cấm nhân dân nghe những đài phát thanh tư bản. Luật này lâu lâu lại được vẩn vương đem ra đăng lại trên các nhật báo. Nhưng ngơ ngáo vào Sàigòn Việt cộng bị tràn ngập bởi các máy radio. Sàigòn quá nhiều radio Việt cộng kiểm soát không nổi. Việc nghe VOA, BBC trở thành một nhu cầu phải có của nhiều người dân Việt Nam Cộng Hòa thua trận. Những tháng năm đen tối ấy anh Cao Hữu Đính, ông bạn vong niên của tôi, trang bị một máy radio vừa dùng được điện vừa xài được pin. Anh đề phòng những lúc Thành Hồ mất điện anh vẫn nghe được tin và để buổi sáng anh mang radio theo anh vào phòng vệ sinh. Giáo sư Cao Hữu Đính, nguyên giáo sư Phật học Đại học Vạn Hạnh, nguyên Tổng Thư ký Hội Đồng Liên Tôn thời Phật Giáo chống Tổng thống Ngô Đình Diệm, anh đã mãn phần tại Thành Hồ năm 1993. Anh chị có bẩy người con. Tất cả các con của Cao lão gia đều thành đạt và hiện nay ở Canada, Hoa Kỳ và Pháp. Anh Đính chăm nghe radio, nhớ những tin liên can đến Việt Nam để nói lại cho chúng tôi nghe.

Hai ông Mít Ra-đi-ô ở hải ngoại được nhân dân Thành Hồ nhắc nhở đến, hai ông cùng tên Văn, ông Lê Văn Đài VOA, ông Đỗ Văn Đài BBC – Những năm 82, 83 buổi phát thanh Tạp Chí Đông Nam Á chín giờ tối thứ năm trong tuần của Đài BBC được Anh Con Trai Bà Cả đón nghe kỹ nhất. Tối nào có mục đi ăn nhậu viả hè anh đều chăm chăm đạp xế về nhà trước chín giờ tối để nghe Tạp Chí Đông Nam Á. Tối nào vui bạn hay có mồi ngon, rượu tốt không đành lòng nhẩy lên xế đạp trở về nhà để nghe BBC Đông Nam Á được anh tiếc hùi hụi. Một trong những nguyên nhân làm anh đón nghe đài BBC, VOA là để anh có điều kiện bàn tán với thiên hạ. Sáng hôm sau đến tiệm hớt tóc hay quán cà phê vỉa hè, nghe ai nói tối qua Bà Bán Cam loan tin này, tin nọ, anh có thẩm quyền phát biểu: “Hổng phải thế ông ơi. BiBiSi nói như vầy nè...”. Nếu anh không nghe được buổi phát thanh ấy khi thiên hạ bình loan anh bán tín bán nghi.

Ông Văn ra-đi-ô thứ hai là ông Lê Văn. Ông này được bà con cô bác biết tên nhờ mục Âm Nhạc Việt Nam Hải Ngoại VOA. Những năm 1980 nhạc chiến đấu của Việt Dzũng, Nguyệt Ánh đang ở trong vòng hào quang sáng chói nhất. Giờ phát thanh nhạc Việt hải ngoại có nội dung đả kích Việt cộng đến nơi đến chốn. Bởi dzậy Việt cộng rất không ưa ông Lê Văn. Sau khi Hoa Kỳ bang giao với Việt cộng, VOA phái ông Lê Văn làm phát viên VOA ở Hà Nội, Việt cộng đã không chịu cho ông về nước. Trong khí đó thì Đỗ Văn BBC, một Công Tử Hà Đông rất ít khi chịu nhận mình là Công tử Hà Đông, cùng đi với bà Judy Stowe BBC, đã đàng hoàng trở về Hà Nội, Thành Hồ với tư cách đặc phái viên BBC từ những năm 88, 89...

Bà con kẹt giỏ nghe Đài VOA, kể cả những văn nghệ sĩ, chỉ biết Lê Văn là ông Lê Văn. Bỗng dưng tuần báo Tuổi Trẻ, cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh niên Cộng sản Thành phố HCM, đăng một bài đả kích đài VOA, gọi đích danh Lê Văn VOA là ký giả Đỗ Ngọc Yến.

Anh Con Trai Bà Cả từng có hân hạnh được quen biết ông Đỗ Ngọc Yến từ năm nhà ông còn ở gần Ngã Tư Hàng Xanh xa lộ. Ngày 25, 26 chi đó Tháng Tư năm 1975, anh còn gặp ông Đỗ Ngọc Yến ở Sàigòn. Ông và các ông Đỗ Quý Toàn, Lê Tất Điều, Vũ Ngự Chiêu, Phạm Hậu, Phạm Huấn, Thanh Nam v.v... cùng nhiều ông khác dzọt đi thật lẹ. Từ khi tờ Tuổi Trẻ loan tin Lê Văn VOA là Đỗ Ngọc Yến bang chúng Cái bang Saìgòn đều cho là đúng. Chẳng còn ai théc méc gì.

Bị bắt, anh Con Trai Bà Cả Đọi cùng người anh em cùng vợ mí anh là Công Tử Hà Đông không thấy phiền hà gì với những buổi được gọi làm việc, tức là đi chịu thẩm vấn. Cai tù đến dùng sâu chìa khóa đập mạnh vào cửa xà lim – Hán Việt văn huê gọi là Biệt Giam – và gọi: “Hát... Hát... Tê... đi làm việc...”. Phải viết là “được” đi thẩm vấn vì phòng tù xã hội chủ nghĩa, nếu là phòng biệt giam, tức sà-lim thì người tù nằm một mình quá buồn, muốn được ra ngoài cho thỏang khoát, muốn được nói chuyện dù là nói chuyện với kẻ thẩm vấn mình, nếu ở phòng tập thể thì phòng nhồi nhét quá đông người. Bẩn, nóng, ồn ào, hôi thối. Mùi người. Đụng chạm. Đó là những gì có mặt thường trực Vảnh Sít xuya Vảnh Cát ở tất cả những phòng tù Việt cộng nhốt nhân dân thân thương, nhốt những đồng bào của chúng không những chỉ ở Thành Hồ mà là ở khắp nước Việt Nam đau khổ. Được gọi đi thẩm vấn, ít nhất cũng được ra khỏi cái phòng giam bẩn thỉu ấy trong vòng hai tiếng đồng hồ, được ngồi tương đối thoải mái ở một chỗ tương đối vắng người, được công an Việt cộng mời hút thuốc lá Mai, Vàm Cỏ v.v...

Trong một buổi thẩm vấn thường lệ khoảng Tháng 8 năm 1984 anh công an Huỳnh Trung Thành mở cặp lấy ra quyển sổ bìa đen. Anh để một tấm các nửa trong nửa ngoài trong sổ, phần tên tuổi người trong tấm các được che đi, chỉ cho tôi thấy tấm ảnh căn cước cỡ cát-xít. Thành hỏi tôi:

– Anh biết ai đây không?

Tôi nhìn ảnh. Tôi gặp người trong ảnh này cuối tháng Tư 1975. Bi giờ là tháng Sáu 1984. Thấm thoát dzậy mà đã chín mùa lá rụng. Tôi tưởng như tôi mới gặp ông ấy có ngày hôm qua. Tuy không được giao du thân mật với ông nhưng tôi không làm sao quên được dung nhan của ông. Ông trán cao, tai lớn, mặt vuông cương nghị. Đặc biệt ông có cặp kính trắng cận thị hơi dầy nên trông rất trí thức. Chắc hơn bắp là mình nói đúng, mình cũng là tay kha khá ở Sàigòn vì mình quen biết nhiều người quan trọng, tôi trả lời:

– Nếu tôi không lầm thì đây là ảnh anh Đỗ Ngọc Yến...

Và để lấy điểm tôi tự khai báo thêm:

– Anh này hiện ở Mỹ. Nghe nói anh ta là Lê Văn đài Vê-Ô-A.

Huỳnh Trung Thành gật đầu:

– Anh nói đúng đấy.

Tấm các được lấy ra cho tôi xem. Chẳng cần nhìn tên tôi cũng biết đó là Đỗ Ngọc Yến. Đây là tấm phiếu lý lịch của anh khi anh khai lấy thẻ căn cước hay xin thứ giấy tờ gì đó ở trong hồ sơ Tổng Nha Cảnh sát của ta.

Tôi có tật viết vòng vo và quý bạn đọc vừa thấy tôi biểu diễn một đường Lăng Ba Vi Bộ vi vút.Ý định của tôi khi ngồi vào bàn gõ máy chữ Olympia mang theo từ Ngã Ba Ông Tạ, Thành Hồ đến Virginia Rừng Phong A Linh Tôn là viết về Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều, và về một người đã thương xót, đã giúp đỡ an ủi khuyến khích, làm cho trái tim vợ chồng, bố con tôi, kể cả trái tim thằng cháu ngoại của tôi ấm lại.

Năm 1980 từ số 4 Phan Đăng Lưu trở về Ngã Ba Ông Tạ, gặp lại Dương Hùng Cường – anh đi cải tạo trở về khoảng năm 1979 – Cường bảo tôi:

– Trần Tam Tiệp, không quân, tức Đạo Cù, Con Ong, hiện là Tổng Thư ký Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, ở Paris, có gửi thuốc về cho anh em. Tôi đã cho Tiệp biết ông mới về, địa chỉ ông, kỳ quà tới thế nào ông cũng có đấy.

Tôi gặp Lê Trọng Nguyễn, Nguyễn nói:

– Có cô Phương Hương ở Pháp gửi thuốc về chi viện văn nghệ sĩ. Tao có báo cho cô ấy biết tin mày. Địa chỉ của cô ấy đây. Mày nên viết cho cô ấy...

Thế là tôi được ghi tên vào hai sổ Con Cá Nó Sống Vì Nước Ngoài, sổ Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại kiêm Văn Bút Quốc Tế của Trần Tam Tiệp, Sổ Quan Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ Cứu Nạn của cô Phương Hương. Khi gửi thùng thuốc cho Lê Trọng Nguyễn, cô để tên người gửi là Lê Thị Phương Hương, trên thùng thuốc gửi cho tôi cô đề tên người gửi là Hoàng Thị Phương Hương. Gửi quà cho ai, cô lấy tên họ người ấy. Tôi chắc trên thùng thuốc cô gửi cho Mai Tuyết An, vợ Lý Đại Nguyên, cô để tên người gửi là Mai Phương Hương.

Trong những năm đen tối, tuyệt vọng ở Thành Hồ, tôi may mắn được khá nhiều người gửi đồ, gửi tiền về cứu trợ. Bà Dì tôi và các em tôi không kể, cô Phương Hương là một trong những người thương xót vợ chồng chúng tôi nhất. Tôi chắc với tất cả mọi người – những chúng sanh lặn ngụp trong bể khổ cõi Ta Bà – cô Phương Hương đều có tấm lòng vị tha như thế. Tôi được biết tên cô là Cao Ngọc Phượng, sinh quán Bến Tre, nữ bác sĩ. Cô là Phật tử thuần thành, đệ tử của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh. Tôi gửi một số bài viết của tôi sang cô. Hai bài của tôi được đăng trong tuyển tập “Tắm Mát Ngọn Sông Đào” do nhà xuất bản Lá Bối ấn hành ở Paris năm 1982.

Tắm Mát Ngọn Sông Đào được lấy ra từ bài Sẩm Xoang của tôi:

Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Đôi tay anh vín đôi cành
Quả chín anh hái quả xanh anh vồ
Năm sáu năm nay anh ăn ở Thành Hồ
Cơm nhà quà vợ nửa rồ anh lại nửa điên
Sống quẩn quanh ngày tháng nó nặng chiền chiền
Ngày rơi ngày muộn, đêm phiền theo đêm
Nhưng mà em ơi... Anh ngẫm cái thân anh đến giờ này anh còn nệm ấm, giường êm.
Vợ thương, con thảo, anh còn rên cái nỗi gì
Bạn bè anh như lá đài bi
Đứa thì dãi nắng, đứa thì dầm sương
Thằng sông Vô Định phơi xương
Thằng thì con vợ nó phú lỉnh một đường sang sông
Thơ xanh anh chép giấy hồng
Lúc hèn thì đến Quận Công cũng hèn.
Nói gì rằng đỏ, rằng đen.

Được cô Phương Hương thương xót, cứu trợ và đối xử chân tình, tôi chăm chỉ viết thư cho cô, kể linh tinh đủ thứ chuyện trong nhà, ngoài xã hội. Ngoài việc cứu trợ bằng phẩm vật, nâng đỡ tinh thần bằng những lời thăm hỏi, cô còn giúp vợ chồng tôi nhiều nữa qua những việc cô làm mà cô không nói, như trình bày trường hợp của tôi với những tổ chức nhân đạo quốc tế để xin họ giúp đỡ, xin họ can thiệp cứu tôi, lên tiếng đòi trả tự do cho tôi.

Tháng Năm 1984. tôi bị bắt lần thứ hai. Năm mùa lá rụng ngồi tù nhìn nắng chiếu, mưa rơi ngoài song sắt phòng tù tôi mới được gần Alice vảnh cát xuya vảnh cát ở trại Cải tạo Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai, Alice kể:

– Cô Phương Hương tội lắm. Anh bị bắt rồi, thư đầu cô ấy gửi về cho con Giang. Cô ấy viết: “... Giang... con ôm chặt lấy Má cho cô...”

Năm 1989 Doãn Quốc Sĩ và tôi ở trại Z30A , cô Phương Hương nhờ một nữ đệ tử về thăm quê hương đem tiền cứu trợ đến tận nhà cho chúng tôi. Nữ phật tử này cũng theo các vị sư sãi chùa Già Lam lên trại Z30A thăm các vị Thượng Tọa Thích Đức Nhuận, Đại Đức Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Trí Siêu Lê Mạnh Thát và thăm gặp mặt cả hai anh em Biệt Kích Văn Nghệ ở tù ở trại này là anh Doãn Quốc Sĩ và tôi.

Năm 1990 lần thứ hai tôi từ nhà tù cộng sản trở về mái nhà xưa. Cuộc liên lạc bằng thư từ giữa cô Phương Hương với tôi không còn được thường xuyên như trước 1984. Cô cho biết cô đã xuống tóc, trở thành Ni Sư, pháp danh là Chân Không, cô thường đi Ấn Độ, Tích Lan đi khắp nơi học và thuyết pháp. Cô chuyên vào việc tu hành. Việc quyên góp và cứu trợ đồng bào trong nước trong tổ chức Phật tử tự nguyện của cô được cô trao cho người khác.

Tháng Chín năm 1995, Thiền sư Nhất Hạnh sang Hoa Kỳ trong một chuyến đi hoằng pháp. Ni sư Chân Không ở trong đoàn tháp tùng. Cô Chân Không phone cho tôi khi cô theo Thầy đến Washington D.C. Cô mời tôi lên D.C. dự cuộc nói chuyện của Thầy. Người ta đến nghe phải mua giấy vào cửa, tôi đến nghe free.

Hai ngày sau, Thiền sư thuyết pháp ở Arlington. Vợ chồng tôi lại được gặp cô. Lần này vợ chồng chúng tôi được nói chuyện với cô lâu hơn. Cô đến phòng hội trước để chuẩn bị, sắp xếp cuộc thuyết pháp. Vợ chồng tôi đón cô trên đường cô đi vào hội trường. Gặp chúng tôi cô hỏi ngay:

– Kiều Giang hồi này sống ra sao? Con nó năm nay mấy tuổi rồi?

Trích “Những tên Biệt kích cầm bút

Chỉ vài ngày sau khi Đoàn Quốc nhận được giấy xuất cảnh thì hầu như những người quen biết cũ trong làng văn, làng báo trước đây cũng đều biết tin. Lâu nay, ít ai nhắc đến ông ta. Điều đó cũng dễ hiểu thôi vì từ trước ông ta vẫn chuộng lối sống “ẩn dật” khá khác biệt với các đồng nghiệp.

Ngoài nghề viết văn, ông ta còn là nhà giáo, ảnh hưởng sâu đậm Nho giáo và của văn học Pháp, về sau này tốt nghiệp môn giáo dục học ở Đại học California. Ông ta còn nghiên cứu về Thiền và là bạn thân với các nhà sư tiếng tăm.

Tất cả những khuynh hướng văn học, triết học có vẻ trái khoáy với nhau tập hợp lại tạo thành tính cách riêng, mặt này bổ sung mặt kia, khiến cho các đồng nghiệp và độc giả của nhà văn Đoàn Quốc thấy ở ông một tổng hợp nhiều màu sắc và có sức thuyết phục!

Cái vẻ nho nhã bên ngoài khiến cho một số người coi đó là “tính truyền thống” của văn hóa Việt Nam. Điều khác là “nhà nho” Đoàn Quốc không có khăn đóng, áo dài mà khoác bộ cánh của văn chương lãng mạn Pháp và những đường nét kỷ hà của văn minh Mỹ ngang ngay sổ thẳng, chính xác và thực dụng. Vì vậy, trong văn chương và cả trong cuộc sống ai theo thị hiếu nào đều cũng có thể tìm thấy cái nhìn ưa thích nơi Đoàn Quốc. Vì chính màn khói ảo giác ấy đã đưa Đoàn Quốc lên vị trí đàn anh trong thứ trật tự “chiếu trên, chiếu dưới” trong làng văn Sàigòn trước đây.

Thế mà nay mai ông ta sắp đi cùng đám con lai Mỹ, cùng với các cụ già, cháu bé... được Nhà Nước cho phép xuất cảnh để “đoàn tụ gia đình”. Sự thật là vậy. Theo đúng chính sách, ông ta ra đi theo diện người ngoài tuổi lao động, già yếu, được con cái bảo lãnh, chứ không hề với tư cách một nhà văn. Ấy thế mà lại có tin đồn, ông ta được “một tổ chức nhân quyền quốc tế” nào đó can thiệp để ra đi với tư cách là một nhà văn “không thích nghi với chế độ cộng sản”! Cái tin vịt ấy kể ra cũng có xuất xứ của nó. Một vài tờ báo lá cải của nhóm lưu vong phản động bắt đầu làm rùm beng, coi việc ra đi của Đoàn Quốc như là thành tích “đấu tranh” của chúng buộc “nhà cầm quyền cộng sản” phải nhượng bộ!

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 16)

Trích NTBKCB, tiếp theo:

Thế đấy, nhưng nghe ai bàn tán đến việc này, Đoàn Quốc cũng không thanh minh, mặc ai hiểu thế nào cũng được. Được phép xuất ngoại, ông ta càng tính toán tương lai. Cũng chính trong thời gian đó, ông ta được bạn bè cũ ở nước ngoài báo cho biết số tác phẩm cũ của ông được tái bản ở Mỹ, lại có người hứa can thiệp để nhà xuất bản ấy trả tiền bản quyền cho ông ta. Hàng chục nghìn đô la đâu phải dễ kiếm với người đã ngoài sáu mươi như ông ta. Rồi đến lượt “Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” gửi thư chúc mừng ông ta sắp được “tự do”, hứa hẹn sẽ đón tiếp ông ta như một hội viên danh dự.

– Té ra, người ta vẫn còn nhớ đến mình như ngày nào! – Đoàn Quốc tự nhủ – Thế mà lâu nay, chính ta lại quên lãng ta. Trong đêm tối mặt trời vẫn tồn tại!

Chính vì tự thấy mình vẫn “tồn tại” với tư cách một nhà văn mà Đoàn Quốc đã nhận lời và báo tin cho nhiều đồng nghiệp cũ đến nhà Kiều Trang, dự buổi họp mặt với các đồng nghiệp cũ. Vốn không thích ồn ào, ông ta lặng thinh khi cuộc họp chính thức hôm ấy bắt đầu, nhưng cũng từ đấy, trong đầu ông nẩy sinh ra bao dự tính khiến ông trằn trọc, nôn nao như đang thai nghén một tập truyện dài. Đúng ra Đoàn Quốc rạo rực với tập truyện “Dấu chân cát xóa” của ông ta viết từ năm 1972 đến 1974 và bản thảo đã được chữa xong ngày 16 tháng 5 năm 1975 – nửa tháng sau ngày thành phố được giải phóng. Tập bản thảo dấu trên trần nhà được lôi xuống. Ông ta chong đèn đọc mấy đêm liền, trân trọng như đọc tác phẩm của một văn hào!

Tháng ngày lùi xa tít tắp như cuối trời sa mạc. Tìm lại những dấu chân mình đã bị cát xóa. Bỗng thấy bầu trời “Springfield” – cánh đồng mùa xuân ấy – gần gũi trong xanh mà Chương – nhân vật trong truyện của ông ta – đã trở lại. Nơi ấy, những năm tháng sau khi giải ngũ, Chương đã sang du học và tốt nghiệp Ph.D. Nơi ấy Martha đã đến với Chương như một quà tặng của tự do. “Tôi sẽ dùng xe buýt đi dọc theo xa lộ qua các tiểu bang New Mexico, Arizona, Nevada và nhất định tôi sẽ đến Los Angeles qua Thung lũng Tử thần (Chương nhấn mạnh). Yes, Death Valley, I said” con lừa nhỏ của chàng Tappan.

Chàng Tappan đi qua thung lũng Tử thần dưới ánh nắng chói lòa trên sa mạc cát bỏng. Những tia nắng đã thực sự biến thành những mũi kim xiên thấu da thịt. Nhớ lúc Tappan chịu cơn bão táp giết người về đêm, chết ngất trên lưng lừa. Thế mà Tappan cũng lên được đỉnh núi tuyết và sống bốn mùa êm ả trên đó. Thế rồi, giờ của định mệnh đã điểm. Tappan đã cứu được con lừa Janet qua khỏi cơn bão tuyết, đưa nó từ đỉnh núi băng giá xuống thung lũng mượt xanh. Con lừa được ăn cỏ và sống, còn chủ nó đã chết vì kiệt sức.

“Mình là con lừa Janet hay là chàng Tappan?” Đoàn Quốc băn khoăn tự hỏi. “Mình sẽ vượt qua thung lũng của sự chết – cái đất nước khốn khổ này. Mình đến được đó là đủ rồi. Rồi ra sao thì ra, miễn là thoát được cơn bão khốn kiếp này. Là con lừa Janet may mắn hay chàng Tappan xấu số cũng được.”

Martha! Martha. Bên kia bờ sông có tiếng vọng lại “Martha! Martha”. Con sông tâm tưởng. Chương lúc đó đang ngồi ngửa mặt nhắm mắt lười biếng trên chuyến xe buýt liên tiểu bang – Con sông xuân tràn đầy chảy lênh láng, màu nước biêng biếc như tóc mềm (tóc Martha) gặp gió xõa trên bờ vai. Chương biến thành gió, luồn tay vào mái tóc đó, bàn tay vô hình mơn man êm dịu... Springfield – cánh đồng mùa xuân – thủ phủ của Illinois thật hữu tình và có tính cách tiền định.

Đến Springfield để trả món nợ tình... Thời gian, không gian giờ đây là của hai người. Chương nghiêng đầu sát tới nói thầm bên tai Martha:

– The closer I get, the better you look.

Chàng có một cử chỉ “nhào đại”, muốn hôn lên miệng Martha...

– A... a... a... a...

Chương tìm lại hương vị thơm đắng của cà phê trên môi Martha, một bàn tay Chương xoa lên bờ vai rồi vòm ngực tròn trịa của nàng

– Về nhà đã Chương, Martha van vỉ.

Chương lắc đầu giữ chặt lấy nàng, không đáp. Martha cảm thấy những ánh sao lóe sáng rụng lả tả... rụng lả tả trên khắp vùng da thịt...

... ...

Đoàn Quốc tiếp tục đọc hơn trên hai trăm trang bản thảo. Như trở về chốn cũ. Anh gặp lại người xưa. Ngỡ ngàng như quen thuộc, gần gũi mà xa xôi. “Dòng sông tâm tưởng. Martha, Martha!” Tiếng vọng từ bên kia dòng sông, hay từ bên kia đại dương, của quá khứ nhạt nhòa đứt đoạn.

Ngoài đường đã bắt đầu tiếng xe chạy. Tiếng xích lô máy nổ lẻ loi, vang động. Đoàn Quốc nghe cột sống lưng tê cứng, nhưng không thấy buồn ngủ. Châm bình trà mới, đốt một nén hương đuổi muỗi. Bẩy năm rồi đã ngủ triền miên để thức trọn đêm nay. Để thấy lại bầu trời. Cánh đồng mùa xuân và Martha, thung lũng tử thần và anh chàng Tappan tội nghiệp.

Gần sáng, Đoàn Quốc nẩy ý định viết tiếp “Dấu chân cát xóa“. Chương trở về nước làm giáo sư kiêm nhà văn. Lúc giải phóng Sàigòn, hắn ta bị kẹt lại đi học tập cải tạo. Bẩy năm qua chẳng là tấn bi kịch của cuộc đời được tiếp nối đó sao? Mặt trời đã lặn, nhưng mặt trời không tắt hẳn. Nó sẽ mọc lại vào bình minh hôm sau. Tappan đã vượt qua Thung lũng Tử thần nóng bỏng, chết chóc để lên tận đỉnh non cao bốn mùa êm ả. Dẫu là đêm, nhưng mặt trời vẫn tồn tại...”Đường lên mặt trời” – Đoàn Quốc đã chọn để làm tựa đề cho chương tiếp của “Dấu chân cát xóa“.

Trên đây là một phần chương IV-NTBKCB. Nhân vật chính của chương này là giáo sư – nhà văn Đoàn Quốc. Trong số năm tên chúng tôi bị gọi là “Những tên Biệt kích cầm bút”, Đoàn Quốc là người được diễn tả đời tư với những lời tương đối sạch sẽ, tử tế nhất. Không chỉ những giới thiệu đàng hoàng mà thôi dường như hai anh cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên còn có vẻ thán phục và đề cao Biệt kích Đoàn Quốc. Kể từ 1954 – trước đó bỏ, ta chỉ tính sổ bụi đời từ năm 1954 – đến năm nay 1996 là 42 mùa thu lá bay ông Đoàn Quốc dậy học, viết văn, in sách, đi tù ở Sàigòn nói riêng và trong nước nói chung, rồi ra hải ngoại, định cư ở Houston, Texas, hai ông bà được mời đi khắp nơi gặp lại bạn hữu v.v... Suốt 42 mùa thu đó ông Đoàn Quốc không bị một lời chỉ trích, chê bai, kể cả xuyên tạc, vu khống, ghen tị, bới lông tìm vết, móc lò bậy bạ. Ngay cả đến đại tá công an Việt cộng khi viết về người tù Đoàn Quốc cũng viết với những lời lịch sự như ta vừa thấy. Trong khi ấy, thì bốn tên văn nghệ sĩ Khuất Duy, Dương Hùng, Trần Ngọc Thự, Hoàng Hải cùng được xe bông công an thành Hồ đến tận nhà rước đi trong một đêm với ông Đoàn Quốc bị diễn tả như những tên lưu manh, láu cá, đá cá lăn dưa hết sức tồi tệ. Khốn nạn nhất là anh cu Hoàng Hải. Anh này không những bị chửi về đời tư bê bối mà thôi, bọn bắt giam và viết về anh còn lôi cả ông ngoại anh vào những trang NTBKCB.

Tác phẩm Dấu Chân Cát Xóa của Doãn Quốc Sĩ đã được ấn hành ở hải ngoại. Tháng Năm 1995 anh chị Doãn Quốc Sĩ đến thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Trong sáu niên tù đầy lần thứ hai tôi ở chung phòng với Trí Siêu Lê Mạnh Thát năm năm, chung phòng với Doãn Quốc Sĩ hai năm. Không một lần nào chúng tôi hẹn nhau, dù chỉ là hẹn đùa cho dzui: “Chúng ta sẽ gặp nhau ở Mỹ...”. Dzậy mà... định mệnh an bài... Nàm thao em piết...!

Tôi không hay đọc tác phẩm của người viết cùng thời. Trước năm 1975, tôi chỉ đọc những quyển “Tình cao thượng, Mối tình mầu hoa đào, Hòa bình, nghĩ gì, làm gì?” của Nguyễn Mạnh Côn, Thương Nhớ Mười Hai của Vũ Bằng. Những ngày u buồn trống rỗng, đen tối khủng khiếp sau Ba Mươi tháng Tư 75 quẩn quanh trong căn nhà nhỏ, không có việc gì làm, không biết đi đâu, tôi lấy sách cũ ra đọc. Vớ được quyển “Sầu Mây” của Doãn Quốc Sĩ trong tủ sách, tôi nằm đọc “Sầu Mây“.

Năm 1981, anh Sĩ từ trại cải tạo Gia Trung Pleiku-Kontum trở về. Tôi gặp lại anh ở nhà anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt. Tôi nói với anh:

– Trong “Sầu Mây” cái đoạn nhân vật chính, anh chàng gì đó, sang Mỹ du học, làm tình với em đầm Mỹ, anh tả: “Lúc ấy chàng cảm thấy như nước tình yêu chan hòa trên mặt các lãnh tụ của cả hai miền Nam Bắc...” Tôi thấy hơi quá đáng. Hai nữa, theo tôi nghĩ, thằng đàn ông nào đến giây phút ấy còn bị ám ảnh về chuyện chính trị thì đó là tên khổ sở nhất đời.

Nhà mô phạm tả chuyện đàn ông, đàn bà làm tình rạo rực, rộn rịp mê ly đâu có kém gì những nhà văn nữ. Bằng chứng như ta đã thấy. Công an Việt cộng khi trích “Dấu chân cát xóa” đã bỏ qua những đoạn có tư tưởng chính trị để trích đoạn nhân vật Chương trở lại Springfield, Illinois, với đầm Mỹ Martha. Anh Con Trai Bà Cả Đọi xin chiếu lại hầu quý vị đoạn phim này:

Martha! Martha. Bên kia bờ sông có tiếng vọng lại “Martha! Martha”. Con sông tâm tưởng. Chương lúc đó đang ngồi ngửa mặt nhắm mắt lười biếng trên chuyến xe buýt liên tiểu bang – Con sông xuân tràn đầy chảy lênh láng, màu nước biên biếc như tóc mềm (tóc Martha) gặp gió xõa trên bờ vai. Chương biến thành gió, luồn tay vào mái tóc đó, bàn tay vô hình mơn man êm dịu... Springfield – cánh đồng mùa xuân – thủ phủ của Illinois thật hữu tình và có tính cách tiền định. Đến Springfield để trả món nợ tình... Thời gian, không gian giờ đây là của hai người. Chương nghiêng đầu sát tới nói thầm bên tai Martha:

– The closer I get, the better you look.

Chàng có một cữ chỉ “nhào đại”, muốn hôn lên miệng Martha...

– A... a... a... a...

Chương tìm lại hương vị thơm đắng của cà phê trên môi Martha, một bàn tay Chương xoa lên bờ vai rồi vòm ngực tròn trịa của nàng

– Về nhà đã Chương, Martha van vỉ.

Chương lắc đầu giữ chặt lấy nàng, không đáp. Martha cảm thấy những ánh sao lóe sáng rụng lả tả... rụng lả tả trên khắp vùng da thịt...

Năm 1970 Nhật báo Sống của anh Chu Tử đang ở giữa thời kỳ phồn vinh nhất trong cuộc sống ngắn ngủi của nó. Năm ấy ngoài truyện võ hiệp Kim Dung như các báo khác, Sống đăng truyện dài nơi trang trong của Nguyễn Thụy Long, Hoàng Ly, Anh Hợp, Hoàng Hải Thủy. Báo Sống bán được có tiền, anh Chu Tử tăng cường hai cây bút nặng ký: Nguyễn Mạnh Côn và Bùi Giáng.

Anh Côn viết loạt bài không hẳn là khảo luận, không ra luận thuyết mà cũng không phải là tiểu thuyết, dưới cái tên long trọng là “Tuyên ngôn của Tình Yêu và Ánh Sáng”. Anh Bùi Giáng viết tiểu thuyết võ hiệp. Anh Chu Tử có cái hay là khi anh đã nhờ ai viết cho báo anh thì người đó hoàn toàn tự do muốn viết gì thì viết, anh không bao giờ can thiệp vào việc viết của anh em. Thi sĩ Lá Hoa Cồn, người có câu thơ bất hủ tả trong một đêm mà “... Cồn lê lên miệng đến ba bốn lần” – Một hai lần chắc còn ngắc ngoải được, một đêm mà đến ba bốn lần chắc chết – người từng dịch “Antoine et Cléopatre” ra “Sương Tì Hải”, viết tiểu thuyết võ hiệp không giống ai, anh dùng rất nhiều tiếng “tồn liên, liên tồn” trong truyện. Kể cả bọn tôi, bọn thợ viết, đọc truyện anh đăng trên báo Sống cũng chịu không biết anh tả chuyện gì, nhân vật nói với nhau lời gì, ân oán ra sao.

Tôi có dịp gần anh Nguyễn Mạnh Côn khá nhiều. Trong số những người trẻ từng gần anh Côn như Nguyễn Đình Toàn, Trần Dạ Từ, Duyên Anh chỉ có tôi là người cùng đăng lính Cô Ba với anh Côn. Tôi dám nói chắc mà không sợ mấy ổng kiện là những ông văn nghệ sĩ lớn như các ông Nguyễn Mạnh Côn, Bùi Giáng, Chu Tử, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, kể cả hai ông thi sĩ mần thơ Tình Yêu vi vút nhất là Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng... đều là những ông đàn ông ít biết về đàn bà nhất và biết ít đàn bà nhất... Xin nói rõ: biết ít đàn bà nhất. Ông nào cũng vừa mới mười chín, đôi mươi là có vợ hiền, suốt đời cơm nhà, quà vợ. Dzậy mà kể cũng lạ và cũng hay: các ông vẫn viết về tình yêu và đàn bà loạn cào cào.

Tôi chịu khó đọc những bài “Tuyên ngôn vềTình Yêu và Ánh Sáng” của anh Côn đăng trên báo Sống. Một sáng tôi gặp anh đến tòa báo, tôi bảo anh:

– Ông ơi...Ông làm ơn viết “Tình Yêu Ánh sáng” cẩn thận giùm con một tí...

Đa số người viết thích thú khi gặp người đọc mình – khen càng tốt, chê, chỉ trích cũng được. Miễn là có đọc mình – chê đúng thì nghe, bậy bạ bỏ qua – Anh Côn tỏ ra hào hứng nghe tôi phê bình những gì anh viết. Muốn phê phán văn anh ngoài việc đọc anh người phê còn phải có công lực kha khá. Trong bài Nguyễn Xuân Hoàng phỏng vấn anh Côn đăng trong Nhật báo Công Luận – khoảng năm 1968-69 – anh Côn có nói: “Trong số những người trẻ tôi vẫn mến và cho là viết được, tôi không ngờ Hoàng Hải Thủy lại là người đọc tôi kỹ nhất...”

Khi nghe tôi nói câu trên về “Tình Yêu và Ánh Sáng” tại xe cà phê-nước ngọt trên vỉa hè trước cửa tòa soạn báo Sống – Nhà in Tường Anh đường Gia Long – Anh Côn hỏi tôi:

– Chuyện gì thế?

– Ông đưa ra mấy cái đền gì đó ở Ấn Độ có cả mấy trăm bức tượng nam nữ mần tình đủ kiểu, ông kết luận: “Tại dân Ấn biết cách làm tình nên họ thông minh!” Ông viết thế là thế nào? Tại vì họ biết làm tình nhiều kiểu cho khoái lạc nên họ thông minh hay vì họ thông minh nên họ biết cách làm tình? Ông viết như thế bọn trẻ nó đọc ông, nó sẽ thấy muốn thông minh nó phải làm tình thật nhiều, làm đủ kiểu. Làm tình như thế nó sẽ trở thành thằng điếm đực chứ không thể trở thành người thông minh.

Anh cười:

– Được rồi. Ông nói thế tôi cũng biết thế. Tôi không nhớ tôi có viết đúng như ông nói hay tôi viết khác. Tôi về đọc lại rồi sẽ nói chuyện với ông...

Tôi định nói: “Cả đời anh chỉ biết có mỗi một người đàn bà thôi mà anh cứ viết bừa tăng tít về đàn bà...” nhưng sợ câu đó quá hỗn, tôi nói một câu nhẹ hơn:

– Anh chẳng biết đ... là cái gì mà anh cứ viết loạn cào cào về đ...

Sáng nay, một buổi sáng hai mươi sáu mùa lá rụng sau buổi sáng năm 1970 tôi gặp anh Côn ở trước cửa tòa soạn báo Sống, ngồi viết ở Rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Đốn, tôi thấy hiện lên trong tôi ánh mắt sau làn kính cận và miệng cười vui của anh Nguyễn Mạnh Côn. Rồi tôi thấy hiện lên hình ảnh của anh trong Nhà Giam Số 4 Phan đăng Lưu năm 1977: buổi sáng chủ nhật, khoảng 10 giờ, cai tù mở cửa phòng cho tù nhân ra sân ngồi phơi nắng chừng nửa tiếng. Từ sà-lim nhìn ra qua ô cửa gió tôi thấy anh Côn ngồi bên lối đi, anh bận bộ đồ ngủ nâu. Đó là hình ảnh cuối cùng của anh trong ký ức tôi. Vài ngày sau anh Côn bị đưa lên trại cải tạo Xuyên Mộc và anh chết ở đó.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 17)

Trích “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút

Cuộc họp giao ban thường lệ buổi sáng của Ban An Ninh công an thành phố. Chỉ huy các đơn vị trực thuộc đã đông đủ. Màn che tấm bản đồ thành phố đóng khung trải gần kín cả bề mặt vách tường được kéo ra. Cán bộ tham mưu thuyết trình về những diễn biến mới nhất trong hai mươi bốn giờ qua.

Chỉ huy trưởng lắng nghe. Bản báo cáo ngắn gọn. Thông thường đồng chí sẽ phát biểu một số vấn đề rút ra từ tình hình được phản ánh và ra những chỉ thị cần thiết. Cuộc họp chỉ kéo dài 15 phút.

Sáng hôm ấy cũng vậy. Nhưng khi chỉ huy các đơn vị rời phòng họp thì đồng chí Tư Tuân, phụ trách đơn vị chống phá hoại tư tưởng được mời ở lại.

Chỉ huy trưởng rút từ trong ngăn kéo ra một xấp báo lá cải của bọn phản động lưu vong in ở nước ngoài để trên bàn.

– Anh Tư đã xem mấy thứ này chưa?

– Dạ có. Tôi vẫn nhận được thường xuyên nhưng... Tư Tuân định hỏi “có vấn đề mới gì không?” nhưng anh thấy câu hỏi ấy thừa, bởi chỉ huy trưởng đã mời ở lại, hẳn phải có “vấn đề” cần trao đổi. Vì vậy anh bỏ lửng câu nói, nhìn đồng chí cấp trên của mình, chờ đợi.

– Tôi biết. Mấy thứ giấy lộn này có đáng gì, nhưng đó là khói của đốm lửa cần dập tắt. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải chú ý tới nó.

– Vâng, Tư Tuân vừa nói, vừa lắc đầu – Thú thật với anh, tôi chán ngấy mà vẫn phải đọc. Anh em Việt kiều về thăm quê hương cũng nói với tôi, họ chẳng bao giờ thèm để mắt tới món hàng ôi đó! Thế nhưng những tên bồi bút đã nhẵn mặt và số em út mới ngoi lên lại vẫn sản xuất ra những món hàng này để lên dây cót tinh thần lẫn nhau, gây ảo tưởng cho nhau. Chỉ một số người di tản bị lừa bịp, còn đa số những người khác không xa lạ gì với những lời dối trá ấy. Đọc những thứ ấy giống như phải mổ một xác chết thối rữa để giám định y khoa. Chán thật.

– Ừ. Chán thật. Kể ra, ta đâu có lạ gì chúng nó.

Đột nhiên đồng chí chỉ huy trưởng đặt một câu hỏi mà thoạt nghe, tưởng đâu như ngoài đề câu chuyện đang trao đổi:

– Anh Tư còn nhớ vụ áp phe Martine Bokassa năm nào chớ?

Nghe người chỉ huy hỏi. Tư Tuân sực nhớ câu chuyện cũ mà báo chí Sàigòn thời ngụy đã đăng tải dài dài, nhưng anh chưa hiểu đồng chí chỉ huy trưởng của mình nhắc lại câu chuyện giật gân ấy với dụng ý gì.

Bokassa nguyên là một trung sĩ trong quân đội viễn chinh Pháp. Những năm sống ở Việt Nam, trong những mối quan hệ “nhân tình” ông đã gửi lại Sàigòn một đứa con gái. Pháp bại trận ở Điện Biên Phủ, Bokassa trở về quê hương. Một thời gian sau, ông được bầu làm Tổng thống nước Cộng hòa Trung Phi. Nhớ đến giọt máu còn để lại ở Việt Nam, ông ngỏ ý nếu ai tìm ra và đưa được người con gái của ông về Trung Phi ông sẽ hậu tạ.

Như vớ được một món bở, sứ quán một nước tư bản ở Sàigòn, lúc bấy giờ đã tìm một cô gái lai da đen đưa sang Trung Phi và bảo đó là con của vi đương kim Tổng thống nước này. “Sứ giả” được đón tiếp nồng nhiệt và trả công rất hậu. Người con gái da đen xấu số đang sống lam lũ ở một xóm nhà lá của Sàigòn, nghiễm nhiên trở thành “ái nữ” của một Tổng Thống. Báo chí gọi cô ta là Công chúa Lọ Lem của thời đại.

Ít lâu sau, bọn CIA lại tìm một cô gái da đen khác với đủ bằng chứng khẳng định cô Martine Bokassa thứ hai đó là con gái của Tổng thống Bokassa. Việt Định Phương, chủ nhiệm tờ báo Trắng Đen, cầm đầu phái đoàn nhận lãnh “sứ mạng” đưa cô gái ấy sang Trung Phi. Cùng đi với Việt Định Phương còn có bà mẹ của cô gái. Bokassa nhận ra người “vợ” cũ và thừa nhận cô gái bà ta là Martine Bokassa chính hiệu. Tuy thế, ông ta vẫn xử sự đẹp với cô gái thứ nhất: nhận cô ta làm con nuôi. CIA đã thắng lớn và kéo hẳn Bokassa về với nước Mỹ, đẩy lùi uy tín của nước tư bản kia. Song CIA không phải dừng lại tại ấy. Sau này cô gái ấy lấy một viên thiếu tá thân Mỹ và nghe đâu chính người con rể này đã làm cuộc đảo chính Bokassa. Xứ Trung Phi giầu kim cương đã rơi vào khu vực ảnh hưởng của Mỹ. Chắc rằng Việt Định Phương cũng kiếm chác khá nhiều đô la, chưa kể số kim cương do Bokassa thưởng công.

– Đấy! Vẫn giọng trầm dịu, đồng chí chỉ huy trưởng nói tiếp – Nay vẫn tên Việt Định Phương là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Trắng Đen. Lại cũng vẫn Mai Thảo, Trần Bích Loan của nhóm “Sáng Tạo” do USIS dựng lên... Vẫn nhưng quân bài ấy trên tay bọn chủ cũ đang múa may ở Mỹ. Chúng đã sử dụng ngòi bút để tập hợp bọn phản động ở nước ngoài. Chính tên Việt Định Phương ấy núp dưới biệt danh Trúc Việt đã tô son vẽ phấn cho tên Võ Đại Tôn, suy tôn hắn thành “người hùng phục quốc”, móc nối Võ Đại Tôn với Vàng Pao, đặt Tôn lên lưng cọp rồi đẩy hắn về Việt Nam để phá hoại. Âm mưu chưa thực hiện được thì Võ Đại Tôn đã bị ta tóm cổ trên đường thâm nhập.

Tư Tuân xen vào:

– Sau Võ Đại Tôn, chắc chúng sẽ nặn ra con rối khác.

– Đấy, đấy! – chỉ huy trưởng ngắt lời – Vấn đề là chỗ ấy. CIA đâu từ bỏ những tên âm binh ấy, cháy tên này thì chúng tạo ra tên khác đế... nướng tiếp. Không hiểu sau vụ ấy, cái tên chủ báo Trắng Đen kia nhận được bao nhiêu đô la nhỉ?

– Cái đó thì chịu. Nhưng có tin nhiều tên trong bọn phản động lưu vong định vặt lông tên đểu cáng ấy, khiến nó phải lỉnh ở xó xỉnh nào đó, ít thấy xuất hiện. Nghe nói nó chuồn qua Châu Âu rồi.

– Chắc thế thôi. Dẫu sao con rối ấy đã diễn xong phần kịch bản mà bọn chủ dành cho nó. Và đến lượt một con rối khác. À, mà tên thật của nó là gì nhỉ?

– Dạ, Phạm Thu Trước.

– Anh nhớ khá nhỉ, – Chỉ huy trưởng cười.

– Thật tình tôi không muốn nhớ những tên ấy, nhưng vẫn phải nhớ. Thật là “tai nạn nghề nghiệp”

– Sao “ông bạn” lại coi là tai nạn nhỉ? – Chỉ huy trưởng cười thông cảm và nói tiếp – Cuộc đấu tranh còn tiếp tục, thì ta còn phải tiếp tục nhớ đến chúng. Dầu cho bọn này chết già, chết ráo, cũng vẫn chưa xong. Lại có một số tên khác mới nẩy lên, không chỉ ở bên đó mà ngay cả ở đây – Chỉ huy trưởng lật những trang của tờ “Kháng Chiến” và dừng lại ở trang in bài ký tên Trần Tam Tiệp – Như tên này, anh Tư có biết không?

Tư Tuân kéo tờ báo đến trước mặt, đọc lướt vài dòng. Cái tên Trần Tam Tiệp ấy nghe rất lạ. Anh cố nhớ nhưng vẫn mù tịt. Chỉ huy trưởng nói tiếp:

– Tên này chưa từng xuất hiện trên làng văn, làng báo Sàigòn trước đây. Thật ra, trước đây hắn cũng có viết đôi bài báo nhưng đều ký tên người khác. Tôi cũng mới biết qua về lai lịch của hắn. Hắn nguyên là Trung tá An ninh Không quân ngụy. Điều này đã được bộ tàng thư xác định. Ấy thế mà nay nó lại là Tổng thư ký cái “Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” đóng trụ sở ở Paris. Công khai đấy, khỏi cần kiểm chứng, vì chúng treo bảng hiệu đàng hoàng. Và Tiệp đã xách cặp đi dự hết hội nghị này đến hội thảo kia, còn chủ tịch của nó là Trần Thanh Hiệp mà mọi người đều biết là một trong những tay sai lâu năm của sứ quán Mỹ ở Sàigòn. Đằng sau bảng hiệu ấy là gì, đó lại là chuyện khác. Trong bài báo này, Tiệp lên tiếng đòi ta tha cho số bồi bút phản động đã bị bắt và cho bọn ấy ra nước ngoài. Láo thật. Anh đọc qua bài biết của nó đi, rồi ta bàn.

Tư Tuân đọc lướt mấy trang báo. Cũng những luận điệu vu cáo rẻ tiền. Cả cái lối hành văn, thuật ngữ đã quen thuộc đối với anh. Từ khi được giao phụ trách đơn vị này, anh đã chịu khó đọc hàng lô sách, tiểu thuyết của số “nhà văn” cũ và sách báo mới được bọn phản động lưu vong ấn hành ở nước ngoài. Thật là chán đến buồn nôn. Nhưng anh vẫn ráng đọc “để xem chúng thế nào”. Rặt một lũ chống cộng cuồng si, thể hiện lộ liễu ý thức phản động cao độ. Đã có anh em nói đùa rằng “anh Tư đang trở thành nhà nghiên cứu văn học thực dân mới” Cũng không ngoa đâu vì đến nay Tư Tuân có thể quen thuộc khuynh hướng, bút pháp những tên “nổi tiếng”. Nhưng cái tên Trần Tam Tiệp này thì anh chịu.

Khi Tư Tuân đọc xong, chỉ huy trưởng hỏi:

– Anh thấy thế nào?

– Thằng này láo, – Tư Tuân buột miệng.

– Đành thế. Nhưng cái mà chúng ta quan tâm là sự tác động ngầm đối với những người ở lại đây, mặc dầu những người ấy không cần và không muốn nó bảo vệ. Sau gần mười năm sống dưới chế độ mới, họ đã tìm câu kết luận cho chính họ, họ đã tạo dựng một cuộc sống mới. Nhiều người tiếp tục theo đuổi nghề văn, nghề báo, một số đã chuyển sang nghề khác vì thấy phù hợp với họ hơn; trừ một số ít ngựa quen đường cũ, bị rủ rê, có người không đủ nghị lực, lại chứng nào tật ấy. Có người phải di chuyển đến một nơi xa xôi nào đó để cắt mối liên lạc cũ. Thậm chí có người tự nguyện trở vào trại.

Thế đấy. Cuộc sống nào cũng có quy luật riêng của nó. Ở đây là quy luật của bọn phản cách mạng, bọn vong quốc lang thang ở các nước Tây phương. Do bản chất và chịu sự tác động của bọn chủ, chúng còn biết làm gì khác, nếu không tiếp tục chống lại tổ quốc bằng cách thò vòi, kích động, móc nối những đồng bọn của chúng còn lại ở trong nước. Nếu ta chặt đứt những cái vòi ấy, chúng sẽ tịt ngòi.

– Vâng. Tôi nắm được vấn đề anh gợi ý. Xin anh cho tôi có thời gian nghiên cứu thêm.

Chỉ huy trưởng đứng dậy, trao cho Tư Tuân cả mớ báo ấy và dặn:

– Anh mang về đọc hết đi. Tôi chỉ xem qua, nhưng thấy có một số bài có giọng văn quen quen. Trong hoàn cảnh đất nước ta mọi sự phức tạp hơn chứ chẳng phải là chuyện văn chương nhảm nhí. Có những tín hiệu có ích cho chúng ta đấy! Tôi sẽ gửi thêm cho anh những tin tức từ bên ngoài để anh nắm thêm. Ta sẽ có dịp bàn tiếp.

Tôi bỏ qua không điểm khoảng 40 trang hai anh cớm cộng viết tưởng tượng lèm bèm về anh em chúng tôi. Chương VIII của NTBKCB quý bạn vừa đọc gồm 8 trang, đánh số từ 74 đến 81.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 18)

Trong Chương VIII hai anh đại tá công an Việt cộng đả động đến một số văn nghệ sĩ ở hải ngoại. Những ông văn nghệ sĩ đẻ bọc điều này, nhanh chân bỏ nước chạy lấy người, phú lỉnh được sang Pháp, sang Mỹ. Nếu các ông bị kẹt giỏ ở Thành Hồ chắc chắn tên tuổi các ông không được Cớm ViXi nhắc đến trong quái phẩm chúng gọi là “Truyện” này. Kẹt giỏ, các ông cũng giã từ vòng tay ấm, vòng tay lạnh của bà vợ gầy để đi tù mút mùa Lệ Thu như chúng tôi thôi.

Những người bị nhắc đến trong chương này là Việt Định Phương, em Martine Bokassa, rồi “Mai Thảo, Trần Bích Loan của nhóm Sáng Tạo do USIS dựng lên...” – tên cúng cơm của thi sĩ Nguyên Sa được Cớm Cộng thêm vô một chữ O to tổ bố – Võ Đại Tôn, đặc biệt luật sư Trần Thanh Hiệp, Chủ tịch – dường như anh là chủ tịch tiên khởi, tức bom-nhe, thứ nhất – của Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại – tôi không biết nên sài ở đây tiếng “bị” hay tiếng “được” với việc bọn Cớm Cộng nhắc đến Luật sư Trần thanh Hiệp và Hội Văn Bút: “... chủ tịch của nó là Trần Thanh Hiệp mà mọi người đều biết là tay sai lâu năm của Sứ quán Mỹ ở Sàigòn...”

Tôi thú nhận trong những gì tôi viết ra cứ 10 phần thì có 5 phần diễu cợt, bông lơn, tán nhảm, đấu hót lia chia, 3 phần do tôi phịa ra, chỉ có may mắn hai phần là sự thật. Song ở cái bài viết hôm nay – một sáng chủ nhật mùa xuân ở vườn đất xứ Mẽo Virginia của những người Mẽo yêu nhau, người Mít ở nhờ – tôi long trọng xin lỗi tất cả quý vị – nhân sĩ quốc gia, quốc dzô và bạn hữu, thân cũng như sơ – những người đã bị công an Việt cộng vu khống, bôi bẩn vì các vị có liên can xa gần đến anh em chúng tôi. Các vị đã phải chịu một tình trạng mà bọn tù nạn nhân cộng sản chúng tôi trong những nhà tù gọi là “bị văng miểng”. Miểng đây là miểng lựu đạn. Bọn xấu quẳng lựu đạn vào gầm bàn bọn ngồi ăn nhậu ở cùng phòng ăn với các vị. Chúng định giết bọn kia nhưng vì các vị ngồi gần bọn kia nên các vị bị miểng lựu đạn nổ dzăng trúng, thường thì các vị bị trúng miểng lựu đạn nơi gọi là ti-bịa, các bà các cô thường bị trúng vào chỗ để ngồi.

Và “đặc bịt” Chương BKCB này đụng đến nhà văn Mai Thảo. Tôi nghe nói ông có làm bài thơ gì đó trong có hai câu:

Ta thấy tên ta những bảng đường
Đời ta lịch sử chép ngàn chương.

Đời ông lịch sử chép ngàn chương là chuyện tất nhiên kiêm tự nhiên, chuyện chắc như bắp rang, như gạch tầu, như đinh 10 phân đóng cột gỗ lim. Trong số ngàn trang ấy tôi xí phần viết về ông vài ba trang lấy thảo.

Cả đời tôi không có một trang truyện nào ký tên tôi được xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo. Đúng thôi. Những gì tôi viết đều thuộc loại “hàng chợ”, mà đã là “hàng chợ” tức là hàng rẻ tiền, hổng phải thứ hàng nghệ thuật cao giá. Ba mươi mùa cóc chín trước đây ở Sàigòn tôi nghe nói – tôi chỉ nghe nói lại thôi, người nói không nói trước mặt tôi – ông Sần Foóng, tức Trần Phong Giao, báo Văn, tòa soạn ở đường Phạm Ngũ Lão trước rạp xi nê Thanh Bình – xếp hạng tôi – Hát Hát Tê – hổng phải là “nhà văn”. Nghe nói lại câu đó, không những tôi không buồn mà trái lại tôi còn coi ông Sần Foóng như người tri kỷ. Tôi hổng phải là nhà văn và chưa một lần tôi tự nhận là nhà văn. Cho đến bây giờ tôi vẫn tự nhận tôi là người viết tiểu thuyết. Khi bị gọi là “nhà văn” tôi thấy ngượng. Bởi vậy việc tôi không có mặt trên tạp chí Sáng Tạo của ông Mai Thảo là hợp lý.

Và cũng bởi vậy, tôi không được giao du thân mật với ông chi nhiều, tôi hân hạnh được ông gọi bằng mày, xưng tao nên “kính trọng không bằng vâng lời”, tôi cũng xưng tao với ông và kêu ông bằng mày.

Nhà văn Mai Thảo, tháng Ba, tháng Tư năm 1975, chỉ có một thân, một mình, không vợ, không con. Dường như tháng ấy, ngày ấy ông cũng chẳng có nhân tình, nhân bánh gì cả. Vậy mà nhiều ông văn nghệ sỡi vợ con đùm đề, có ông còn đèo bòng vợ lớn, vợ bé, vẫn bỏ nước chạy lấy người thoát thân, ông Mai Thảo cu ky đờ luých vẫn cứ lang thang trên những vỉa hè Sàigòn thất thủ. Trước ngày 30 Tháng Tư 75 ông ngụ trong một phòng ở Nhà Chiều Tím cạnh phở 79 đường Võ Tánh. Sau Tháng Tư đen hơn mõm chó ông về ở một phòng trong căn nhà của ông anh ông – ông Nguyễn đăng Viên – đường Phan Đình Phùng.

Từ 30 Tháng Tư năm 1975 ông Mai Thảo cũng sống lêu bêu, vất vưởng không khác gì các ông văn nghệ sĩ VNCH lớn nhỏ khác. Phải nói rõ, những ông văn nghệ sĩ được nói đây là những ông văn nghệ sĩ xi -dzin, tức là thường dân, lại có nghĩa là không ở trong quân đội. Những ông văn nghệ sĩ quân nhân còn kẹt lại một tháng sau ngày Việt cộng vào Sàigòn đã lên đường đi cải tạo hết. Ngày tháng phất phơ không có việc làm, các ông văn nghệ sĩ bắt chước các thầy Min Đơ, Min Toa đạp xế đạp đi lang thang tìm nhau, gặp nhau ở những quán cà phê vỉa hè, đi ăn nhậu cũng vỉa hè cho đỡ buồn. Thường dân Sàigòn thất nghiệp cũng mần y như những ông văn nghệ sĩ cho qua thì giờ. Nghĩa là thường dân ngày ngày cũng không có việc làm, cũng đạp xế đi lang thang, cũng ngồi cà phê vỉa hè cả buổi tán dóc cho đỡ buồn. Gặp nhau tất nhiên là hỏi thăm kẻ còn, người phú lỉnh, người đi cải tạo, rồi trao đổi những tin đồn. Thường dân làm như thế thì không sao, nhưng văn nghệ sĩ làm như vậy là không được, văn nghệ sĩ không có quyền tụ tập, trao đổi với nhau những tin đồn.

Những ngày ấy Sàigòn có thật nhiều tin đồn. Đại khái vài tin: quân ta còn rất đông trong rừng sẽ kéo về một ngày rất gần, Rằn ri xuất hiện ở ngay Cát Lái, Thủ Thiêm, phi cơ thả dù đồ tiếp tế xuống Dốc Mơ, Đà Lạt v.v... Ai sáng tác những tin đồn ấy? Tôi không biết. Tôi chỉ biết những ông văn nghệ sĩ kẹt giỏ Sàigòn không phải là những người sáng tác tin đồn. Các ông loan truyền những tin đồn các ông nghe được thì có, sáng tác thì không.

Hai ký giả Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn Tiến bị tóm ngay từ những ngày đầu tháng Năm 1975.

Tiếp theo là Uyên Thao, Vũ Ánh, Đoàn Kế Tường, Văn Chi. Nếu các ông Chu Tử, Hồ Anh, Phạm Duy còn kẹt lại ở Sàigòn tôi chắc bọn công an đặc vụ từ Hà Nội vào cũng đem xe bông đến tận nhà các ông, ưu ái đưa các ông đi cất ngay mà không đợi đến mùa ổi chín năm sau.

Tháng Ba năm 1976, công an Vixi mở chiến dịch bắt văn nghệ sĩ Saigon. Trước khi viết đến chiến dịch bắt bớ này, tôi ghi lại vài dòng về vụ nổ bom làm chết người mà bọn công an Việt cộng nói là có dính líu đến một số văn nghệ sĩ. Tôi xin nói ngay những gì tôi viết đây là những gì cá nhân tôi được nghe nói. Những sự kiện này không có gì bảo đảm là chính xác.

Vụ nổ xẩy ra ở Hồ Con Rùa đường Duy Tân. Cả Thành Hồ xã hội chủ nghĩa chỉ có một tờ nhật báo Saigon Giải Phóng. Tờ báo này không loan một mẩu tin nào về vụ nổ ở Hồ Con Rùa, nên người dân chỉ biết về vụ nổ qua những tin truyền miệng mơ hồ. Nghe nói có nhiều người chết oan. Vụ nổ Hồ Con Rùa xẩy ra vào khoảng đầu năm 1976. Vài tháng sau chiến dịch bắt bớ văn nghệ sĩ Sàigòn được tiến hành.

Huỳnh Bá Thành, dân Quảng Nam, trước năm 1975 vẽ biếm họa ký tên họa sĩ Ớt ở nhật báo Điện Tín do Thượng nghị sĩ Hồng Sơn Đông làm chủ nhiệm. Trước năm 1975, làng báo Sàigòn có những họa sĩ Chóe, Tuýt, Hĩm, anh họa sĩ Ớt không sao nổi lên được. Việt cộng vào Sàigòn, anh cu Ớt trở thành công an nằm vùng Huỳnh Bá Thành. Quyển “Vụ án Hồ Con Rùa” do Huỳnh Bá Thành viết là quyển truyện mở đầu một lô những quyển “Vụ án đủ thứ” sau đó.

Vụ nổ xưa rồi. Đã hơn hai mươi mùa lá rụng trên đường Duy Tân cây dài bóng mát. Riêng tôi, tôi có hai điều cần viết về vụ nổ Hồ Con Rùa:

– Người anh em nào gài chất nổ tại sao không cho nổ ở một cơ sở nào của Việt cộng? Bất cứ cơ sở nào cũng được, không cần phải là cơ sở quan trọng. Ngay gần đó, có Nhà Thanh Niên của ta bị Việt cộng chiếm làm nhà triển lãm thường trực Tội Ác Mỹ Ngụy. Tại sao người anh em không làm cử chỉ đẹp, cho chúng tôi được vinh hạnh theo là cho nổ trong cái phòng triển lãm ấy? Biết là khó đấy nhưng anh em cho nổ ở công trường Hồ Con Rùa, người bị chết chỉ là anh em, con cháu chúng ta thôi.

Công an Việt cộng không bắt được ai là người đặt bom ở Hồ Con Rùa. Vụ án chìm dần trong quên lãng và thời gian. Bọn cộng sản có cái bệnh chung là chuyên giấu giếm, che đậy những sự kiện xấu xảy ra trong xã hội chúng cầm quyền. Việt cộng tiết lộ rất mơ hồ về vụ nổ Hồ Con Rùa cũng như về vụ cô đào Thanh Nga cùng ông chồng Đổng Lân bị bắn chết ở Thành Hồ năm 1978. Đây là thời gian Tàu cộng và Việt cộng đang hục hặc hăm he đánh nhau. Việt cộng đổ là do bàn tay lông lá của bọn phản động Bắc Kinh đã hạ sát đào Thanh Nga chỉ vì Thanh Nga đóng vai “Thái Hậu Dương Vân Nga” trong vở tuồng cùng tên. Đại khái sự tích vở tuồng như sau: Cuối đời nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt nhỏ bé ở miền Nam sau ít năm độc lập lại bị người Hán tính chuyện xâm lăng. Quốc gia lâm nguy, vua ít tuổi không thể lãnh đạo quân dân chống cường địch, may sao nước nhà có Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn là người anh dũng. Bà Thái Hậu họ Dương bèn dẹp tình riêng, lo chuyện chung, lấy hoàng bào của Vua cho Lê Tướng quân mặc. Hành động của bà Thái hậu đa tình cho nhân dân biết cơ nghiệp nhà Đinh – mở đầu bởi người hùng Cờ Lau Đinh Bộ Lĩnh – đến đây là chấm dứt. Ngôi Vua đã được đích thân Thái Hậu Mẹ Vua trao cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn để Tướng quân đánh giặc ngoại xâm, cứu nước. Nghe nói Dương Thái Hậu còn đi xa một bước nữa trên đường thưởng công cho Thập đạo Tướng quân bằng cách trở thành vợ của Tướng quân.

Đấy là ý chính vở tuồng “Thái Hậu Dương Vân Nga.” Ngoài việc kêu gọi đánh quân nhà Hán – năm 1978 là quân Trung cộng cờ đỏ búa liềm năm sao vàng – vở tuồng còn có ý đồ khuyên đàn bà con gái miền Nam bại trận nên quên chồng cũ – những anh bại trận này đã chết và còn sống cũng như đã chết – để trao thân gửi phận cho những anh chồng mới trẻ, khỏe hơn, những anh chiến thắng v.v...

Và chỉ có thế thôi – mà theo Việt cộng – “bọn phản động Bắc Kinh đã giết nữ nghệ sĩ Thanh Nga...” Năm 1962, đào Thanh Nga đóng vai chính trong bộ phim tình cảm Hai Chuyến Xe Bông của đạo diễn Hoàng Anh Tuấn hiện sống ở San José, Cali. Hai chuyến xe bông? Phải chăng đây là cái tên tiền định? Cô đào tài sắc có ông chồng chết theo. Đám tang hai người cùng cử hành một ngày, một giờ. Dù là vợ chồng cũng không tiện hai quan tài đi cùng một chuyến xe bông ra nghĩa địa. Khi cô đào bị bắn chết thê thảm anh Con trai bà Cả Đọi đang nằm phơi rốn cho muỗi đốt trong cái gọi là Trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, anh chắc đám tang cô ít nhất phải có Hai Chiếc Xe Bông chứ không phải một.

Vòng vo tam quốc. Xin lỗi đã đưa quý vị đi theo cô đào Thanh Nga Cải Lương chi bảo tài sắc nổi nhất, đắt giá nhất một thời... đến nghĩa trang, bỏ quên nhà văn Mai Thảo Bảng Đường nằm cu ky hơi lâu trong căn phòng của ông ở đường Phan Đình Phùng. Căn nhà đẹp này nguyên là nhà của một ông anh của ông. Ông anh ù té chạy được trước 30 tháng 4. Một ông anh khác của ông về ở nhà này, dành cho ông một phòng. Có đêm theo ông đi chơi quá khuya – nhà tôi ở mút chỉ cà tha tận đầu đường Lê Văn Duyệt, bị đổi tên là đường Cách Mạng Tháng Tám, gần Ngã Tư Bẩy Hiền – tôi theo ông về ngáo với ông trong phòng này. Tôi thấy trong ngăn kéo bàn ngủ bên giường của ông có mấy bài thơ mới làm của Thi bá Vũ Hoàng Chương. Sau 30 tháng 4 năm 1975, Thi bá và bà vợ bị đuổi ra khỏi cái vi la sang trọng trong khu Lăng Cha Cả – khi Thi bá là Thi bá, người ta hân hoan được mời ông về nhà ở với người ta trong vi la này. Khi cộng sản nói cối dép râu vào Sàigòn. Thi bá không những chỉ hết là Thi bá mà còn bị coi như một thứ tội nhân văn học, người ta đuổi ông bà đi không chút xót thương.

Thi bá cùng bà vợ về sống trong một khu lao động bên Khánh Hội, Thi bá vẫn mần thơ. Ông làm nhiều bài thơ ngắn, bốn câu, sáu câu, viết ngay vào mảnh giấy trao cho người đến thăm ông. Lý do Việt cộng bắt ông là: “sáng tác và phổ biến thi văn phản cách mạng”.

Trong tác phẩm Quần đảo Ngục tù – The Gulag Archipelago – Tác giả Alexander Solzhenytsin viết đại khái: Sống trong kìm kẹp của bọn mật vụ cộng sản, người dân khiếp sợ đến nỗi không những không ai không dám làm một hành động phản kháng mà còn không ai dám bỏ trốn. Như con chim trước con rắn, người ta chỉ mong bọn công an đến gõ cửa nhà người khác. Nhớ lại thời người dân ở Leningrad bị khủng bố, tôi nghĩ nếu chúng tôi, những người dân hiền lành, chỉ chống đối bọn công an đêm đêm đi bắt người bằng cách lén ra phá hoại xe ô tô của chúng thôi, đã có biết bao nhiêu người không bị bắt, thoát khỏi việc bị chết trong ngục tù vì bọn công an Leningrad không có xe để đi bắt họ. Có thể nói tất cả mọi người dù biết mình sắp bị bắt vẫn cứ chịu chết ở nhà chờ chúng đến bắt. Người ta nghĩ rằng với sự kiểm soát chặt chẽ của công an mình không thể nào trốn thoát được. Bỏ trốn chỉ thêm tội nặng. Nhưng tôi biết một sinh viên khi thấy bọn công an đến bắt anh, tung cửa sổ nhẩy ra vườn sau chạy thoát. Và anh thoát luôn. Mười mấy năm sau trở về thành phố tôi lại gặp anh...

Tình trạng người dân khiếp sợ bọn công an ở Nga dù sao cũng vẫn không nặng bằng tình trạng xẩy ra ở Sàigòn và những tỉnh miền Nam Việt Nam, nơi từng là một quốc gia riêng với đủ thứ lệ bộ, lễ nghi của một quốc gia độc lập, nơi người dân trong mấy chục năm trời từng đổ máu, đổ nước mắt chống cộng sản. Trong cái gọi là Khóa bồi dưỡng chính trị cho văn nghệ sĩ Sàigòn, Hai Khuynh một cán bộ biên tập tạp chí Đại Đoàn Kết, đến dự với tư cách hướng dẫn viên , nói:

– Nếu chúng tôi còn yếu như năm 1954 thì lần này có thể trong số các anh có vài anh bị chúng tôi cho đi mò tôm rồi đấy. Chuyện trả thù tắm máu không xảy ra vì bây giờ chúng tôi mạnh rồi, chúng tôi có Đảng lãnh đạo với chính sách đúng đắn...

Ý Hai Khuynh muốn nói là Việt cộng khi vào Sàigòn đã tha, đã không đè cổ năm bảy văn nghệ sĩ VNCH ra cắt tiết lấy máu tươi cúng Chủ tịch Hồ Chí Minh mừng ngày Chủ tịch dzô dinh Độc Lập. “Mò tôm” là hai tiếng mới tinh, mới có từ những năm 1946, 1947 trong ngôn ngữ Việt Nam bốn ngàn bốn mươi năm văn hiến diễn tả việc giết người của Việt cộng. Đêm đến , người chống đối hay không chống đối nhưng bị Việt cộng cho là nguy hiểm bị chúng trói tay, bịt mắt dẫn ra bờ sông, bãi cát vắng tanh – Tội nhân được đưa ra bờ sông không phải để đứng ngóng đò như trong thơ Tê Tê Ca Hát mà là để – bị bắn vào đầu, bị đâm, bị cắt cổ rồi bị đạp một đạp cho nhào xuống sông. Từ đó, nạn nhân sẽ vĩnh viễn làm bạn với cá tôm. Người dân miền Bắc gọi việc đó là “cho đi mò tôm”. Hai Khuynh là dân miền Nam kháng chiến tập kết ra Bắc nên sài tiếng “mò tôm” khá nhuyễn.

Tôi nghĩ ta không nên vu cho Việt cộng nhiều tội ác hơn là những tội ác họ đã làm với đồng bào của họ. Việt cộng, nón cối, dép râu, AKa, tóc bím, răng cải mả, mông đít to như cái thúng, ngơ ngáo kéo nhau vào Sàigòn như đàn bò vào thành phố ba triệu dân mà chỉ có ba anh – Xin lỗi – Tính lại chỉ có bốn anh Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Vũ Hạnh và Thái Bạch là bốn người quen sơ sơ. Ký giả Thái Bạch, thường được anh em gọi là Thái Bịch, mặt mũi khó đăm đăm, những ngày trước 30 Tháng Tư năm 1975 ngồi xào nấu tin lô can, tin xe cán chó, tin người đánh nhau được gọi là tin “Từ thành đến tỉnh” trong tòa soạn nhật báo Xây Dựng của Linh mục Thiên Hổ Nguyễn Quang Lãm ở đường Thánh Mẫu, Ngã Ba Ông Tạ nổi tiếng về mục Cờ Tây.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 19)

Công tử Hà Đông nhấn nút linh tử xem lại vài cảnh bỏ nước chạy lấy người thê thảm hai mươi mốt mùa cô hồn tháng Bảy năm xưa. Phải nói là ngày ấy, tháng ấy, năm ấy Công tử gà què kẹt giỏ chạy không kịp chứ không phải là không muốn chạy. Từ trưa ngày 29 tháng Tư trực thăng Mẽo bay vần vũ trên trời Sàigòn, tiếng máy bay quần thảo suốt đêm. Tảng sáng Ba Mươi, trực thăng Mẽo vắng bóng trên thành phố đầu hàng. 11 giờ trưa “Toỏng Thoóng” Dương Văn Minh đọc lệnh buông súng trên ra-dzô, những người lính Việt Nam Cộng Hòa bại trận, buông súng, vừa đi vừa khóc trên hè phố. Đường phố Sàigòn náo loạn, người ta chạy lên, chạy xuống như kiến vỡ tổ. Bốn giờ chiều có anh nào đó tên là Tòng – Nguyễn hay Lê Văn Tòng – cùng vài anh nữa hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” chào mừng Việt cộng trên đài phát thanh.

Năm, sáu, bẩy, tám, chín, mười ngày sau một số ký giả nhanh chân chạy đến “trình diện” ở Câu Lạc Bộ Báo Chí đường Lê Lợi. Ở đây có một anh cán bộ nào đó tên là Kỳ Nhân cấp cho đám ký giả Sàigòn nhanh chân chạy đến với chủ mới những giấy chứng nhận “có đến trình diện” ký tên Kỳ Nhân. Ít ngày sau, anh Kỳ Nhân này mất tích. Nhiều ký giả nói với nhau: “Không biết thằng Kỳ Nhân là thằng nào. Có lẽ tên nó là Kỳ Nhông thì đúng hơn...”

Bọn Văn Nghệ Giải Phóng Miền Nam chiếm tòa Đại sứ Đại Hàn ở đường Nguyễn Du – nghe nói nhà này nguyên là nhà của ông Nguyễn Hữu Hào, ông Quốc cữu thời vua Bảo Đại – văn nghệ sĩ Sàigòn kẹt giỏ bảo nhau đến đó “trình diện cách mạng”. Thực ra Việt cộng nó chỉ ra lệnh và kêu gọi các sĩ quan, công chức và đặc biệt là quý ông phú lít, bác sĩ, giáo viên, nhân viên bệnh viện v.v... đi trình diện thôi. Mới vào được Sàigòn Việt cộng đang có quá nhiều việc rối tinh, rối mù. Họ không ngờ họ chiếm được Sàigòn đẹp quá Sàigòn ơi dễ và nhanh ngon lành đến thế, hai là họ chẳng thèm để ý, để tứ, để mắt, để mũi gì đến đám văn nghệ sĩ Sàigòn nên họ hổng có kêu gọi mấy anh đi “trình diện, trình mạo” chi ráo trọi. Mấy ảnh sợ và mấy ảnh tưởng bở, mấy anh nghĩ “đi trình diện là tốt”, nên mấy ảnh lơ láo đến Tòa Đại sứ Đại Hàn nay đã đổi chủ. Công tử Hà Đông cũng đến đấy.

Đến đấy mấy ảnh gặp ký giả Thái Bịch. Bộ mặt Thái Bịch những ngày Việt Nam Cộng Hòa còn hùng mạnh trông đã khó thương rồi, nay cờ đỏ sao vàng đầy thành phố bộ mặt ấy trông lại càng ghê rợn. Ký giả nhà ta lúc thì mặt lạnh như tiền, lúc thì hòa nhã với cái vẻ cố ý để cho những kẻ đến gặp anh biết anh muốn nói với họ: “Bi giờ ngươi đã biết Thái Bịch này chưa?”

Để chứng tỏ mình không phải là thường dân, mình là chiến sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mấy anh cách mạng Ba mươi chạy cờ, chạy hiệu, chạy bàn thường đeo cái băng đỏ ở cánh tay. Đặc biệt Ký giả Thái Bịch đeo sề sệ một khẩu Côn Đui bên hông.

Ký giả Thái Bịch nhờ ơn Bác, Đảng, được hạnh phúc đeo Côn Đui– hay Côn Bạt, súng Mỹ –liên tục dễ đến hơn cả tháng. Ít lâu sau, Việt cộng tổ chức lại, đem cái gọi là Hội Văn Nghệ Giải Phóng về tòa nhà Tình báo Việt Nam Cộng Hòa đường Trương Minh Giảng-Tú Xương. Bộ mặt hãm tài của ký giả Thái Bịch không còn xuất hiện nữa.

Trở lại với Sàigòn ngày tan hàng. Nhiều anh em tù cải tạo gọi là Ngày Đứt Phim. Lấy ý như là mình đang ngồi trong rạp Rex xem đào E-Li-Za-Bét Tê-Lo mần tình với kép Rốc-Hất-sân. Đang cụp lạc bỗng màn ảnh tối om rồi đèn bật sáng. Những cặp tình nhân ngồi nghiêm chỉnh lại, tay chân, miệng lưỡi không còn dính nhau, những trinh nữ sửa lại y phục. Đèn sáng trong một lúc. Nhân tiện kháng giả đi đé. Đứt phim. Khi phim nối lại, cuộc sống sẽ trở lại như trước.

Saigon ngày tan hàng. Nhìn lên trời thấy những chiếc trực thăng bay ra biển Công tử Hà Đông cảm khái lẩy Kiều:

Ào ào gió dục mây vần
Trực thăng trong cõi hồng trần như bay...

Mai Thảo là văn nghệ sĩ Sàigòn duy nhất công an Việt cộng muốn bắt mà không bắt được. Đúng là con người có số. Số ông Mai Thảo, số ông Lê Trọng Nguyễn Nắng Chiều – những ông ba chân bốn cẳng vắt giò lên cổ chạy thoát được trước Ngày Ba Mươi Tháng Tư không nói làm chi – hai ông Mai Thảo, Lê Trọng Nguyễn sống ở Thành Hồ cả mấy năm mà vẫn không bị Việt Cộng bắt – Số hai ông là số không ở tù nên hai ông không bị ở tù. Giản dị và trong sáng, dễ hiểu như vậy thôi. Hai ông chẳng giỏi giang gì cả.

Công an Việt cộng, nhất là anh Huỳnh Bá Thành họa sĩ Ớt nhật báo Đồng Nai của Thượng nghị sĩ Hồng Sơn Đông, rất lấy làm cay cú vì không bắt được Mai Thảo. Chúng lại càng ức hơn khi chúng biết Mai Thảo vẫn sống giữa lòng Thành Hồ, vẫn gặp anh em. Cuối năm 1977 sau khi vác mặt mo đi dự cái khóa Bồi dưỡng chính chị, chính em ruồi bâu kiến đậu Công tử Hà Đông được nhà văn lớn Bảng Đường cho người đến nhà đưa thư.

Thư nhà văn lớn viết đại ý: “Tưởng mày cũng bị bắt nên tao không liên lạc. Người cầm thư này là người thân của tao. Đưa nó mang về cho tao mấy quyển truyện trinh thám Pháp. Tao suốt ngày nằm đọc sách. Tao là kẻ thù của mặt trời...”

Công tử học hành dốt nát, tiếng Tây, tiếng Mẽo tiếng nào cũng ăn đong nhưng tiểu thuyết tiếng Tây, tiếng Mẽo lại có khá nhiều. Toàn là loại sách bìa mềm rẻ tiền. Đọc thư nhà văn lớn, Công tử bèn xếp, không phải mười quyển mà là hai mươi quyển liền một khi, đưa anh mang thư đem về cho nhà văn đọc. Đồng thời một thư cũng được gửi Công tử gửi cho nhà văn lớn: “Hôm nào mày đến nhà tao chơi...”

Người giao liên của Mai Thảo là anh cháu con bà chị của ổng. Anh và gia đình hiện ở San José, Cali. Lần sau trở lại, anh cho biết Mai Thảo chỉ ra khỏi nhà lúc sáng sớm và trở về nhà lúc tối mịt, anh sẽ đưa ông cậu anh đến nhà tôi sớm, để ông ở nhà tôi, tối anh đến đón về...

Một sáng Mai Thảo đến nhà tôi. Ông đội mũ phớt, để hàng ria mép. Vợ tôi nấu cơm. Tôi đi mời bà dì tôi ở gần nhà sang chơi. Bà dì tôi, vợ tôi, cậu, cháu Mai Thảo là bốn tay đánh chắn cừ khôi. Tôi chắn cạ A B C nhưng phải ngồi dzô cho đủ năm tay. Tôi sinh trưởng trong một gia đình tổ tôm, tài bàn, chắn cạ, bất, đố mười gia truyền. Những tờ giấy bạc lương thiện do sức lao động đầu tiên tôi kiếm được trong đời tôi là tiền chia bài. Những năm 40 với việc chia bài mỗi canh chắn khoảng ba , bốn tiếng đồng hồ tôi kiếm được hai ba đồng tiền công chia bài. Tôi chi số tiền này vào việc đớp bò khô thoải mái. Năm ấy thịt bò khô Hà Đông – Sàigòn là gỏi đu đủ – một đĩa là một hào. Một đồng bạc Đông Dương đớp được những mười đĩa. Ở số tuổi một bó, một bó hai ba que tôi đớp liền tù tì bẩy tám dĩa thịt bò khô giấm chua trinh nữ són đé mà vẫn tỉnh queo không xót ruột, sót gan gì cả.

Vậy mà khi lớn lên, tôi lại không ưa cờ bịch một ly Cửu Sừng, Ông Cụ nào cả. Về bộ môn cờ bịch có thể nói tôi biết đủ thứ. Nhưng vì tôi không thích nên dù biết bí kíp mà không tập luyện nên võ công của tôi không cao. Chắn cạ, mạt chược, cờ tướng tôi chơi thấp hơn vịt... Vì thiếu chân nên tôi phải ngồi vào bàn chắn cho Mai Thảo tiêu thì giờ trong một ngày quanh quẩn ở nhà tôi từ sáng đến tối.

Trước sau Mai Thảo đến nhà tôi chừng ba lần. Thế rồi tình cờ khi gặp anh em ký giả ở đâu đó nghe họ nói:

– Mai Thảo bị bắt rồi

Tôi hỏi:

– Bị bắt hồi nào? Cách đây bao lâu rồi?

Với vẻ thản nhiên đầy quan trọng tôi nói:

– Bậy. Mới tuần trước Mai Thảo đến nhà tôi.

“Tin Mai Thảo đến nhà Hoàng Hải Thủy...” dần dần được chuyền đến tai bọn công an muốn bắt Mai Thảo. Tôi tuy ngu nhưng không đến nỗi không biết là tin ấy sẽ được truyền đến tai bọn công an Việt cộng, tôi chỉ ngu si – vì lúc đó tôi chưa bị bắt – khi nghĩ tôi không có tội gì khi tôi biết Mai Thảo bị lùng bắt mà tôi không báo cáo cho công an đến bắt Mai Thảo, là công dân tốt, theo nghĩa tốt của Việt cộng – tôi phải báo cáo với công an Việt cộng để họ giăng bẫy bắt Mai Thảo. Nếu tôi vì tính chất phản động không chịu làm việc ấy thì vợ tôi phải sáng mắt, sáng lòng đi khai báo mà không cho tôi biết.

Vì vậy, khi tôi bị bắt lần thứ nhất – lần bị bắt này của tôi không được hai anh Nam Thi – Minh Kiên nhắc đến, dù chỉ nhắc sơ nửa dòng trong quyển Những Tên Biệt Kích Cầm Bút – người phụ trách thẩm vấn tôi là Huỳnh Bá Thành. Lần thứ nhất gặp tôi trong phòng thẩm vấn của Nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Huỳnh Bá Thành tự giới thiệu:

– Tôi là Huỳnh Bá Thành, họa sĩ Ớt báo Đồng Nai. Anh gặp những anh chị bị bắt và đã được thả chắc cũng có nghe nói đến tên tôi.

Khi tôi vào Số 4 Phan Đăng Lưu một số văn nghệ sĩ bị bắt tháng Ba, tháng Tư năm 1976 đã được thả về: Hồng Dương, Minh Đăng Khánh, Hoàng Vĩnh Lộc, Sao Biển, Hoàng Anh Tuấn, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Nhã Ca, Xuyên Sơn, Minh Vồ, Hồ Nam, Lê Xuyên, Trần Việt Sơn v.v... Tôi có nghe anh em kể vài mẩu chuyện trong tù nhưng thực sự tôi chưa một lần nghe nói đến tên anh Huỳnh Bá Thành.

Trước mắt tôi, Huỳnh Bá Thành gầy, đen, tóc chải sang bên trái cho tôi biết anh thuận tay trái. Anh cho tôi biết bí danh anh là Ba Trung. Anh cũng tự giới thiệu anh là tác giả quyển Vụ án Hồ Con Rùa.

Tôi không nói cho anh biết là tôi chưa nghe ai nói đến tên anh lần nào, tôi không biết họa sĩ Ớt và tôi cũng chưa từng để mắt đọc nửa trang truyện Vụ Án Hồ Con Rùa.

Tôi bị bắt chiều thứ Bảy – công an đến nhà tôi lúc 11 giờ trưa, khám xét, tìm tang vật mãi đến khoảng 5 giờ chiều tôi mới vào đến Biệt giam 15 khu B, Số 4 Phan Đăng Lưu – 10 giờ sáng Chủ nhật hôm sau Huỳnh Bá Thành đã gọi tôi ra phòng thẩm vấn.

Mỗi lần Ba Trung thẩm vấn tôi rất lâu. Ngoài phần hỏi đáp còn có phần nói chuyện linh tinh, lang tang về văn nghệ, văn gừng, chính em, chính chị. Ba Trung thường gọi tôi ra thẩm vấn vào buổi chiều, ngồi mãi đến chín, mười giờ tối mới thả tôi về biệt giam. Tôi không lấy gì làm phiền nhiễu vì những lần hỏi cung dài lòng thòng này. Mới bị bắt nằm xà lim một mình buồn thấy mồ đi. Được ra ngoài ngồi thoải mái, được có người nói chuyện qua lại – dù người đó là Vixi – cũng đỡ buồn hơn là cứ nằm đến mỏi nhừ cả người trên nền xi măng xà lim. Tôi phải nói rằng Huỳnh Bá Thành đối xử với tôi rất nhã nhặn, lịch sự. Anh ta không nói nặng tôi nửa câu, không tỏ ra khinh bỉ hay vô lễ với tôi, cũng không đe dọa tôi nửa lời. Anh có thể đe dọa tôi, nhưng anh đã không làm. Anh cũng không nói lời gì để tôi thêm buồn , thêm sợ. Anh có đọc tập thơ của tôi – Sau ngày oan nghiệt, tôi có làm một số bài thơ vẩn vương, chép vào một tập để ngay trên bàn. Bọn công an xét nhà vồ được tập thơ này của tôi. Giờ này tập thơ vẫn nằm yên trong kho Lưu trữ tang vật của Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh, trong tập có bài thơ tả cảnh Chợ Trời Saigòn sau ngày ta mất nước:

Chợ Trời

Trời chiều đi dạo Chợ Trời
Xem đồ ta, ngắm đồ người cho vui
Tìm vui chỉ thấy ngậm ngùi
Vỉa hè này những khóc cười bầy ra
Lạc loài áo gấm, quần hoa
Này trong khuê các, sao mà đến đây?
Chợ bầy những đọa cùng đầy
Vàng phơi nắng quái, ngọc vầy mưa sa
Bán đồ toàn những người ta
Mua đồ thì rặt những ma cùng Mường
Chợ Trời hay Chợ Đoạn Trường
Đầu âm phủ, cuối thiên đường là đây!

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 20)

Việt cộng vào Sàigòn, theo đúng thông lệ Cộng đi tới đâu ruồi bâu đến đấy, thành phố Sàigòn thất thủ một sớm, một chiều trở thành cái Chợ Trời khổng lồ. Người Sè Goòng mang ra vỉa hè bán đủ thứ linh tinh. Hai chợ Trời đông đảo nhất Sàigòn là Chợ Cũ và Chợ Lăng Cha Cả. Mộng ước cao đẹp nhất của những anh nông dân Bắc Việt đi lính cụ Hồ vào được Sàigòn là được làm chủ cái đồng hồ “không người lái”. Người bán đồ toàn là dân Sàigòn, người mua đồ toàn là lính Bắc Việt cộng sản. Các em Lính Cái Việt cộng mông to hơn cái thúng đi chợ trời tìm mua “Áo Mông” – Montagut – đồ các em mua phải là đồ có chữ U Ét – US- hay U Ét A – USA.

Ba Trung có đọc bài thơ Chợ Trời, anh nói:

– Anh làm thơ gọi chúng tôi là Mán, là Mường. Nếu các chú đi bắt anh mỗi chú chỉ đánh anh một cái thôi giờ này anh cũng ngồi không vững.

Cay cú nặng vì vụ vồ hụt Mai Thảo, Ba Trung nói:

– Anh thấy đấy... Chúng tôi định bắt một trăm anh là đúng một trăm anh bị bắt. Chúng tôi chỉ có bắt hụt mỗi một mình Mai Thảo.

Thấy anh đối xử với tôi tử tế, tôi nói:

– Các anh bắt vậy là hay quá rồi. Chỉ vì cái sơ suất này mà các anh không bắt được Mai Thảo: chúng tôi có vợ con, khi nghe tin anh em chúng tôi bị bắt chúng tôi quyến luyến vợ con nên chúng tôi cứ ở nhà chờ không chịu bỏ đi. Mai Thảo không có vợ con, sau giải phóng nó lại quen ở nhà này ít lâu, ở nhà khác năm bữa nửa tháng. Nghe nói bị bắt là nó lững thững hai tay không nó đi. Lẽ ra các anh phải bắt Mai Thảo trước nhất, sau nó mới đi bắt những người khác.

Ba Trung hỏi:

– Anh có nhiều lần gặp Mai Thảo phải không?

Có cái tật không thích nói dối – mặc dầu đôi khi cũng nói dối như máy – và không nói dối được, tôi trả lời:

– Có. Mai Thảo đến nhà tôi vài lần.

Ba Trung bất thần hỏi mánh:

– Cũng có khi anh đến rủ Mai Thảo đi chơi chứ?

Phải nói thật là tôi chẳng lần nào đến chỗ Mai Thảo trốn tránh gọi anh đi chơi cả. Nên tôi trả lời ngay boong.

– Không.

Và tôi giải thích “tại sao không”:

– Mai Thảo không nói cho tôi biết chỗ hắn ở là vì việc đó không cần thiết, tôi không cần biết chỗ hắn ở làm chi. Tôi không hỏi chỗ Mai Thảo ở vì tôi sợ nếu tôi bị bắt, các anh sẽ hỏi tôi Mai Thảo ở đâu. Tôi không khai thì sợ các anh hành hạ tôi. Tôi khai thì tôi ân hận vì tôi mà Mai Thảo bị bắt. Vì vậy, tôi không hỏi. Nhưng bây giờ, khi đã bị bắt vào đây rồi, nếu tôi biết chỗ Mai Thảo ở tôi khai với các anh ngay. Nếu tôi còn ở ngoài mà tôi làm cho hắn bị bắt, tôi mới ân hận. Đã bị bắt rồi, tôi chẳng có gì mà để sợ. Mai Thảo có bị bắt thì nó cũng chỉ khổ như tôi thôi. Tôi chẳng áy náy gì về việc khai ra chỗ nó ở để nó bị bắt vì tôi biết trước sau gì nó cũng bị bắt thôi. Làm sao nó trốn mãi được...

Ba Trung không nói gì cả. Chèn đét ơi... tôi nói có lý quá trời đi, còn bắt bẻ tôi vào đâu được. Bị Việt cộng bắt mình khai báo với nó phải có lý may ra mới được nó nể nang phần nào. Có lần, tôi nhớ vào buổi tối đã khuya, khi đã sửa soạn ra về, cho tôi vào xà lim ăn cơm tù nguội cứng ngắc, Ba Trung nói:

– Làm việc với anh, tôi cũng học được nhiều điều hay hay...

Ba Trung nuôi mộng qua tôi, qua vợ tôi, bắt được Mai Thảo. Có lần hắn bảo tôi:

– Tôi muốn anh viết một thư cho Hoài Bắc. Ý thư là anh báo cho Hoài Bắc biết người ta, tức là chúng tôi, đã biết chỗ ở của Mai Thảo, Hoài Bắc phải đến cho Mai Thảo biết để Mai Thảo đi nơi khác ngay...

Tôi biết ngay mánh mung của Ba Trung. Trong tù thường có người bị bắt khi được thả lén mang thư của người tù ra ngoài, đem đến cho thân nhân người tù. Ba Trung muốn tôi viết thư cho Hoài Bắc, hắn sẽ cho một chú công an nào đó giả làm tù ở chung phòng với tôi trong Số 4 Phan Đăng Lưu mới được thả, đem thư HHT đến cho Hoài Bắc. Được thư Hoài Bắc sẽ nhẩy lên ngựa sắt lọc cọc đến chỗ Mai Thảo hay cho người nhà đi báo tin cho Mai Thảo biết là công an đã biết chỗ ở của Mai Thảo, nên đi chỗ khác ngay... Anh em Ba Trung chờ sẵn ngoài đường sẽ đi theo, ập vào nơi Mai Thảo ở, còng tay Mai Thảo ngon lành.

Tháng 10 năm 1977, khi tôi ngơ ngáo tay bị còng, theo những anh Công An Nhăn Dăn thành Hồ, đặt những bước chân đầu tiên đi vào con đường tù đầy nạn nhân Cộng sản, đặt những bước chân đầu tiên là lời nói văn huê để diễn tả việc loạng quạng đi vào trại giam số 4 Phan Đăng Lưu, các ông Mai Thảo, Hoài Bắc vẫn còn vất vưởng ở Thành Hồ. Nói rõ hơn là ngày tôi bị bắt các ông chưa vượt biên đi thoát. Sở dĩ công an Thành Hồ không tóm được Mai Thảo là vì Thành Hồ có trò vượt biên. Nhờ có vượt biên, Mai Thảo mới thoát được tù đầy cộng sản. Nếu không có vượt biên làm sao ông có thể lẩn tránh mãi. Bị Việt cộng vồ trượt, lùng bắt từ tháng 3 năm 1976 cho đến đầu năm 1978 ông mới đi thoát. Thành tích sống ẩn mình chờ đi chui của ông như dzậy là khoảng hai niên. Kỷ lục Guiness Mít.

Khi Ba Trung Huỳnh Bá Thành đưa cho tôi mảnh giấy bao thuốc lá, cây bút, bảo tôi viết thư cho Hoài Bắc theo ý hắn, tôi ngồi lặng đi nửa phút. Tôi thầm đọc Ba Kinh Kính Mừng xin Đức Mẹ Maria làm cho lá thư tôi viết không gây tác hại gì cho các bạn tôi. Tôi cẩn thận khẩn cầu cho chắc ăn. Trong lòng tôi không tin Hoài Bắc khi nhận được thư tôi – nếu Ba Trung cho công an giả làm tù được ra đến đưa thư thực sự – lại lóc cóc đạp xe đến chỗ Mai Thảo ở để phi báo ngay. Tôi chắc vậy, vì tôi biết Hoài Bắc cũng không biết rõ chỗ Mai Thảo ẩn náu như tôi. Dù có nhận thư báo, anh cũng chỉ chờ anh cháu liên lạc viên của ông bạn lại mới nói cho biết. Nếu tôi là Hoài Bắc tôi cũng làm như vậy.

Hai mươi mùa lá rụng đã qua kể từ ngày ấy – không nhớ là sáng, hay chiều, hay tối, trong phòng thẩm vấn số 4 Phan Đăng Lưu, cửa ngõ tù đầy của những công dân thành phố Hồ Chí Minh quang vinh, tôi cầm bút viết. Đại khái lời thư tôi còn nhớ:

Hoài Bắc,

Người ta đã biết chỗ ở của Mai Thảo. Mày đi cho nó biết ngay để nó đi chỗ khác. Ở lại đấy là bị vồ đấy.

H.H.T.

Tôi ký tờ thư ngắn. Ba Trung bảo tôi:

– Anh vẽ bông hoa dưới chữ ký anh.

Y xem tập thơ của tôi, thấy tôi thường vẽ bông hoa trên đầu bài, trên chữ ký. Tôi có con dấu bằng đồng hình bông hoa và chữ ký tôi khá đẹp. Khi đến bắt tôi, bọn công an lục soát lấy đi tất cả những con dấu hoa hòe hoa sói của tôi. Tôi vẫn nghĩ bông hoa là biểu hiệu tiền định của đời tôi. Hoa đẹp, hoa thơm, nhưng người ta không ăn được hoa. Đời tôi an nhàn, có chút tiếng tăm còm, có vài ba nữ độc giả ái mộ, vợ không đẹp lắm, con không khôn lắm nhưng cũng không quá ngu. Đời tôi đúng như bông hoa. Không có tiền. Phải chi thời trẻ tôi lấy dấu hiệu là trái sầu riêng hay trái mít. Tiếc thật. Lấy dấu hiệu là trái đu đủ cũng có ăn. Hoa thì hèn chi hổng nghèo phai nhạt nụ tầm xuân.

Dễ thôi. Tôi là người tù dễ bảo có hạng. Tôi vẽ bông hoa bên chữ ký theo lời của Ba Trung. Tôi tin dù thư có đến tay Hoài Bắc anh sẽ không tin đó là thư tôi. Vì tôi “mày tao” mí ông Mai Thảo, tôi không “mày tao” mí ông Hoài Bắc. Ông Hoài Bắc không mày tao với ai cả thì đúng hơn. Thư tôi “mày tao” vớí ông chắc vừa đọc ông đã thấy có cái gì khác lạ. Tôi có thể “toa, moa” nhưng nhất định không thể “mày, tao” vớí ông. Có vài lần tôi nghe ông Thanh Nam mày tao vớí ông Hoài Bắc, nhưng ông Hoài Bắc vẫn cứ “tôi, anh” với ông Thanh Nam.

Ba Trung có thực hiện mánh mung cho đàn em giả tù được thả đem thư rởm của tôi đến cho Hoài Bắc hay không? Chuyện đó tôi không biết và không bao giờ tôi biết. Hoài Bắc đã qua đời, hình như anh mất năm 1993. Ở Thành Hồ chúng tôi biết tin Hoài Bắc nhờ nghe đài VOA. Công an Việt cộng Ba Trung Huỳnh Bá Thành cũng đã chết.

Tôi bị giam 12 tháng 2 ngày trong xà lim, Biệt giam số 15 khu B hai tháng, Biệt giam 6 khu C Một mừời tháng. Khi sang phòng tập thể cuối năm 1978 tôi được anh em tù báo tin:

– Mai Thảo, Hoài Bắc, Lê Thiệp, Nguyễn Hữu Hiệu... đi thoát hết. Sang Mỹ cả rồi...

Nghe tin tôi nhẹ người.

Tuy không biết nơi ẩn náu của Mai Thảo tôi vẫn có thể chỉ cho Ba Trung bắt được anh. Số là vợ chồng tôi chỉ về ở căn nhà nhỏ của mẹ tôi vẫn bỏ không trong Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ ba tháng sau ngày nón cối, dép râu ngơ ngáo vào Sàigòn. Khoảng tháng Mười, tháng Mười Một đen hơn mõm chó năm 1975 một tối buồn, trời trở lạnh, tôi đạp xế lang thang trong những đường phố tang thương của Sàigòn thương yêu. Khoảng mười giờ khuya ở đường Phan Đình Phùng, đèn tắt tối om, tôi gặp ông Mai Thảo, Hoài Bắc trên hai con ngựa sắt. Chúng tôi vào tiệm Nghi Xuân đớp phở. Khi đang dùng dằng chưa nỡ rời tay mà cũng chưa biết nên và có thể kéo nhau vào đâu chơi, chúng tôi nghe người gọi tên:

– Hoài Bắc... Mai Thảo... Hoàng Hải Thủy...

Gọi mà gọi lớn tiếng chứ không vừa đủ nghe. Ông Đoàn Khê – một tên khác là Khê Vinh – cầu thủ bóng tròn nổi tiếng trước năm 1954 – trên lưng ngựa sắt ghé đến. Chúng tôi trao đổi vài lời trên lề đường vắng.

– Bọn đá bóng Bắc Kỳ vào chúng nó có tìm ông không?

– Có chứ. Về bóng tròn thì tôi là Hồ Chí Minh của chúng nó...

Đó là lời tuyên bố giữa đường của ông Đoàn Khê, tức Khê Vinh, cựu cầu thủ Bắc Việt. Ba ông Khê Vinh, Mai Thảo, Hoài Bắc đều đã ra người thiên cổ.

Đêm ấy trời quá khuya, tôi theo ông Mai Thảo về ngáo một giường mí ông trong căn nhà một ông anh của ông phú lỉnh được để lại. Sáng hôm sau, tôi rủ Mai Thảo về nhà tôi chơi.

– Mẹ tao đau, vợ tao lên hầu bà cụ. Có mình tao ở nhà. Trưa mình đi đớp thịt chó.

Khu Ông Tạ Bắc Kỳ Ri Cư tám mươi phần trăm là dân công giáo, nổi tiếng khắp Sàigòn về mục Cầy Tơ. Ngã Ba Ông Tạ có một điểm độc đáo không nơi nào có là Ngã Ba được gọi bằng tên ông thầy thuốc hành nghề ở đó. Ông thầy thuốc tên là Tạ vẫn còn sống, vẫn ngày ngày hành nghề, nhân dân ta đã lấy tên ông đặt cho toàn khu. Không có văn bản địa đồ chính thức nào ghi địa danh ông Tạ nhưng địa danh ấy nằm trên cửa miệng của người Sàigòn từ những năm 1950 đến chưa biết bao giờ.

Trên đường đi, chúng tôi gặp Nguyễn Đình Toàn. Toàn đã biết nhà tôi, anh bảo:

– Chúng mày về trước. Trưa tao đến.

Mai Thảo chỉ đến nhà tôi ở Cư xá Tự Do có lần ấy. Khi nhờ anh cháu đến nhà tôi mượn truyện, anh chỉ có thể chỉ đường lờ mờ.

Anh cháu của Mai Thảo nói với tôi:

– Ông cậu tôi đâu có nhớ số nhà. Ông chỉ nói là ông ở trong cư xá Tự Do trước hồ tắm Cộng Hòa. Tôi có người quen ở ngay cùng dẫy với ông, chỉ cách nhà ông có mấy nhà. Tôi hỏi là trúng phóc.

Người quen của anh cháu Mai Thảo ở ngay gần nhà tôi. Mỗi lần đến nhà tôi, anh đều ghé nhà ấy trước. Tôi có thể khai với Ba Trung về người quen anh ở cùng cư xá với tôi. Nếu tôi khai biết đâu anh cháu Mai Thảo đã chẳng bị công an VC theo rõi và biết đâu nhà văn lớn đã chẳng vì thế mà theo tôi vào Số 4 Phan Đăng Lưu, biết đâu Mai Thảo đã chẳng ở lại với quê hương, biết đâu giờ này tên ông đã chẳng nằm trên một bảng đường nào đó ở thủ đô tị nạn. Biết đâu v.v...??

Hai mươi tháng tù đầy kéo dài trong ba niên. Cuối 1979, trở về căn nhà nhỏ Alice kể cho tôi nghe:

– Ba Trung nó gọi em lên Sở. Nó dụ em chỉ chỗ cho nó bắt Mai Thảo. Nó nói bóng gió là nếu em muốn anh sớm được tha thì em phải giúp chúng nó bắt Mai Thảo. Nó gọi em lên sở từ 9 giờ sáng để em chờ tới 11 giờ nó mới ra tiếp em. Nó nói đủ thứ ba lăng nhăng đến bốn, năm giờ chiều mới cho em về. Nó nói: “... Chúng tôi sẽ xây dựng nước Việt Nam thành một vườn hoa bên bờ Thái Bình Dương...”. Nó còn hỏi em đã coi phim Chiến Tranh Và Hòa Bình của Liên Sô chưa? Nó nói phim chiến tranh và hòa bình của Liên Sô mới thật vĩ đại. Phim Mỹ không đi đến đâu. Nó còn nói: “Cái gọi là quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nó đã chết rồi. Anh ấy cứ đào nó lên anh ấy thương xót nó...”. Em điên lên em nói: “Nếu mà nó đúng thì nó có chết đến một trăm năm cũng vẫn đào nó lên. Việt Nam Cộng Hòa mới mất có mấy năm nay mà...”. Nó dọa em: “Chị mới là người đáng bị chúng tôi bắt...”. Em nói: “Các anh làm ơn bắt ngay tôi đi. Tôi mừng. Bị bắt là tôi hết lo. Bây giờ tôi phải lo nuôi chồng tôi ở trong tù, lo nuôi các con tôi. Tôi không sợ các anh bắt đâu...”

Nàng cay cú nhiều vì bị Ba Trung quấy rầy. Nàng từng hẹn hò:

– Nếu có ngày đổi đời, phe ta lại nắm quyền, ai giành cái gì thì giành, em giành thằng Ba Trung. Em bắt nó về em xích cổ nó ở chân giường, em cho nó ăn uống tử tế nhưng em bắt nó suốt ngày phải nói câu: “Xây vườn hoa bên bờ Thái Bình Dương...”

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 21)

“Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh khởi tố vụ án gián điệp hoạt động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh...”

Đó là câu đầu tiên trong cái gọi là bản khởi tố Bọn Gián Điệp của Sở Công An Thành phố mang tên bác Keo. Tôi đọc được mấy câu này trên tập khởi tố do chị nhân viên cái gọi là Viện Kiểm Sát Nhăn Dăn vào nhà tù Chí Hòa gọi tôi ra hỏi đôi câu ra cái điều viện cũng chú ý đến người tù, dù là tù phản động. Bản khởi tố ấy đặt ngược với tôi, vì mắt yếu tôi chỉ đọc ké được mấy dòng đầu.

Cứ như những gì hai anh Cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên kể trong NTBKCB thì anh em chúng tôi chỉ can tội viết và gửi một số bài viết ra nước ngoài. Nhưng năm 1986 khi định đưa chúng tôi ra tòa, bọn Công An Thành Hồ, hung hăng con bọ xít khép chúng tôi vào tội gián điệp. Chúng đòi giết một người, cho tù chung thân một người trong chúng tôi.

Nhưng vở kịch “Vụ án gián điệp thành Hồ” do bọn Công An Thành Hồ dàn dựng như quả bóng xì hơi, đầu voi đuôi chuột. Bọn chúng la lối với ý định giết người nhưng rồi chúng tẽn tò, xụi lơ v.v... Đó là những chuyện đã xưa rồi.

Theo thủ tục những cái gọi là Truyện Vụ Án bao giờ cũng có vài chương đề cao cá nhân vài tên công an: “những chiến sĩ công an cương cường bắt, bỏ tù nhân dân không mệt mỏi”. Trong đoạn dưới đây trích trong NTBKCB ta thấy nói đến đồng chí Tư Tuân, người phụ trách đơn vị công an “chống phá hoại tư tưởng”

Ban này có cái tên là “Ban Công tác chống phá hoại tư tưởng”. Đại khái “chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn tốt đẹp, chủ nghĩa cộng sản sẽ đem lại hạnh phúc cho loài người”. Chuyện ấy chắc hơn bắp rang, chắc hơn cua gạch. Kẻ nào nói ngược lại, hay chỉ cần tỏ vẻ nghi ngờ thôi, kẻ ấy can tội “phá hoại tư tưởng”. Phải bắt giam kẻ ấy để bảo vệ tư tưởng chủ nghĩa cộng sản là đỉnh cao trí tuệ loài người.

Trích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút:

Chỉ huy trưởng rút từ trong ngăn kéo ra một xấp báo lá cải của bọn phản động lưu vong in ở nước ngoài để trên bàn.

– Anh Tư đã xem mấy thứ này chưa?

– Dạ có. Tôi vẫn nhận được thường xuyên nhưng...

– Tôi biết. Mấy thứ giấy lộn này có đáng gì, nhưng đó là khói của đốm lửa cần dập tắt. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải chú ý tới nó.

– Vâng, Tư Tuân vừa nói, vừa lắc đầu – Thú thật với anh, tôi chán ngấy mà vẫn phải đọc. Anh em Việt kiều về thăm quê hương cũng nói với tôi, họ chẳng bao giờ thèm để mắt tới món hàng ôi đó!

...

Tư Tuân đọc lướt mấy trang báo. Cũng những luận điệu vu cáo rẻ tiền. Cả cái lối hành văn, thuật ngữ đã quen thuộc đối với anh. Từ khi được giao phụ trách đơn vị này, anh đã chịu khó đọc hàng lô sách, tiểu thuyết của số “nhà văn” cũ và sách báo mới được bọn phản động lưu vong ấn hành ở nước ngoài. Thật là chán đến buồn nôn...

Hai đoạn chữ in nghiêng trên đây được trích ở trang 79 NTBKCB. Anh cu Tư Tuân nói anh đọc và thấy “buồn nôn” thì cũng đúng thôi. Toàn là những gì viết về cái xấu, cái bẩn, cái tàn ác của Việt cộng, anh không thấy buồn nôn làm sao được. Có điều anh nói đó toàn là “những luận điệu vu cáo rẻ tiền” thì chúng tôi không dám đâu. Tội của mấy ảnh nhiều quá rồi. Cần gì chúng tôi phải vu cáo mấy ảnh. Hai nữa, chúng tôi muốn bịa thêm ra tội để vu cáo mấy ảnh cũng hổng có được. Loài người ác độc nghĩ ra được bao nhiêu cách hành hạ nhau, làm nhau đau đớn, giết nhau... mấy ảnh mần ráo trọi. Mấy ảnh còn sáng chế ra nhiều tội ác mới nữa mà loài người hổng thể nào ngờ được có những tên cũng nhận là người mà làm nổi. Sức mấy mà chúng tôi vu cáo nổi mấy ảnh.

Bọn công an Thành Hồ vẫn theo dõi anh em chúng tôi từ những ngày đầu chúng chiếm được Sàigòn. Tôi chắc đến năm 1982 chúng mới mở cuộc điều tra riêng về chúng tôi. Trong số “sách báo mới của bọn phản động lưu vong ấn hành ở nước ngoài” được nói đến trong đoạn trên đây chắc chắn có tập “Tắm Mát Ngọn Sông Đào

Trích: Tắm Mát Ngọn Sông Đào. Thơ, văn, nhạc sáng tác từ quốc nội
Nhà xuất bản Lá Bối in lần thứ nhất, Paris 1981.

Lời mở đầu

Những giai đoạn khó khăn của đất nước dù kéo dài đến mấy cũng không làm tiêu hao được niềm tin của chúng ta nơi khả năng của dân tộc, của cả một dân tộc. Đành rằng chiến tranh, tình trạng áp bức và nghèo khổ có làm băng hoại đi nhiều giá trị tinh thần, nhưng không phải vì vậy mà những viên kim cương bất hoại không được tiếp tục phát triển giữa lòng dân tộc. Ngày mai khi đất nước lại đi vào giai đoạn sáng sủa mới ta lại thấy được khả năng và tiềm lực của giống nòi. Sống xa quê hương, ta không thấy và không cảm được một cách trực tiếp và thường xuyên nỗi đau, niềm thương của người trong nước, vì vậy ta vẫn phải thỉnh thoảng về tắm lại trong dòng sông dân tộc để tự tìm lấy mình, để tự mình đánh mất mình, và như thế cũng có thể đóng góp được phần mình vào sức sống đi lên của dân tộc. Văn nghệ sĩ sống trong nước chính là những người có thể giúp ta rung cảm cái rung cảm của dân tộc, bởi họ chính là một trong những thành phần dễ bị rung cảm nhất bởi cái rung cảm chung. Đọc họ, nghe họ, ta có cảm tưởng được chia xẻ những nỗi đau, niềm thương của dân tộc, và như thế ta cũng có cảm tưởng được đất nước đưa hai cánh tay cứu chuộc ta về.

Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh...

Nước mát ở ngọn sông đào và trái sim chín ở rừng xanh bao giờ cũng còn đó đợi ta. Ta có tắm mát và ta có ăn sim chín thì ta mới còn là người Việt Nam, dám nói, dám làm cho đất nước, cho dân tộc.

... Những tác phẩm Lá Bối trình bày trong tập này đều xuất phát từ quốc nội, trong đó nhiều bài đã được đưa ra từ chốn lao tù. Bạn đọc sẽ dễ dàng nhận ra sự kiện này. Một điều nữa mà ta nhận thấy khi đọc là các tác giả đã chứng tỏ một sức kiên nhẫn và chịu đựng lớn lao; nhiều người đã biết nhìn bằng con mắt từ bi hơn là con mắt căm thù. Chính ưu điểm là ở chỗ đó. Sức mạnh của dân tộc không nằm ở chỗ giận dữ hung hăng bên ngoài mà nằm ở khả năng bền bỉ chịu đựng và ý chí thắng vượt hoàn cảnh.

Mong rằng những giọt máu, những dòng lệ và những tiếng cười của họ có thể giúp chúng ta vượt thoát trạng thái vô tâm thụ động và quên lãng, đồng thời giúp ta phương tiện cứu chuộc lấy chính chúng ta.

Ông bạn Sáu Bó Gập, xưa là sĩ quan Dù, hiện làm việc tại Đại học NOVA, Virginia nói với tôi:

– Tôi đọc anh từ những năm tôi mới nhập ngũ, đọc anh dài dài trong bao nhiêu năm. Những năm 80 khi đọc mấy bài viết từ trong nước gửi ra ký tên Con Trai Bà Cả Đọi, tôi hỏi Trần Tam Tiệp, Con Trai Bà Cả Đọi có phải là anh không, hắn chịu ngay. Ngôn ngữ của anh nó lù lù ra đấy, làm gì bọn Việt cộng nó chẳng biết...

Ông bạn Sáu Bó Gẫy khác nói:

– Đọc những bài anh viết gửi ra tôi lấy làm lạ. Tôi tự hỏi, anh cu này không sợ Việt cộng nó bỏ tù hay sao mà dám viết phoong phoong gửi ra nước ngoài như thế này?

Nhiều ông, phải nói rất là nhiều ông, khi còn kẹt trong nước thì nín khe, một lá thư ngắn gửi ra nước ngoài cũng không viết, có ông khi được người đem tiền cứu trợ từ nước ngoài gửi về đến cho cũng sài lắc, không lãnh, dù đang đọi, sợ mang vạ. Các ông giữ thân: không dính dáng gì đến Việt cộng để ÔĐiPi Mẽo có cớ từ chối không cho mình và vợ con sang Mẽo, hai: không làm gì để cộng sản có cớ bắt lại, đi nằm ấp thêm vài niên, hỏng mất cơ hội đưa vợ con sang Xê Kỳ. Tám anh em chúng tôi chẳng có tài cán cũng chẳng can đảm hơn ai, những gì chúng tôi viết gửi ra ngoài cũng chẳng có gì đáng gọi là giá trị, nhưng ít nhất chúng tôi cũng đã viết, đã gửi tác phẩm ra phổ biến ở nước ngoài, gọi là nói lên một trong trăm ngàn nỗi đau thương, tuyệt vọng, căm hận của đồng bào ta sống trong kềm kẹp của cộng sản.

Năm 1980, tôi được người bạn cho mượn quyển tự truyện của Stefan Zweig. Ông viết quyển này vào khoảng năm 1944. Ông bà nguyên là người Đức gốc Do Thái, phải bỏ nước đi tị nạn, Hít Le Nazi muốn giết hết người Do Thái. Viết xong quyển tự truyện hồi ký này, hai ông bà cùng tự tử ở nước Anh. Trang đầu quyển sách in bức thư nhà văn viết để lại cho người đời. Hai ông bà thấy chiến tranh quá ghê rợn, dân Do Thái bị tàn sát quá mức khủng khiếp. Ông viết:

Các bạn còn niềm tin ở ngày mai tươi sáng, các bạn ở lại. Chúng tôi tuyệt vọng, chúng tôi đi thôi. Vĩnh biệt các bạn...

Trong căn nhà tối của vợ chồng tôi ở Cư xá Tự Do, năm 76, 77, có lần Alice nói với tôi: “Hay là chúng mình cùng chết đi anh...”. Chúng tôi tuyệt vọng đến nỗi chúng tôi cũng có ý định chết như ông bà Stefan Zweig, nhưng chúng tôi không cùng tự tử được như ông bà. Định mệnh an bài. Ông bà Zweig mà tự tử chậm một tí thôi, chỉ chưa đầy một mùa lá rụng sau ông bà đã thấy Đức Quốc Xã sụp đổ không còn viên gạch, Hít Le Ria Cứt Mũi chết tồi tàn hơn con chó chết... Vợ chồng Anh Con Trai Bà Cả Đọi Cư xá Tự Do Ngã Ba Ông Tạ Cờ Tây Leo Dây Xe Kiếm Đen cửa Nhà Dây Thép Gió tuy ngu ngây song cũng biết như ai cái chân lý ngàn đời: “Chết là thoát. Chết là hết khổ. Chết là quỵt hết nợ nần. Chết là những tên khốn nạn không còn hành hạ được mình. Mình chết là chúng nó trơ mõm...”. Nhưng anh chị hổng chết được bởi vì trước hết anh chị nghèo quá, người ta nghèo không có miếng đất để cắm dùi, anh chị – những năm 80 – nghèo đến nỗi không có cả cái dùi đem đi tìm đất cắm nhờ. Sống đời dân Ngụy giữa lòng Thành Hồ những năm 80 muốn tự tử cho êm ả đôi chút cũng khó chứ không phải dễ.

Tôi đọc bản dịch Việt ngữ truyện “Lá Thư Của Người Không Quen Biết” từ trước 1945. Đến năm 1954, tôi đọc bản tiếng Pháp “Lettre d’une Inconnue“. Truyện tình cảm động ướt át thuộc loại truyện diễm tình những năm 1920. Một ông nhà văn nổi tiếng Áo quốc, quốc gia có dòng sông Đa Nuýp Bờ Lơ, tuổi đời chừng Bốn Bó, độc thân, một tối về nhà nhận được thư của một người phụ nữ không quen biết. Người phụ nữ viết thư cho ông kể cô ta là độc giả ái mộ ông, cô coi ông còn hơn cả thần tượng. Cô ở với bà mẹ gần nhà ông nhưng ông đâu có biết cô là ai. Còn cô, tất nhiên là cô biết ông. Không những cô chỉ biết ông mà thôi, cô còn mê ông nữa. Cô đọc văn ông và cô mê đến nỗi cô muốn được gần ông, được ông yêu, dù chỉ là được ông yêu một lần. Cơ hội đến với cô. Một tối khuya cô đứng tránh mưa trong cửa vào tòa nhà trên lầu có phòng của nhà văn lớn, cô gặp ông đi về. Cô chào ông và ông chào lại. Đôi người bắt chuyện nhau. Cô độc giả ái mộ này con nhà lành, còn nguyên trinh, đẹp, có duyên, có học. Ông nhà văn mời cô lên phòng. Cô lên theo ông. Ông mời cô ăn tối, cô nói với ông về cảm nghĩ của cô đối với những tác phẩm của ông. Và rồi chuyện phải đến đã đến. Nam nữ gặp nhau, thi văn đàn địch gì thì rồi cũng phải sát lại làm một. Cuộc tình văn nghệ, văn gừng, văn sĩ, nữ độc giả ái mộ thơm hơn múi mít êm đềm diễn ra không phải trên bàn viết với cái máy đánh chữ hay máy computer mà là trên giường với nệm bông, mền gối.

Thư người phụ nữ không quen biết viết tiếp: “Sáng ra anh còn ngủ, em lặng lẽ ra đi. Được gần anh một đêm, nhà văn thần tượng của em, được anh yêu, em thỏa mãn rồi. Em không còn đòi hỏi gì hơn. Em sống suốt đời em với cảm giác hạnh phúc khi em được anh yêu...”. Thế rồi cô viết tiếp: sau đêm yêu đương ấy cô có thai. Nhưng cô không cho nhà văn biết cô có thai. Cô chửa rồi cô đẻ, cô đẻ và cô đi mần cô nuôi con cô. Cô thương đứa nhỏ ghê gớm. Nhưng con cô và con nhà văn lớn bị bệnh... “... Khi em ngồi viết thư này cho anh con chúng ta sắp chết. Đêm khuya. Trời lạnh quá. Anh yêu ơi... Con của chúng ta đã chết rồi...”

Thư đến đây là hết. Ông nhà văn bàng hoàng. Người viết không đề tên, không cho ông biết địa chỉ, số phône. Đúng là thư của người nữ không quen biết. Mà người nữ không quen biết ấy lại là một nữ độc giả ái mộ, người từng ân ái với ông, người mẹ đứa con của ông mà ông không hay biết.

Không thể biết mức độ xúc cảm của ông nhà văn khi ông đọc bức thư ấy cao thấp chừng nào, cũng có thể ông tỉnh queo coi thư như một truyện ngắn. Chỉ biết những năm tuổi đời vừa ngoài một bó đọc truyện “Thư của người không quen biết” tôi thấy cuộc đời tư của những ông nhà văn mê ly hất hủi quá. Mấy ông được đàn bà đẹp yêu mê còn hơn cả kép hát. Chính vì bị mê hoặc bởi những truyện như “Thư của người không quen biết” nên ngay từ số tuổi chưa biết đàn bà với con gái giống nhau, khác nhau ra sao tôi đã mơ giấc mộng hoang tưởng cực kỳ là mai sau ta lớn ta mần văn sĩ.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 22)

Thế rồi, những mùa lá rụng theo nhau qua... Những năm tuổi đời ba bó có dzợ, có con, không có nhân tình, không dzợ bé, có công ăn, có việc làm báo, viết truyện giữa thành phố Sàigòn đẹp lắm Sàigòn ơi đọc lại truyện “Lettre d’un Inconnue” tôi nghĩ: “Ông văn sĩ tiểu thuyết hóa hơi quá. Đồng ý là các ông nhà văn lớn có nhiều nữ độc giả thơm như múi mít ái mộ nhưng ái gì thì ái đâu có ái quá xá ể như cô nữ sinh trong truyện này.” Bạn có thể nói tôi nghĩ như thế vì ghen tuông, vì tôi hổng được nữ độc giả nào ái mộ nên tôi ghen mí những ông nhà văn lớn. Bạn nói đúng một nửa. Quả thực là cả đời viết lách mấy chục mùa khoai lang, khoai sọ của tôi, tôi không có qua một nữ độc giả nào ái ố í é tôi cả, song thực tình tôi cũng rất muốn thấy những ông nhà văn lớn được nữ độc giả ái mộ đến cái độ cực kỳ như người nữ độc giả trong truyện “Lettre d’une Inconnue“. Mấy ông được nữ độc giả yêu thì có thiệt hại gì đến của chìm, của nổi của tôi đâu. Nhưng tôi nghi không có hoặc ít nhất có nhưng không đến cái độ kịch liệt đem thân nữ độc giả trinh nguyên con gái nhà lành tình nguyện hiến dâng một đêm cho nhà văn rồi lặng lẽ ra đi khỏi đời chàng, ôm bầu tâm sự, yêu con chàng cho đến đêm con chết mới chịu ngồi vào bàn cầm bút viết thư cho chàng. Trong cuộc đời thực tế phũ phàng ta thấy có nhiều ông văn sĩ lớn nhỏ bị vơ, bị người yêu bỏ rơi thảm hại thấy mồ đi.

Như đã kể hơn một lần: tôi có tật viết lang thang chuyện nọ dọ sang chuyện kia. Tôi không có ý định viết về nhà văn Stefan Zweig để nói về chuyện những ông văn sĩ nổi tiếng được nữ độc giả ái mộ yêu mê. Đây là chuyện về ông Stefan Zweig mà tôi muốn viết:

Những năm 1927, 1928 ở Nga Sô, Stalin đã lên nắm chính quyền khá lâu, một số nhân sĩ trí thức Âu châu được mời sang thăm nước Nga để thấy tận mắt cuộc sống hồ hởi của nhân dân Nga dưới chính thể xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh, tiến bộ, để thấy những xưởng máy hoạt động rộn rịp, những nam nữ công nhân Xô-viết hân hoan làm việc, những trường học sáng sủa, sạch sẽ, học sinh học không mất tiền, những bệnh viện khang trang, bác sĩ phục vụ tận tâm, lương y như từ mẫu, những công dân có bệnh vào nằm như thượng khách quốc gia, hưởng mọi phương tiện y khoa mà không phải chi một đồng kopek nào v.v... Trong số nhân sĩ trong phái đoàn thăm Nga Sô có nhà văn Stefan Zweig.

Ông viết: “... Một tối về phòng khách sạn, tôi thấy trong túi áo của tôi có bức thư không biết ai đã bỏ vào đó. Thư viết vắn tắt: “Ông đừng có tin những gì chúng nó bầy ra cho các ông thấy. Cuộc sống thực ở xứ này không như thế đâu. Thê thảm lắm. Chúng tôi khổ cực lắm...”

Một buổi tối cuối năm trời lạnh ở Thành Hồ – năm 1981, 1982 – ông bạn chở tôi trên chiếc xe Bridgestone cọc cạch của ông – ở Thành Hồ những năm 80 còn đi xe gắn máy được là dân hách – tôi ấm lòng khi nghe ông nói:

– Thằng nào giỏi chửi cộng sản ngay ở đây nè. Sang Pháp, sang Mỹ thằng nào chửi cộng sản chẳng được.

Đọc bài Lời Mở Đầu đăng trên trang đầu tập Tắm Mát Sông Ngọn Đào tôi sướng rên mé đìu hiu khi thấy mình được gọi là “Kim Cang Bất Hoại”. Các vị trong Nhà Xuất bản Lá Bối dùng chữ tất nhiên phải đúng. Chắc quý vị dùng “Kim Cang Bất Hoại” để gọi những ai kia, không phải để gọi tôi. Tôi không kim cang bất hoại một ly ông cụ nào cả, tôi mềm hơi đậu hũ. Bị công an Việt cộng gọi từ xà lim ra phòng thẩm vấn, tôi mềm hơn bún thiu, tôi nhận tội liền tù tì tút suỵt. Không những chỉ nhận những gì bị cộng sản coi là tội mà thôi, tôi còn khai thêm những việc tôi làm mà họ không biết. Tôi không chối vì tôi thấy tôi chẳng có gì phải xấu hổ vì những việc tôi làm. Tôi nói với họ: “Tôi bắt buộc phải viết thôi. Mà viết là tôi phải gửi ra nước ngoài để phổ biến. Nếu không làm thế, tôi thấy tôi là thằng không có xương sống...”

Tôi nhận tội vì tôi biết tôi có nhận hay chối họ đã định giam tôi mấy niên là họ sẽ giam tôi đủ từng ấy niên. Bắt chước cộng sản đàn anh Nga, Tầu, Việt cộng có một cái gọi là Ủy ban Luận tội. Thành phần ban này gồm nhân viên công an, viện kiểm sát, tòa án. Kể là ba, nhưng chỉ là một. Ba anh đảng viên này quyết định án tù của người bị bắt. Người tù không bị đưa ra tòa sẽ chịu án tập trung cải tạo. Án này có cái khó chịu là không biết mức án mấy niên, án có thể co rãn, thường chỉ rãn chứ không co, cứ mòn mỏi ở trại khổ sai cải tạo mút chỉ cho đến ngày được gọi cho ra về... Người tù bị đưa ra tòa sẽ bị bọn chánh án tay sai áp dụng mức án đã được cái gọi là Ủy ban Luận tội quyết định. Mức án của người tù đã được định trước khi tòa xử. Ra tòa, nếu người tù tỏ thái độ cương nghị, bất chấp cái gọi là tù đầy xã hội chủ nghĩa, bọn chánh án thường tăng mức án cao hơn, chẳng bao giờ chúng xử người tù dưới mức án phạt bọn Ủy ban Luận tội đã định trước.

Tòa án Việt cộng chỉ là nơi chúng dựng lên dễ tuyên những cái án đã định trước. Việc biện hộ, bảo vệ quyền lợi của người bị cáo trước tòa án cộng sản là chuyện vô ích. Tôi khó chịu khi thấy nhiều tổ chức tranh đấu nhân quyền thế giới vẫn đòi Việt cộng phải đưa những người tù lương tâm ra xử trước tòa. Đưa ra xử trước tòa án Việt cộng thì người tù lương tâm được lợi gì? Vẫn là án tù đó. Thay vì nó ỉm đi, nó đưa anh em đi tù mười niên, nó cho anh em ta ra tòa một buổi và nó tuyên án mười niên. Cũng vậy thôi. Muốn bảo vệ có hiệu quả đôi chút người tù chính trị, người ta phải đòi có luật sư đến với người tù ngay từ buổi thẩm vấn đầu tiên. Ít nhất người tù cũng phải được gặp riêng luật sư của mình vài lần trong thời gian giam cứu. Đòi nó đưa ra tòa xử và đến lúc đó mới gửi luật sư đến nói láp nháp dăm câu là việc làm ngớ ngẩn. Đòi cộng sản cho tù nhân chính trị được có luật sư, được gặp riêng luật sư trong thời gian giam cứu là chuyện Việt cộng nó không bao giờ tưởng tượng có thể có, nói gì đến chuyện nó chấp nhận.

Năm 1977 khi đến bắt tôi, bọn công an Thành Hồ vớ được tập thơ Ễnh Ương tôi để ngay trên bàn. Tập thơ này hiện nằm trong Kho Tang Vật Sở Công An Thành Hồ. Ba Trung Huỳnh Bá Thành nói với tôi trong cuộc thẩm vấn:

– Nếu anh làm thơ, hay anh viết bất cứ cái gì chống chúng tôi mà anh cất đi, chúng tôi không bắt anh đâu. Anh gửi ra nước ngoài thì chúng tôi phải bắt anh thôi...

Tù Đậu Hũ ngồi im re, trong bụng nghĩ thầm: “Anh đừng nói chuyện ruồi bâu, kiến đậu. Tôi viết rồi cất đi làm sao anh biết mà bắt tôi được. Nói vớ vẩn!” Tôi không nói ra ý nghĩ của tôi vì tôi thấy: nói ra làm quái gì, chỉ dậy khôn chúng nó. Dậy khôn cho nó là việc mình không nên làm.” Chẳng hạn như khi Ba Trung nói đến tên ông William Colby, Y gọi là “... Côn Bai...” tôi không sửa là “Côn Bi”. Tôi nghĩ thầm: “Lạ nhỉ. Nó biết nói Ken Nét Đi sao nó không gọi là Côn Bi mà gọi là Côn Bai...”

Huỳnh Bá Thành có lẽ vì ít học nên có mặc cảm tự ti, thỉnh thoảng lại nhét cho bằng được vài câu tiếng Mỹ vào những trang truyện hắn viết. Trong một đoạn tả Cớm Cộng thẩm vấn tù nhân, Huỳnh Bá Thành viết:

– Anh tên gì?

– ...

– Không. Cho tôi biết full name của anh kia...

Công an Việt cộng hỏi cung tù nhân Mít trong ngục tù thành phố Hồ Chí Minh quang vinh mà tự dưng tương vào hai tiếng full name. Thật quái dị.

Trong một buổi hỏi cung tôi năm 1977, 1978, Ba Trung hỏi:

– Anh nghĩ có thể nào những tổ chức văn hóa tư bản, như giải Văn Chương Nobel chẳng hạn, nó trao giải thưởng cho nhà văn ngụy trong nước để làm khó nhà nước ta không?

Tôi nghĩ đến Mai Thảo. Chắc Ba Trung khi nói đến câu đó cũng nghĩ đến Mai Thảo. Năm ấy, Hà Nội chưa có vụ Nguyễn Chí Thiện cầm tập thơ chạy vào gửi ở Tòa Đại Sứ Anh Quốc. Tôi nghĩ: “Làm mẹ gì có chuyện ấy. Nếu Nobel mà phát giải nhăng cuội như vậy thì Nobel đâu còn là Nobel nữa. Cộng sản Tàu chiếm Trung Hoa đã gần hai mươi niên rồi có tên văn sĩ Tầu ca tụng chủ nghĩa cộng sản hay chống chủ nghĩa cộng sản nào được Giải Văn Chương Nobel đâu? Việt Nam còn khuya...” Tôi nghĩ thế nhưng nói chuyện đó với Ba Trung làm quái gì? Tôi chỉ trả lời lửng lơ con cá vàng:

– Tôi chắc không có chuyện đó đâu.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 23)

Chúng tôi, bọn văn nghệ sĩ Sàigòn bại trận, chúng tôi có anh có em. Trong nhục nhã, trong khổ cực, chúng tôi vẫn có nhau, chúng tôi vẫn là những văn nghệ sĩ Sàigòn. Cảnh “phi cầm, phi thú” hiện ra rõ nhất trong những cái gọi là buổi sinh hoạt tại Hội Văn Nghệ Sĩ Thành Phố Hồ Chí Minh, trụ sở đặt trong tòa nhà có vườn rộng trước 75 là một cơ sở nghe nói là Tình báo của Việt Nam Cộng Hòa, góc đường Trương Minh Giảng, Tú Xương. Bọn trong Ban Chấp Hành cái gọi là Hội Văn Nghệ, thường là Tổng thư ký Việt Phương, lên Ủy ban thành phố họp nghe chỉ thị gì đó về phổ biến với các văn nghệ sĩ. Những buổi như thế gọi là buổi sinh hoạt.

Trong những buổi sinh hoạt này bọn trong Ban Chấp Hành Hội ngồi hàng ghế chủ tọa đối diện với hàng ghế của văn nghệ sĩ Sàigòn. Hai bên ngồi đối mặt với nhau. Hai anh Kỳ Nhông, Kỳ Đà Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn cũng dự buổi sinh hoạt. Hai anh không thể ngồi cùng hàng ghế hay ngồi sau lưng bọn Giải Phóng Miền Nam. Sức mấy chúng nó cho hai anh ngồi chung. Hai anh không ngồi chung chỗ với bọn chúng tôi, chắc hai anh sợ ngồi với chúng tôi hai anh xấu hổ...

Hai anh ngồi sau đít bọn Văn nghệ Giải phóng đối diện với bọn văn nghệ sĩ Sàigòn bại trận không được, hai anh không muốn ngồi chung với bọn văn nghệ sĩ Sàigòn nhục nhã. Dzậy thì trong những buổi họp chia hai phe rõ rệt mặt đối mặt, chính tà hai phái như dzậy hai anh Kỳ Nhông đặt đít ở đâu???

Hai anh ngồi ở hai ghế bên cạnh. Hai anh không ngồi trong phe giải phóng, hai anh cũng không ngồi trong phe Việt Nam Cộng Hòa bại trận.

Dường như Phạm Trọng Cầu – Phạm Trọng: Em ra đi mùa thu... mùa thu không trở lại... cũng đã được sáng mắt, sáng lòng đôi chút trước cái gọi là xã hội chủ nghĩa do cách mạng vô sản dựng lên vì thấy nó bê bối, bết bát, dơ dáy quá đỗi. Nhiều anh chị nhờ gia đình có tiền cho sang Tây ăn học đớp phải bả xã hội chủ nghĩa, tưởng bở, hung hăng con bọ xít, theo đuôi cộng sản mần “cách mạng”, bị cộng sản cho hộc máu, vỡ mặt khi chúng cướp được chính quyền. Điển hình và đại diện cho giới “phi cầm, phi thú” này là Mợ Dương Quỳnh Hoa. Nghe nói chỉ sau vài mùa kỷ niệm bác Hồ đầu thai Phạm Trọng đã có vẻ thất vọng. Phạm Trọng có mần lời ca theo điệu nhạc bài Quê Em – Quê em miền Trung du. Đồng quê lúa xanh rờn. Giặc tràn lên cướp phá. Anh về quê cũ. Đi diệt thù giữ quê. Giặc tan đón em về – Lời ca của Phạm Trọng theo nhạc Quê Em có câu mở đầu:

Ba tôi trồng khoai lang...
Đào lên thấy khoai mì
Thật là điều phi lý...

Những anh Kỳ Nhông đi theo cộng sản mần “cách mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa” tưởng bở: Xã Hội Chủ Nghĩa nhất định phải tốt đẹp hơn xã hội tư sản dân chủ. Mấy ảnh vỡ mộng khi thấy sao nó bẩn quá. Thứ củ có thể ăn được người Bắc gọi là sắn, người Nam gọi là mì hoặc khoai mì. Những chị đi bán rong trong những xóm nghèo thường rao: “Ai khoai lang, khoai mì...” Thứ củ người Nam kêu là củ sắn, người Bắc gọi là củ đậu. Ông bố mấy anh Kỳ Nhông trồng khoai lang, đào lên thấy khoai mì cũng còn là khá, ông nội anh không có trồng khoai lang, khoai mì, ông nội ác ôn của anh trồng người. Các em nhỏ bất hạnh bị đem ra trồng đầu vùi dưới đất, chân chổng lên trời. Ở những cánh đồng cách mạng vô sản ấy, khi đào đất lên người ta không thấy khoai mì, khoai lang chi cả, người ta chỉ thấy có sọ người, có xương người và máu người.

Lo việc mười năm trồng cây
Lo việc trăm năm trồng người.

Câu nói của một Quân Tải Tàu nào ngày xưa, được ghi trong sách Minh Tâm Bảo Giám do ông Đoàn Trung Còn biên soạn. Già Hồ mượn dùng cũng được đi. Nhưng trồng là trồng cây: trồng cây si, trồng đậu, trồng gạch, trồng gì cũng được, “trồng người” nghe sao man rợ quá trời. Những anh cộng sản coi đồng bào như những con vật để họ sai khiến, bóc lột, như những cái cây để họ đem trồng. Những em bé Việt Nam bất hạnh được coi là những khúc măng non...

Em là khúc măng non...
Em chín queo trong nồi cách mạng

và:

Cháu lên ba... Cháu vô mẫu giáo
Cô thương cháu là cháu không khóc nhè...
Không khóc nhè... È é e...
Em vào trường học
Mẹ cha vào nhà máy...
Ông bà lo cấy cầy...

Ông bà lo cấy cầy??? Chèng đét théng thèng ơi... Ông bà xã hội chủ nghĩa cho có trẻ lắm cũng phải sáu mươi, bẩy mươi... Khứa lão lọm cọm sống trong xã hội thối nát tư sản đến tuổi sáu bó là đã bị con cháu cho ngồi chơi xơi nước. Khứa ông buổi sáng nhâm nhi ly trà tầu nếu có tiền, ly nước vối nóng nếu sống giản dị, để móng tay dài, râu ba chòm, tay phe phẩy cái quạt, chống gậy đi chơi, gặp ông bạn cũng khứa lão đánh vài ván cờ tướng, trưa mùa rét ăn cơm uống ly rượu tăm rồi ngáo. Khứa bà trông nom các cháu, giúp con dâu, ngày rằm, mùng một lên chùa lễ Phật, sáng sáng chiều chiều đến nhà thờ cảm ơn và xin ơn Thiên Chúa.

Đấy là đại khái vài hình ảnh, cuộc sống những ông già, bà lão trong xã hội tư sản. Những ông gia,ø bà lão trong xã hội vô sản ra đồng làm trâu bò cho đến lúc ngã xuống thở hơi cuối cùng. Trong khi đó thì thi sĩ Đảng Tố Hữu mần thơ diễn tả tấm lòng cao cả của bác Hồ muôn kính, ngàn yêu, ngày đêm bác vẫn mơ mộng làm sao để có:

Sữa tặng em thơ, lụa tặng già

Trích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, trang 82 đến 91

Thời gian một tuần đã trôi qua. Như thường lệ, sáng hôm ấy, Tư Tuân dến cơ quan từ sáu giờ rưỡi sáng. Còn đúng một tiếng đồng hồ nửa mới đến giờ làm việc, chỉ có các cán bộ trực đêm có mặt. Anh tự nấu nước để pha trà. Đêm qua, anh thức quá khuya để đọc đi đọc lại những bài đăng trên các báo phản động của bọn di tản. Dạo này, trời cuối năm trở lạnh làm những khúc xương của anh đau ê ẩm. Những năm tháng gian khổ trong ngục tù, những trận đòn man rợ của quân thù, những cơn sốt rét kéo dài đã tàn phá sức khỏe của anh như mưa nắng dội lên cội tùng già. Dường như bộ phận nào trong lục phủ, ngũ tạng của anh cũng suy yếu. Anh đã cố gắng chăm chút giữ gìn sức khỏe, thường xuyên luyện tập để có thể tiếp tục đứng vững. Năm mười hai tuổi chưa phải lúc cam chịu tụt về tuyến sau của cuộc sống đang rực lửa.

Vào khoảng hơn một giờ sáng, vợ anh thức giấc dục anh đi ngủ. Thấy anh vẫn chong đèn đọc, chị dậy pha cho anh ly sữa. Chị cũng là cán bộ, có thể hiểu và chia xẻ trách nhiệm nặng nề của chồng, nhưng cũng không thể để cho anh ngã bệnh.

– Này ông, ông tính làm cho mau chết hay sao? Việc gì cũng để đến mai làm tiếp có được không?

Anh cười giả lả:

– Bà lấy cái chết để dọa tôi đấy hả? Tụi mình sống được đến ngày nay là đã lời quá rồi, lẽ ra đã theo ông bà lâu rồi...

– Thôi đừng nói liều ông ơi! Chết thì không ai sợ, nhưng ngã xuống đau thì dừng báo hại vợ con.

– Bà đừng có lo, tôi coi vậy chứ ngon lành lắm, mấy cậu thanh niên theo không kịp đâu – Anh cười làm lành với vợ – Này, vậy chớ bà đã mua thuốc cho tôi chưa?

Chị Tư làm mặt giận:

– Xí, thuốc với thang. Người ta uống thuốc thì phải nghỉ ngơi, chứ làm thí mạng như ông thì uống làm gì. Chừng nào ông xin nghỉ phép năm thì tôi mới mua cho ông uống.

Tư Tuân lặng thinh. Anh không giận vợ – đúng hơn càng thương vợ. Nhưng chính lúc ấy, anh cảm thấy cột xương sống tê buốt. Nó muốn thừa cơ hội để tấn công anh chăng? Bệnh tật, làm thế nào tránh khỏi khi người ta đã ngoài năm mươi với ngần ấy gian truân. Tư Tuân hai mươi năm về trước còn đủ sức mang vác ba lô, vũ khí nặng mấy chục ký lô đi liền mấy ngày không nghỉ. Tư Tuân của tuổi hai mươi đã là một tiền đạo có tiếng của đội bóng tiểu đoàn.

Thấy anh trầm mặc, chị Tư sợ chồng giận, nắm bàn tay chồng thỏ thẻ:

– Thôi khuya rồi, mình đi ngủ đi mai còn đi làm.

Lát sau, Tư Tuân mới nói với vợ:

– Anh bao giờ cũng nghĩ rằng em rất hiểu anh và lo lắng cho anh. Em xem, tụi mình sống, lấy công tác làm vui. Nhiều lúc anh cũng muốn nghỉ vài tuần phép, cũng có lúc muốn xin đi chữa bệnh dài hạn, nhưng anh sợ nhất là sự nhàn rỗi. Vô công rỗi nghề thì buồn bực không gì bằng. Thôi thì cứ làm việc còn hơn. Nói vậy chứ mình đâu có phung phí sức. Nếu em thuốc thang cho anh thì anh còn sống lâu với em và các con chớ đâu đã đến nỗi nào.

Nghe anh nói, chị Tư ứa nước mắt. Chị có tính hay mủi lòng. Thương vợ, anh đã xếp hồ sơ và lên giường ngủ. Đến năm giờ sáng, theo thói quen, anh đã dậy tập thể dục, ăn qua loa mấy chén cơm chiên và đi làm. Khi anh dắt xe ra khỏi nhà, chị chạy theo trao cho anh một lọ thuốc và dặn:

– Em nhờ mấy anh bên Viện Y học dân tộc làm thuốc tễ cho anh đây, nhơ uống năm viên một lần vào lúc nửa buổi sáng và một lần trước bữa cơm trưa nghe.

Giờ đây ngồi ở bàn làm việc, Tư Tuân càng thấy thương vợ. Anh mở cặp lấy lọ thuốc ra, mở nắp đưa lên mũi ngửi. Vị thuốc thơm thơm làm anh sao xuyến.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 24)

Trích NTBKCB, tiếp theo:

Những hàng chữ trên các tập sách báo phản động vẫn lướt qua mắt anh, chúng thoạt nhòe đi khi anh nghĩ đến vợ và hiện ra những vết đen bẩn thỉu trên mặt giấy trắng chẳng khác gì lũ vi trùng trên tiêu bản đặt dưới ống kính hiển vi. Thật gớm ghiếc. Thế mà Tư Tuân vẫn phải đọc, vẫn phải chép trên giấy những đoạn cần thiết để làm tư liệu.

Nghe ấm nước sôi, Tư Tuân buông cây bút xuống bàn. “Mình cũng chưa hiểu hết chúng” – Anh tự nhủ thầm trong lúc pha trà – “Chúng là thế đấy. Đến lúc này mới nắm được là quá chậm”

Chén trà đầu tiên buổi sáng làm anh nguôi ngoai đi nỗi bực dọc. Chính lúc đó Kiên Trinh tươi tỉnh bước vào. Tư Tuân lên tiếng chào:

– Trà mới pha đấy. Còn sớm nên mình đang lo phải độc ẩm thì buồn chết. Trà ngon không có bạn hiền không ngon.

– Tôi đoán thế nào anh cũng đến sớm mà!

Trên bàn làm việc của Tư Tuân, cạnh ấm trà mới pha là bao thuốc lá Mai còn nguyên. Tư Tuân không nghiện thuốc, nên Kiên Trinh biết chỉ huy đơn vị dành cho anh.

– Thế nào, nhà nghiên cứu văn học! Tư Tuân thường có lối dùng từ ngữ dí dỏm như thế.

Kiên Trinh kéo ghế ngồi, nhận chén trà của người chỉ huy trao. Anh là thí sinh sắp trả bài, mà người chấm thi vui vẻ này lại rất nghiêm khắc khi ra đề thi. Anh lấy từ trong áo ra một tờ giấy nhỏ có ghi độ mươi dòng và cây bút bi.

– Cậu chưa chuẩn bị xong à? Tư Tuân ngạc nhiên hỏi.

– Tôi sẵn sàng báo cáo. Kiên Trinh giọng nghiêm túc.

– Nghĩa là cậu đã thuộc lòng? Tư Tuân cười. Thế thì tốt. Nào ta bắt đầu đi!

– Xin anh cho biết ta nên bắt đầu từ đâu?

Tư Tuân lại cười:

– Chà, cậu khôn lắm. Cậu nhường cho tôi giao bóng trước để thăm dò chứ gì? Thôi được, cậu lần lượt giới thiệu từng chương của “công trình nghiên cứu văn học” của cậu đi. Trước hết, sau khi nghiên cứu các bài vở đăng trên báo chí của bọn phản động lưu vong, được chúng quảng cáo là do các tác giả trong nước gửi ra, cậu thấy thật giả thế nào, nếu có thật thì khả năng tên nào viết? Hai là nếu có bọn trong nước viết bài thì chúng gửi ra bằng đường nào, làm sao phát hiện các đường dây ấy?

Kiên Trinh dụi điếu thuốc vừa mới đốt vào gạt tàn. Anh nhìn vào tờ giấy trước mặt. Chắc chắn với mười dòng chữ trên đó không thể nào gói gọn nội dung trả lời hai câu hỏi ấy. Tuy thế, Tư Tuân biết rõ người cán bộ dưới quyền mình đã chuẩn bị để giải đáp các vấn đề do anh đặt ra. Nhưng cậu ta vẫn có thói quen chừng nào vấn đề còn phải được bàn cãi thì chưa vội viết thành văn bản báo cáo. Kiên Trinh giải thích rằng viết các báo cáo mà vấn đề chưa được nghiên cứu hoàn chỉnh là động tác thừa. Tư Tuân tán đồng quan điểm ấy và anh cũng đã rất tin vào trí nhớ của đồng chí mình. Đối với anh, trí nhớ tốt là điều kiện bắt buộc của nghề nghiệp. Hàng chục năm làm cán bộ quân báo trong kháng chiến, anh đã có thói quen bắt bộ óc phải ghi nhận tin tức, tài liệu thay cho giấy tờ để bảo đảm an toàn, chỉ khi nào cần gửi báo cáo đi xa anh mới dùng đến chữ nghĩa dầu là với mực bí mật hoạc vi ảnh.

– Xin báo cáo trước với anh, những điều tôi sẽ trình bày chỉ là đánh giá từ những cơ sở chưa có chứng cứ chắc chắn. Tôi đã đọc hai mươi mốt bài ký tên mười bốn tác giả khác nhau. Dựa trên nội dung, cách hành văn, tôi tin rằng ít nhất có mười lăm bài do ít nhất bốn tên từ trong nước gửi ra, nhưng lấy nhiều bút hiệu. Dĩ nhiên không có tên nào dại dột dùng bút hiệu cũ. Cái khó là chỗ đó. Nhưng điều may mắn là văn chương cũng như chữ viết có đặc điểm riêng của người viết. Hình như khoa học hình sự chưa có bô môn xác định văn phong như xác định tự dạng. Tuy thế không phải ai cũng viết văn được. Do đó, số người viết văn không nhiều lắm, nên ta dễ “khoanh” lại.

– Hay lắm – Tư Tuân cười hóm hỉnh – Xem ra cậu có thể là nhà phát minh ra một môn mới trong khoa học điều tra hình sự rồi đấy. Cậu đang giữ bóng tốt đấy, sút đi.

– Trong số 15 bài ấy có hai truyện ngắn, bốn bài thơ, ba bài phóng sự, hai bài nghị luận chính trị, văn học và bốn bài phiếm luận. Tất cả đều là những loại chống cộng “có cỡ” cả. Tôi xin trình bày từng loại dễ “nhận diện” nhất. Đó là loại phiếm luận như bài tựa “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” chắc chắn tác giả của nó trước đây thuộc nhóm “nồi niêu xoong chảo” của báo Hòa Bình do Anh Quân chủ trương. Anh Quân bỏ báo Hòa Bình đem theo cả nhóm này về báo Độc Lập. Hiện nay ở thành phố ta chỉ còn vài ba tên trong cái nhóm đó thôi. Còn những bài ký tên Công tử Hà Đông tôi nghĩ đến Hoàng Hải vì tên này quê quán ở Hà Đông, vốn công tử bột, con thầy Thông phán, cháu ruột quan tri huyện.

– Tạm chấp nhận cách suy luận và “bộ môn xét nghiệm” văn phong của cậu – Tư Tuân suy nghĩ rồi phát biểu – Nếu giả thuyết đó đúng thì vấn đề còn lại là... bắt đối tượng vào lưới nhặt bóng. Nhưng chính sự thành công dễ dàng ấy khiến ta không dễ dàng chấp nhận cách nhìn đơn giản toàn bộ vấn đề. Cậu nghĩ xem đằng sau các tờ báo rẻ tiền ấy là gì? Trong những điều kiện hiện nay, thử hỏi chúng sử dụng loại tay sai nào khác cho những hoạt động chiến tranh tâm lý? Nhiều khi chiến tranh tâm lý chỉ là những thứ hỏa mù để che đậy cho những hoạt động ngầm khác, đành rằng loại kẻ thù này chúng ta đã từng chạm mặt và quá quen thuộc bài bản của chúng: chúng rất “rẻ tiền” nhưng cũng rất xảo quyệt. Bọn trong nước gửi bài, tin, bọn bên ngoài đăng trên báo, tạp chí. Gần đây lại có thêm đài phát thanh của bọn được mệnh danh là “phục quốc” đặt ở biên giới Thái Lan cũng đã léo nhéo phát trên sóng nhiều bài, tin của bọn này. Cứ bên ngoài bọn chúng càng la to, bọn bên trong càng dễ lộ mặt. Việc làm này của chúng nào có khác gì cho “voi đẻ giữa chợ” thì khó nói đến chuyện giấu kín được.

Bọn chúng đánh giá thấp chúng ta chăng? Tư Tuân tự đặt một câu hỏi và liền sau đó anh ta tự trả lời – Chưa hẳn thế. Đánh nhau mấy chục năm, biết rõ nhau quá rồi. Nhưng chúng vẫn chống ta vì hận thù, vì ảo tưởng. Hơn thế nữa, chống cộng là hái ra tiền. Thằng nào cũng có “mánh” riêng. Cái đám Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu lợi dụng chiêu bài “phục quốc” để quyên tiền trong số người Việt di tản và đút vào túi hàng chục triệu đô la của nước ngoài. Trần Tam Tiệp cũng vậy thôi. Có khác nhau chăng là hắn nhân danh hoạt động văn hóa để tổ chức quyên góp và nhận tài trợ của bọn phản động các nước để “cứu tế” văn nghệ sĩ ở trong nước. Giờ đây, nếu nằm im không “lên tiếng” bằng cách này hay cách khác thì moi được tiền của ai, nhất là bọn chủ của chúng cũng chẳng phải bọn ngu ngốc cứ tung tiền mà không thu lại được gì. Đám văn nghệ sĩ phản động còn lại trong nước đối với chúng vẫn còn có tác dụng trong việc gây lung lạc một số quần chúng trong và ngoài nước. Bọn này bị “tóm” ư? Chẳng lỗ lã gì với bọn quan thầy. Thậm chí chúng sẽ vin vào đó để mở chiến dịch vu cáo cộng sản khủng bố tù đầy văn nghệ sĩ. Và đây lại là một cú áp phe mới. Rồi sau đó, chúng tiếp tục tìm cách tạo dựng ra những âm binh mới để tác động, hòng gây tình hình không ổn định thường xuyên cho ta. Tôi nói thủ đoạn của chúng “rẻ tiền” vì hai lẽ: một là nó ít tốn kém mà có hiệu quả, hai là nó không có gì mới lạ. Song đó cũng chính là sự xảo quyệt của kẻ thù. Liên hệ thực tế vụ án này cậu nghĩ thế nào?

– Thú thật với anh, khi khoan lại diện đối tượng như đã trình bày và cho anh em rà lại để xác minh đánh giá của mình, tôi cảm thấy thất vọng vì đã có những cơ sở bước đầu cho thấy giả thiết của tôi có khả năng là hiện thực. Tôi thất vọng vì cái mà anh gọi là thành công dễ dàng và sự “rẻ tiền” của đối thủ mình. Còn điều thứ hai mà anh gợi ý, quả thật tôi chưa nghĩ đến.

– Đừng vội thất vọng, anh bạn trẻ. Hãy đi vào vấn đề cụ thể này là làm thế nào chúng có thể gửi đều đặn các bài viết ra ngoài? Hẳn có đường dây ổn định. Nghĩa là có một tổ chức hẳn hoi, một thứ “tòa soạn tại chỗ” để đặt hàng và trả tiền cho bọn bồi bút đó. Cái tòa soạn bí mật đó là đối thủ trực tiếp của chúng ta. Cậu có tin tức gì chưa? Nếu chưa có thì tính toán để có lời giải tiếp theo.

Tư Tuân làm việc không biết mệt mỏi, làm ngày, làm đêm. Mần việc đến một, hai giờ đêm, ngáo đến năm giờ sáng mà đã mò dậy tập thể dục và “ăn qua loa mấy chén cơm chiên...” Mèn ơi, cơm chiên mà đảng viên ta chỉ đớp qua loa mỗi sáng có mấy chén thôi. Cơm chiên mà đảng viên ta buổi sáng đớp qua loa được những mấy chén thì dù không có ưa cộng sản đến mấy, ta cũng phải nhận đảng viên đớp khỏe quá. Đảng viên có thể đau bất cứ bệnh gì, song chắc chắn không phải là đau dạ dày.

Khi anh dắt xe ra khỏi nhà chị chạy theo trao cho anh lọ thuốc và dặn:

– Em nhờ mấy anh bên Viện Y học dân tộc làm thuốc tễ cho anh đây, nhớ uống năm viên một lần vào lúc nửa buổi sáng và một lần trước bữa cơm trưa nghe.

Giờ đây ngồi ở bàn làm việc, Tư Tuân càng thấy thương vợ. Anh mở cặp lấy lọ thuốc ra, mở nắp đưa lên mũi ngửi. Vị thuốc thơm thơm làm anh sao xuyến.

Ta nói “nửa đêm” nhưng chẳng ai nói “nửa buổi sáng”. Ta nói “giữa buổi sáng” hay chín, mười giờ sáng. Riêng Cớm Cộng vợ dặn chồng uống thuốc vào lúc “nửa buổi sáng”. Nhưng thôi, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ ấy. Ta nên nói đến thứ thuốc tễ đặc bịt mà Cớm Tư Tuân, trong lúc ngồi lên phương án truy tầm tung tích và tóm bọn Biệt Kích Thành Hồ, đưa lên mũi ngửi và thấy thơm thơm.

Sau ngày Ba Mươi Tháng Tư những người dân Việt Nam Cộng Hòa bại trận tối tăm mắt mũi trong một sớm một chiều thấy mình mất hết tất cả. Sàigòn đang đầy ắp hàng hóa, thực phẩm, thuốc men, Việt cộng trên răng vẩu, cải mả, dưới lựu đạn thối, ngơ ngáo dắt nhau vào Sàigòn, bỗng dưng Sàigòn trở thành một Chợ Trời, chợ vỉa hè khổng lồ. Tất cả những cửa hàng đều đóng cửa. Những người có tiền gửi ngân hàng đều không được lấy ra, mất trắng. Những người mắc nợ ngân hàng, nợ Nhà Nước VNCH, bị Việt cộng truy tầm đòi trả nợ đến nơi, đến chốn. Nhiều người miền Nam Cộng Hòa cũng biết bọn Việt cộng Bắc Kỳ đói khổ nhưng thực tình chẳng ai ngờ chúng lại đói rách đến cái độ cực kỳ như thế.

Bọn lý thuyết gia cộng sản từng viết những câu hung hăng con bọ xít hơn cả thánh tổ của chúng là Các Mác, Ăng Ghen – anh cu Lê Nin không đáng được nói đến – chẳng hạn như câu:

– Chủ nghĩa tư bản ngay từ lúc nó ra đời đã mang máu tươi trên từng lỗ chân lông của nó...

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 25)

Lời nhận xét và kết tội ấy áp dụng cho chủ nghĩa cộng sản mới đúng. Cũng như câu tiên đoán của Mác trong tuyên ngôn của đảng cộng sản năm 1884.

Chủ nghĩa tư bản có đặc tính ăm bám, thối nát và đang giẫy chết.

Đến giờ này mà còn lải nhải kể chuyện cộng sản chuyên môn lừa bịp nhiều Cố Hồng chắc chắn sẽ kêu: “Biết rồi... Khổ lắm... Nói mãi...” Vì vậy chỉ kể sơ thôi. Thuốc men Nga cộng, Tầu cộng là thứ dở ẹt nhất thế giới. Nga cộng, Tàu cộng chỉ chi viện súng đạn, mìn, hỏa tiễn cho đàn em. Nhưng Tầu cộng có phương thuốc tễ thần sầu quỷ khốc bổ dưỡng cho các lãnh tụ, những bạo chúa cuối thế kỷ hai mươi.

Tầu cộng truyền phương thuốc bí truyền lãnh tụ cộng sản chi bảo ấy cho đàn em Việt cộng. Cũng rất có thể đàn anh khoảnh độc, giữ bí mật chỉ cho đàn em thuốc sực thôi, không chỉ cách mần. Nhưng đàn em ma lanh, ma bùn, học lén được bí kíp chế tạo mật phương. Nhờ bí phương này có thể nói tất cả lãnh tụ cao cấp thế giới cộng sản đều béo tốt, hồng hào, phương phi trông no đủ hơn hẳn những nhân vật lãnh đạo các nước tư bản.

Phương thuốc bổ dưỡng đại quý Việt cộng học lén được của đàn anh Tầu cộng là Nhân Cao. So với Nhân cao, thì cao hổ cốt, cao ban long, cao xương khiếu, cao khỉ đột không đi đến đâu. Nhân cao, hay cao nhân, như tên gọi, là cao người, được cộng sản làm bằng thịt và xương người. Không phải thịt và xương những người tầm thường đã mất nguyên khí hay nguyên trinh mà là xương thịt thai nhi. Trong cái gọi là xã hội chủ nghĩa dài lòng thòng việc con gái – những cháu ngoan bác Hồ mười sáu, mười bẩy tuổi, con gái còn trinh chứ không phải đàn bà – chửa hoang đi nạo thai là việc được chế độ khuyến khích, bảo vệ. Thai nhi được lấy ra bất chấp sự an nguy của người mang thai. Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa thiên hạ lấy thai ra khỏi bụng mẹ như thiến gà, thiến chó.

Ở những xưởng đẻ Xã hội Chủ nghĩa thai con nít nhiều đến nỗi được lấy đi nuôi lợn. Một số thai được dược học Xã hội Chủ nghĩa làm thành Nhân cao. Những cái tên gọi là Viện Y Học Dân Tộc Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ có mỗi một thứ thuốc khốn nạn gọi là Xuyên Tâm Liên. Nhân cao chỉ để dành cho cán bộ đảng viên. Thứ thuốc vợ Tư Tuân nhờ mấy đồng chí bên cái gọi là Viện Y học Dân tộc đặc chế đưa cho chồng chính là một trong những dược phẩm nhân cao ác ôn. Nhân cao được làm bằng xương, thịt, máu bào thai, bất cứ người nào ngửi cũng thấy tanh tưởi. Bọn công an cộng sản không giống người thường, như Tư Tuân chẳng hạn, y ngửi thấy thơm thơm.

Theo như chi tiết được tả Cớm Tư Tuân phải làm việc ngày đêm, ăn thì chỉ ăn sáng qua loa có mấy chén cơm chiên – Cớm mà đớp thật tình chắc phải hết cả chảo – mà Cớm mần việc chi mà dữ quá dzậy? Ngôn từ Việt cộng gọi là “khẩn trương”. Cớm ngày đêm đọc “sách báo của bọn phản động lưu vong ở nước ngoài” tìm xem những tên gan cóc tía nào sống dưới gông cùm cộng sản mà dám viết những bài tố cáo tội ác cộng sản, mô tả đời sống cực khổ của nhân dân, cười khóc thay cho nhân dân, nguyền rủa cộng sản thay cho nhân dân. Tìm ra những tên mật lớn này để tóm cổ chúng nhốt vào tù mút mùa Đỗ Đít.

Việc làm này dễ ợt, dễ hơn đớp cơm sườn. Những năm 81, 82 ở Thành Hồ, bọn văn sĩ Sàigòn viết được và dám viết bài gửi ra ngoại quốc có thể đếm được trên mấy đầu ngón tay. Để có thể có những bài viết, gọi là bài viết thôi, đừng nói đến “tác phẩm” đao to búa lớn – để có thể có được những bài viết tả đời sống thật của nhân dân Thành Hồ gửi ra nước ngoài, điều kiện cần nhất và quan trọng nhất là người viết “dám viết, dám gửi đi, nhận chịu nguy hiểm”. Nhiều ông ra được nước ngoài viết vung xích chó, viết loạn cào cài châu chấu, nhưng trong khi còn ở trong nước thì thủ khẩu như bình, một chữ cũng không viết đi. Mấy ông như dzậy là mấy ông khôn. Chỉ có những thằng ngu sống dưới ách Việt cộng chưa biết chết lúc nào mà còn ngứa ngáy viết bậy viết bạ gửi ra nước ngoài. Bị tù mút chỉ cà tha, bị bỏ mạng trong tù là đáng kiếp.

Nhưng đến đoạn này ta lại thấy lòi ra anh Cớm cộng Kiên Trinh. Vậy là thủ trưởng giao việc điều tra tóm bọn văn nghệ sĩ Sàigòn viết bài gửi ra nước ngoài cho Tư Tuân, Tư Tuân trao việc này cho Kiên Trinh. Vậy mà vừa mới đoạn trên ta thấy tả Tư Tuân nghiên kíu điều cha, điều mẹ ngày đêm, chị vợ phải đi kiếm nhân cao cho đương sự tẩm bổ. Đây là lời báo cáo của anh cớm cộng có cái tên không hợp với cớm cộng chút nào là Kiên Trinh:

– Trong số 15 bài ấy có hai truyện ngắn, bốn bài thơ, ba bài phóng sự, hai bài nghị luận chính trị, văn học và bốn bài phiếm luận. Tất cả đều là những loại chống cộng “có cỡ” cả. Tôi xin trình bày từng loại dễ “nhận diện” nhất. Đó là loại phiếm luận như bài tựa “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” chắc chắn tác giả của nó trước đây thuộc nhóm “nồi niêu xoong chảo” của báo Hòa Bình do Anh Quân chủ trương. Anh Quân bỏ báo Hòa Bình đem theo cả nhóm này về báo Độc Lập. Hiện nay ở thành phố ta chỉ còn vài ba tên trong cái nhóm đó thôi. Còn những bài ký tên Công tử Hà Đông tôi nghĩ đến Hoàng Hải vì tên này quê quán ở Hà Đông, vốn công tử bột, con thầy Thông phán, cháu ruột quan tri huyện.

Chàng Công tử Hà Đông sướng rên mé đìu hiu – chữ của Duyên Anh Tuổi Ngọc những năm tháng xa xưa – khi được Cớm cộng gọi là “Công tử bột”. Dân Bắc kỳ ngày xưa – ngày xưa tức là phần đầu nửa thế kỷ Hai mươi Trần ai khoai củ – có câu “Công tử Bột, Tiểu thư Vôi” để gọi những cô cậu cũng ăn diện đấy nhưng không được thanh lịch, không sang, rẻ tiền. Đúng vậy, Công tử Hà Đông đúng là một thứ Công tử Bột Bắc kỳ điển hình và chính cống. Nhưng mà Công tử Bột cũng là, vẫn là công tử. Đời trước, đời này, đời sau không biết ra sao, có thật ít người dám nhận mình là công tử. Vài ba anh tự phong mình là công tử ăn diện đúng mác thường bị người đời chê là rởm, khoác lác hoặc phét lác. Khi Công tử Hà Đông tự nhận là Công tử Hà Đông tức là chàng muốn nhận chàng chỉ là một thứ công tử bột “... Công tử bột con thầy thông phán, cháu ruột quan tri huyện...”. Ní nịch trích ngang, trích dọc không có gì nhiều, không nặng mà cũng không nhẹ, song nghe cũng không không đến nỗi quá ư hạ cấp.

Có điều cần viết cho đúng về câu nói của anh Cớm cộng Kiên Trinh trên đây: “... như bài tựa đề “Nếu chàng Trương Phi đẹp trai” chắc chắn tác giả nó trước đây thuộc nhóm “nồi niêu soong chảo” của báo Hòa Bình do Anh Quân chủ trương...”. Bài được đăng dưới bút hiệu “Lão Dương”. Con nít lên ba, cụ già chín bó cũng biết “Lão Dương” là Dương Hùng Cường Dê Húc Càn. Thứ hai, nhóm “nồi niêu soong chảo” là nhóm ký giả trẻ chủ lực của tòa soạn báo Sống của anh Chu Tử Chu Văn Bình từ những ngày đầu ho hen kèn cựa, chết đi sống lại của báo Sống đầu năm 1965. Sau ngày ba anh em ông Diệm, Nhu, Cẩn bị bắn chết, đảng Cách Mạng Quốc Gia, đảng Cần Lao Nhân Vị, Lực lượng Thanh Niên Cộng Hòa xẹp nhanh hơn bong bóng xà bông, nguyên thủ Ngô Đình Diệm bị bể đầu, Big Minh lên thay chức nguyên thủ chưa đầy ba tháng thì bị Nguyễn Khánh chỉnh lý hạ bệ, cho ngồi chơi xơi nước mút chỉ. Những cuộc binh biến theo nhau xảy ra, những thủ tướng theo nhau rớt đài, anh Chu Tử không ra được báo nên phải mướn “măng xét” của báo người khác để làm. Làng báo Sàigòn – và toàn thể làng báo Bắc Kỳ, Nam Vang, Viên Chiên do quan thầy Phú Lang Sa truyền nghề. Vì vậy báo Sàigòn dùng rất nhiều thuật ngữ chuyên môn tiếng Phú Lang Sa. “Măng xét: Manchette” là tên tờ báo có giấy xuất bản. Nhiều anh viết cái biên lai giặt ủi cũng ướt mồ hôi trán nhờ những thế lực nào đó xin được giấy phép ra báo. Mấy ảnh mà báo bổ ký gì. Mấy ảnh mướn ký giả chuyên nghiệp hoặc cho ký giả chuyên nghiệp mướn giấy phép ra báo của mình. Việc làm đó được giới trong nghề gọi tắt và giản dị là “Mướn măng xét”. Mỗi lần báo bị đóng cửa, anh Chu Tử mô tả nhóm anh em ký giả của anh “lêu bêu như chó mất chủ”. Khi mướn được một măng xét nào đó trong bài trình làng anh viết: “Nhóm chủ trương báo Sống sẽ đua hết nồi niêu soong chảo sang tờ báo này vv...” Từ đó thành cái tên Nhóm Nồi Niêu Soong Chảo. Toàn Nhóm Nồi Niêu Soong Chảo sẽ tái ngộ với bạn đọc thân mến trên tờ báo X v.v...”

Nhóm “Nồi niêu soong chảo” không bao giờ là “của Anh Quân”. Anh Quân có thời làm ký giả báo Sống, nhưng chính Anh Quân không ở trong nhóm “Nồi niêu xoong chảo” của báo Sống những ngày đầu. Sau khi anh Chu Tử bị bắn mà không chết vào giữa năm 1965, báo Sống sống vững, mấy tiếng “Nồi niêu xoong chảo” không được dùng đến nữa và bị quên dần. Năm 1970, nhân báo Sống đăng phóng sự làm lớn vụ PM Mẽo dẹp khu lều dân Việt nghèo dựng lên ngoài hàng rào căn cứ quân sự Mỹ trên bán đảo Cam Ranh để bán sì ke cho GI Mỹ, cho đó là vụ lính Mỹ xâm phạm, đi bốt đờ sô lên chủ quyền quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, báo Sống bị đóng cửa. Ký giả báo Sống mới tản đi kiếm sống ở những báo khác.

Nhóm “Nồi niêu soong chảo” chính cống gồm có Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Tú Kếu, Trần Tử, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Anh Hợp. “Hiện nay tại thành phố ta còn vài ba tên trong nhóm đó thôi.” Khi Cớm cộng nói câu đó thì ở cái gọi là “thành phố ta” chỉ còn có hai tay cựu “nồi niêu soong chảo” là Nguyễn Thụy Long và Nhã Ca là còn lạng quạng vất vưởng ở ngoài nhà tù. Ký giả Trần Tử, Anh Hợp đã chết, Nguyễn Văn Đông sang Mỹ, Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Tú Kếu đang ở trong những trại tù khổ sai. Dê Húc Càn Dương Hùng Cường và tôi, người viết những dòng này, không ở trong nhóm ký giả gọi là nhóm “Nồi niêu xoong chảo” do anh Chu Tử đứng đầu.

– Dĩ nhiên không có tên nào dại dột dùng bút hiệu cũ. Trong một chế độ mà người viết văn, làm thơ không dám ký tên thật dưới những tác phẩm của mình, bọn cầm quyền, bọn đầu sỏ của chế độ đó phải thấy xấu hổ, thấy nhục nhã hơn những người viết không dám ký tên thật. Người viết không dám ký tên thật can tội hèn nhát. Đúng vậy. Nhưng họ còn có lý do chạy tội là họ muốn giữ bí mật tên tuổi để không bị bọn đầu trâu mặt ngựa nửa đêm ập đến nhà còng tay đưa đi năm bảy mùa thu lá rụng chưa nhìn thấy mơ hồ bóng dáng đường trở về mái nhà xưa. Họ mong họ không bị bắt để họ còn có thể viết được nhiều nữa.

Đời nào cũng vậy thôi, rất nhiều người làm văn nghệ nhưng chỉ có rất ít người được nổi tiếng. Nổi tiếng và được đời công nhận là văn nghệ sĩ. Nổi tiếng cũng là thành công. Như Tản Đà, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, không cần có hai tiếng thi sĩ đứng trước tên. Phạm Duy, Văn Cao, Hoài Bắc không cần có hai tiếng nhạc sĩ, như Thái Thanh không cần được giới thiệu là nữ ca sĩ. Có rất nhiều người viết rất nhiều truyện ngắn, truyện vừa, làm nhiều bài thơ nhưng vẫn chẳng được ai nhìn nhận là văn sĩ hay thi sĩ. Người viết tạo được một văn phong riêng, bút pháo riêng – nôm na là giọng văn riêng, cách viết riêng, lối nhận xét cuộc đời trần ai khoai củ riêng – lại rất khó và hiếm.

Cớm Kiên Trinh báo cáo với cớm Tư Tuân:

– Trong số 15 bài ấy có hai truyện ngắn, bốn bài thơ, ba bài phóng sự, hai bài nghị luận chính trị, văn học và bốn bài phiếm luận. Tất cả đều là những loại chống Cộng “có cỡ” cả...

Cớm cộng đọc 15 bài anh em chúng tôi viết ra, công nhận: “Tất cả đều loại chống cộng “có cỡ”. Trong khi đó thì chính anh em chúng tôi, những người viết những bài cớm cộng cho là “chống cộng có cỡ” ấy, chúng tôi coi những gì chúng tôi viết gởi đi chỉ là loại viết chơi vì quá buồn. Chúng tôi không có ý viết những lời đao to, búa lớn. Chúng tôi áy náy vì thấy mình không diễn tả, không ghi lại được một phần trăm những đau khổ, những oán hận của nhân dân, những tai họa do cộng sản gây ra cho nhân dân ta.

“Những tên biệt kích cầm bút” trang 79, anh cu Tư Tuân cớm cộng, trưởng cái ban gọi là Ban Công Tác Chống Phá Hoại Tư Tưởng, được giám đốc cớm Thành Hồ giao nhiệm vụ điều tra mấy tên văn nghệ sĩ Sègoòng gan cóc tía dám viết bài tố cáo chế độ cộng sản ác ôn côn đồ gửi ra nước ngoài. Nói là điều tra cho huê dạng, đúng ra là giao cho anh cu Tư Tuân việc tìm bắt, bỏ tù bọn gan cóc tía. Tư Tuân đọc những bài báo phản động và thấy “buồn nôn vì toàn là những luận điệu rẻ tiền...” nhưng đến trang 87, tức là chưa đến mười trang sau, anh cu Kiên Trinh, anh Cớm Cộng có cái tên không có vẻ cớm chút nào là Kiên Trinh, được Trưởng ban Tư Tuân giao lại việc tìm bắt bọn gan cóc tía, báo cáo:

– Trong số 15 bài ấy có hai truyện ngắn, bốn bài thơ, ba bài phóng sự, hai bài nghị luận chính trị, văn học và bốn bài phiếm luận. Tất cả đều là những loại chống Cộng “có cỡ” cả...

Thằng đàn anh vừa chê: “... luận điệu vu cáo rẻ tiền. Chán đến buồn nôn...” Ngay sau đó thằng đàn em dộng tủ đứng, dộng luôn cả cái bàn thờ Chủ tịt Đảng vào mồm thằng đàn anh bằng câu nói:

– Em đọc 15 bài của chúng nó thấy bài nào cũng thuộc loại chống cộng “có cỡ” cả...

Rẻ tiền tức là không có cỡ, mà có cỡ tức là có giá trị, và có giá trị tức là không rẻ tiền. Anh cu Kiên Trinh, cái tên anh cu cớm cộng Thành Hồ này cũng kỳ. Bác Hồ học mót lối dùng bí danh có vẻ bình dân để gọi nhau trong Đảng của Tầu Cộng, bác lấy tên là Sáu Keo. Từ đó, bọn đảng viên Việt cộng anh nào cũng có tên mang số thứ tự hai, ba, năm, sáu đứng đầu. Chẳng hạn như Tư Bốn, Ba Thiên, Năm Lành, Bốn Lù v.v... Có anh còn mang cái tên gợi cảm là Hai Bi, Ba Bi. Nhưng ở trang này, ta lại thấy lòi ra một anh cớm cộng có cái tên là Kiên Trinh – Anh cu Kiên Trinh chỉ mới đọc có 15 bài còm của vài tên văn nghệ sĩ Sègoòng kẹt giỏ viết gửi ra nước ngoài là anh đã phải nhận là “... chống cộng có cỡ...” Nếu hai anh cu này đọc 150 bài do anh em chúng tôi viết về cuộc sống thê thảm của nhân dân thành Hồ dưới gông cùm Việt cộng, chắc hai anh sẽ buồn nôn đến cái độ nôn ra máu.

Được cớm cộng “đánh giá” là viết toàn những bài “chống cộng có cỡ” nghe cũng khoái tỉ. Nhưng quy luật của tự nhiên, theo Ăng Ghen là “càng được cộng sản đánh giá chống cộng cao cấp chừng nào càng bị cộng sản bỏ tù lâu chừng ấy”. Những trang NTBKCB cho anh em chúng tôi thấy tại sao bọn công an Thành Hồ lại hục hặc kết anh em chúng tôi vào tội gián điệp, đưa chúng tôi ra tòa với tội gián điệp và muốn tử hình một người trong bọn chúng tôi, bỏ tù chung thân tên thứ hai trong danh sách gián điệp, bỏ tù hai mươi cuốn lịch Tam Toong Méo tên đứng hạng thứ ba, mười lăm mùa khoai lang tên đứng thứ tư, mười hai mùa củ đậu tên đứng hạng thứ năm, mười mùa cốm giẹp tên đứng hàng thứ sáu. Hai tên gián điệp cuối cùng trong số 8 tên, tên số tám và tên số bẩy: mỗi tên tám mùa cô hồn cháo lá đa.

Bị tó tháng Năm 1984, một tháng sau ngày Nhóm Già Lam Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Thích Trí Hải giã từ cửa Thiền lên xe bông dzô cửa tù, chúng tôi bị bọn viết báo cộng sản chửi lai rai, chửi dài dài từ năm 1985. Năm 1986 trước ngày bọn công an Thành Hồ đưa chúng tôi ra tòa, bọn báo Công An và bọn báo Tuổi Trẻ Thành Hồ cùng đăng những bài mới về chúng tôi. Khi những tờ báo có những bài viết ấy vào đến tay chúng tôi trong nhà tù Chí Hòa, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, người ở tù cùng phòng với tôi trong suốt năm mùa Lễ Vu Lan, nói với tôi:

– Sao chúng nó thù các bác quá...

Tôi gọi Trí Siêu bằng thầy. Trí Siêu gọi tôi bằng bác. Trí Siêu kém tuổi tôi mười mùa bác Hồ đầu thai phá dân hại nước.

Nhưng như tôi đã viết, xin viết lại ở đây cho câu chuyện được mạch lạc, bạn đọc dễ theo dõi hơn. Công an Thành Hồ đã dàn dựng sân khấu, làm om sòm trên báo để đưa “bọn gián điệp ra tòa. Chúng sẽ phải cúi đầu nhận tội...v.v...”

Năm 1986, trước ngày chúng họp cái gọi là Đại Hội Đảng Mả Mẹ kỳ 6. Nhưng rồi, chúng không thể đưa chúng tôi ra tòa như chúng đã loan báo rình rang trên các báo. Chúng tẽn tò. Loạt bài nửa phóng sự, nửa điều tra, nửa chuyện bịa viết nhiều kỳ về bọn gián điệp mới đăng được ba kỳ trên báo Công An, Tuổi Trẻ bị ngưng. Không cả một mẩu tin cho độc giả biết phiên tòa xử bọn gián điệp được loan báo xử ngày đó, tháng đó đã được hoãn.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 26)

Bọn Công an thành Hồ có sách báo Việt hải ngoại không có gì khó. Sách báo Việt hải ngoại bán tự do. Chúng chỉ việc cho tay sai bỏ tiền mua gửi về. Nhưng chắc chắn chúng cũng không thể nào mua và có được tất cả các sách báo Việt chống cộng phát hành ở hải ngoại. Vì vậy anh cu Kiên Trinh chỉ được đọc có 15 bài. Và chỉ mới đọc 15 bài thôi anh đã phải nhận: “... bài nào cũng thuộc loại chống cộng có cỡ...”

Riêng tôi, tôi không lấy gì làm quan trọng những bài tôi viết. Tôi viết toàn những chuyện phiếm, tôi viết như tôi nói chuyện. Tôi tự coi tôi như anh lom khom đứng ở góc vườn, vạch rào nói ra ngoài, tiếng được, tiếng mất, mong những người đi ngoài đường nghe tiếng:

– Mấy ông, mấy bà ơi... Đừng có tin mấy thằng ăn cướp chúng nó chiếm cái nhà này của chúng tôi. Chúng nó nói với mấy ông, mấy bà là mọi người sống trong căn nhà này đều sung sướng là chúng nó nói láo. Chúng nó đểu lắm, ác lắm. Chúng nó làm chúng tôi điêu đứng...

Vì đã có thời làm phóng viên nhà báo, tôi tự cho tôi biết những người Việt bỏ của chạy lấy người trước ngày đứt phim trong thời gian ấy- những năm 76 đến 84 – sống lưu vong ở những nơi chân trời, góc biển muốn nghe, muốn đọc, muốn biết những chuyện gì đang xảy ra ở Sàigòn. Tôi tự đặt tôi vào tình trạng tinh thần của những người Việt lưu vong, những người từ đời ông cố, ông sơ sống truyền kiếp ở Sàigòn, quen thân từng ngõ ngách, từng vỉa hè, đôi mông quen thuộc với tất cả những chiếc ghế da rạp Rex, Đại Nam, Kim Châu, Khải Hoàn, Eden, Thanh Bình, Quốc Tế, Bonard Vĩnh Lợi... quen luôn cả những Lido, Đại Quang, Victory bỗng dưng một sớm một chiều bị bốc ra khỏi môi trường sống. Người Việt sống ở Sàigòn thoải mái, hồn nhiên, tự nhiên, thiên nhiên, tất nhiên, mặc nhiên, nghiễm nhiên, đủ thứ nhiên hằm bà lằng xíu oát, như con cá lóc sống trong biển Hồ Pleiku, nơi có người em Pleiku má đỏ, môi hồng, nơi cuộc đời quanh năm mùa đông. Người Việt Sègoòng bị trực thăng Mẽo bốc ra nước ngoài tình cảm chắc cũng không khác gì em cá bông lau bị đưa lên chợ Cá Trần Quốc Toản. Xin lỗi, không đến nỗi bi đát như thế nhưng nếu tôi là những người tha hương sầu xứ đột ngột và bất đắc dĩ ấy, tôi muốn được nghe, được đọc những chuyện gì đang xẩy ở Sàigòn.

Nếu tôi là người Việt lưu vong, tôi sẽ muốn đọc, muốn biết những chuyện linh tinh, lặt vặt xẩy đến trong cuộc sống thường ngày của người dân thường Sègoòng. Người Sègoòng sống ra sao, mần ăn chi, có bị Việt cộng hành hạ khổ sở lắm không? Dân Sègoòng nghĩ gì về bọn Việt cộng nay làm chủ Sàigòn? Vì vậy, tôi đã viết ra nước ngoài những việc rất thường như chuyện dân Sègoòng đi lãnh đồ ở những nhà bưu điện, ở kho hàng Tân Sơn Nhất.

Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Đôi tay anh vín đôi cành
Quả chín anh hái quả xanh anh vồ
Năm sáu năm nay anh ăn ở thành Hồ
Anh ra bưu điện lãnh quà em cho
Đồ em vừa nặng vừa to
Anh đã con mắt anh no cái mồm

Tôi viết về những nghề mới của dân Sègoòng sau Ba mươi tháng Tư: bơm mực bút bi, mua bán chợ trời, chợ đất, thuốc tây, ve chai – một loại dze chai mới xã hội chủ nghĩa – nghề chà đồ nhôm. Trang điểm những bài viết ấy là những bài thơ nho nhỏ:

Chà đồ nhôm

Đi đâu bỏ con ở nhà?
Hỏi Em, Em nói: Đi chà đồ nhôm!
Đi đâu tay xách, nách ôm?
Hỏi Em, Em nói: Đi chôm đồ nhà!

Cộng sản đi đến đâu đói khổ, nheo nhóc, dơ dáy đi đến đấy. Quy luật ấy đã có từ bẩy mươi mùa củ chuối và đã xảy ra ở quá nhiều nơi. Nhưng như cái gọi là Thiền, phải đến những năm 75, 76 đen hơn cái lá đa dân Sègoòng mới thấy, mới biết, mới bị nó quật cho tối tăm mắt mũi, ứa máu ra đủ bẩy lỗ gọi là Thất khiếu. Như chợ trời chẳng hạn. Cộng sản đến bất cứ thành phố nào trên trái đất bất hạnh vì có tai họa cộng sản này lập tức thành phố đó xuất hiện những chợ vỉa hè. Người dân đem đủ thứ vật dụng ra vỉa hè bày bán. Đặc biệt năm 1975, có nhiều nhà cho Mỹ mướn, nhiều nhà giàu bỏ của, bỏ nhà, bỏ nước chạy lấy người, số vật dụng được dân nghèo vào những nhà đó lấy ra thật nhiều. Không chỉ quần áo, đồ dùng vặt vãnh mà thôi, người dân Sègoòng bán cả bàn ghế, giường tủ, xe gắn máy. Người ta như bị say đòn bán đồ. Thấy người khác bán đồ, nhiều người không cần tiền cũng đem đồ ra bán tống, bán tháo. Có người sợ: “Nhà mình nhiều đồ quá, nó để ý...” “Nó” đây là Việt cộng.

Giấc mộng huy hoàng nhất của những anh “bộ đội cụ Hồ” là có một chiếc đồng hồ tay. Những câu “đồng hồ không người lái, một cửa sổ, hai cửa sổ” xuất hiện trong ngôn ngữ dân Sègoòng. Nhân tiện nói đến chuyện đồng hồ, xin nhắc lại chuyện “giả chân” trong bài thơ Đồng Hồ của Tố Hữu.

Phùng Quán – nghe nói là cháu gọi Tố Hữu là cậu – viết một bài ngắn tả cảnh ông đi tù về đến nhà thăm ông cậu. Ông tả thời Tố Hữu đang hiển hách, khi Tố Hữu là Phó Thủ tướng kiêm đại đầu sỏ Văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhà Tố Hữu được canh gác như một phủ chúa, cận vệ bận đồng phục trắng, an ninh nổi chìm khắp dinh, quan khách ra vào tấp nập. Thế rồi Đảng cộng sản Nga tiêu tán thoòng, Liên Sô thành trì xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, thánh tổ Lenin bị kéo cổ cho ra nằm bãi rác.

Biết rồi... Nói mãi... Xin vắn tắt: Tố Hữu bị thất sủng. Đang là vị lãnh tụ được chuẩn bị thay thế Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội Đồng Chánh Phủ, tức là làm Tể Tướng – Tố Hữu tụt xuống làm một thứ dở ông, dở thằng không giống ai và không ai giống. Phùng Quán tả nhà ông cậu xuống chó vắng như chùa Bà Đanh, như nhà cô Đạm Tiên khi người khách viễn phương đến thăm. Rồi Phùng Quán kể đến bài thơ mới làm của ông cậu xuống chó.

Thơ như vầy:

Anh bộ đội đi mua đồng hồ
Thật giả khó phân anh rất lo
Anh hỏi cô hàng, cô tủm tỉm:
Giả mà như thật, khó chi mô!

Ra cái điều Tố Hữu chửi bọn Đỗ Mười, Võ Văn Kẹt là bọn đệ tử Mác giả hiệu. Ý nghĩa bài thơ này, em bé lên ba, cụ già chín bó đọc qua đều biết. Bọn đệ tử Mác vẫn thường chửi nhau là đệ tử Mác giả hiệu, miệng nói theo Mác, việc làm phản lại lý thuyết Mác. Không những chúng chỉ chửi nhau mà thôi, chúng còn nhân chuyện ấy giết nhau tàn tệ. Từ lâu rồi, người ta đã nói: Nếu Các Mác mà sống dưới thời Sít Ta Lin, Các Mác cũng bị Sít Ta Lin bỏ tù vì tội “hiểu sai chủ nghĩa Mác”

Điều lạ là anh Tố Hữu, thi sĩ cộng sản đoạt giải thơ nâng bi lãnh tụ nhiều năm liên tiếp, tác giả những câu ca tụng Chúa Đỏ Sít-ta-lin đến cái độ ghê rợn – biết rồi, khỏi kể – đã không biết nhục mà còn mần thơ chửi bọn Mác Xít hoạt đầu. Bài viết ngắn của Phùng Quán tả cuộc đến thăm Tố Hữu chỉ được nhiều người để ý vì có bài thơ Đồng Hồ của Tố Hữu.

Có điều lạ nữa là dường như chẳng ai thấy cái vớ vẩn của bài thơ. Ý bài thơ không ăn khớp. Anh bộ đội đi mua đồng hồ nói một đường, chị bán đồng hồ trả lời một nẻo. Ý bài thơ anh chẳng, ả chuộc, anh nói gà, ả nói vịt vô lý quá rõ. Vậy mà tôi chẳng thấy ai nói gì về chuyện ấy cả.

Này nhé, anh bộ đội đi mua đồng hồ. Chợ xã hội chủ nghĩa bán nhiều thứ giả mạo quá, anh sợ anh mua phải đồ giả. Anh hỏi cô hàng làm sao phân biệt được đồng hồ nào giả, đồng hồ nào thiệt. Thay vì trả lời câu hỏi đó, cô hàng lưu manh trả lời một câu không ăn nhập gì đến câu hỏi:

– Đồng hồ giả mà làm như đồng hồ thật có gì khó đâu.

Anh bộ đội cụ Hồ có thể nổi cáu:

– Chị đừng có ăn nói vớ vẩn. Tôi hỏi nằm thao biết đồng hồ lào giả, đồng hồ lào thật... Chị khoe chị làm cho đồ giả như thật là nghĩa chi?

Bài thơ Đồng Hồ của Tố Hữu, theo tôi, phải như sau mới có nghĩa:

Anh bộ đội đi bán đồng hồ
Đồng hồ anh giả, anh rất lo
Anh nhờ cô hàng, cô tủm tỉm:
Giả mà như thật, khó chi mô!

Có lần tôi bi phẫn trước cảnh những anh chị dze chai mới đi khắp xóm rao mua đủ thứ đồng hồ, mắt kính, ra-zô, bàn ủi, máy may, nồi cơm điện... Chẳng thấy ai rao mua người. Anh bạn tôi nói:

– Cũng có đứa nó mua người chứ. Sao anh lại nói chẳng ai mua người...

Phẫn nộ một cách hết sức dzô dzang, tôi đi một đường Tác-giăng nổi giận:

– Nó mua là nó mua đàn bà, con gái còn sài được. Nó có mua loại đàn bà ho hen, kèn cựa, vú lép, mông teo đâu. Đằng này đồ hư, đồ cũ, đồ xập xệ, đồ nát. Đồ gì cũng có người mua hết. Đàn bà ốm nhách, xanh leo, xanh lét có cho không nó cũng không thèm lấy. Còn cái ra-zô cũ, chuột gặm mốc meo anh mua từ thời lính Mẽo chưa tham chiến ở Việt Nam nghe hết được anh bỏ quên trong gậm tủ, nay anh mang ra bán vẫn có người mua.

Vật quý hơn người. Đó là lẽ thường, lẽ tự nhiên và đương nhiên. Tôi bất bình vì chuyện đồ cũ bán có người mua, người cũ không ai mua cả là tôi vô lý. Quẳng cái bàn ủi cũ ra đường năm phút sau có người ôm đi ngay. Quẳng một em bốn bó, kể luôn cả ba bó, ho lao hen suyễn khặc khừ, hay đang trong tình trạng thượng thổ, hạ tả ra vỉa hè, nằm bẩy ngày người qua đường không ai thèm dừng chân lại nhìn cho một cái làm phúc. Tôi cũng dzậy thôi. Bố bảo tôi cũng không khiêng những em ốm o ấy về nhà, đừng nói đến chuyện tôi bỏ tiền ra mua.

Bất bình tắc minh. Tức cảnh sinh tình. Trong những năm 1976, 1977, rồi trong hai năm 1982, 1983 tôi viết một số bài linh tinh về những chuyện vặt đại khái như tôi vừa kể gửi ra nước ngoài. Rất tiếc, những bài tôi viết ra nước ngoài thời ấy, tuy được đăng trên nhiều báo ở Mỹ, Úc, Pháp, nhưng vì không được in thành sách nên bị chìm mất theo thời gian. Nay ở Rừng Phong tôi chỉ còn được một hai bài đăng trong tập “Tắm Mát Ngọn Sông Đào“, nhà xuất bản Lá Bối ấn hành ở Paria năm 1982, một bài trong Thời Tập, tạp chí do Viên Linh chủ trương, ấn hành ở Mỹ năm 1979.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 27)

Tôi trang trọng cám ơn bạn đã đọc tôi dến dòng chữ này. Mời bạn đọc – mời bạn đọc lại nếu bạn đã đọc rồi – một bài tôi viết về đời sống dân thành Hồ gửi ra nước ngoài năm 1981.

Chà Đồ Nhôm

Trích “Tắm Mát Ngọn Sông Đào,” bài viết ở Thành Hồ năm 1981.

Trong tiểu thuyết “1984” George Orwell viết dự tưởng rằng năm 1984 của thế kỷ này, cái gọi là “socialism” – chế độ xã hội chủ nghĩa – được thiết lập ở nước Anh. Orwell viết “1984” vào năm 1948, trong đó ông dự tưởng một số sự kiện sẽ xảy ra vào năm 1984 ở nước Anh xã hội chủ nghĩa. Trong số sự kiện này, có việc Orwell cho rằng khi xã hội chủ nghĩa được đặt ở nước Anh nước đó sẽ “mười lăm ngày có một kỳ xổ số”

Khi viết truyện đó cách đây ba mươi hai năm, Orwell cho rằng “mười lăm ngày một kỳ xổ số” là ghê gớm kỳ dị, khó chấp nhận, khó tưởng tượng lắm lắm. Thật ra George Orwell ngây thơ không biết chừng nào. Nếu ông còn sống đến năm nay, chắc ông phải ngượng vì sự dự tưởng không đúng mức, kém xa mức độ hiện thực, không đi đến đâu, chưa đáng gì, chưa nói được gì hết của ông ta. Bởi vì ở đây, từ năm 1980, trong cuộc sống của một nước xã hội chủ nghĩa đang lên, non trẻ, đầy sức sống “xổ số không phải là chỉ nửa tháng mà là một ngày ba kỳ”.

Ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, người ta xổ số mỗi ngày hai lần, có những ngày đặc biệt xổ ba lần, kể cả ngày chủ nhật. Một tháng trung bình tám mươi kỳ xổ số. Kỹ nghệ phồn thịnh này do nhà nước chủ trương và khai thác. Nó phát triển sâu rộng khắp miền Nam, đi sâu vào mọi ngã ngách, vào từng nhà ở thành cũng như tỉnh. Người ta nói một trong những nguyên nhân làm giá giấy đắt, học trò thiếu tập chép bài, quyển vở một trăm trang giấy đen hiện giá bốn đồng, là vì nhà nước dùng quá nhiều giấy để in vé số và giấy ban khen, tuyên dương công nhân tiên tiến. Về giấy khen trong vài năm đầu, những người được khen còn dán lên tường, đặt trong tủ kiến nhưng nay thì xếp đống, vì nhiều quá không có chỗ nào trưng nữa.

Ngành xổ số hiện cung cấp việc làm cho cả trăm ngàn người dân Thành Hồ. Ngoài những người mù, người già, người què, người sồn sồn, trẻ em mang vé đi bán ở những quán ăn, tiệm cà phê, vào các xóm, đi đường bạn thấy chỗ nào cũng có sạp bán vé số. Có những chỗ bán lớn đặt hai ba cái bàn, trên bầy kín các tập vé số, đằng sau có ba bốn cái bảng đen ghi bằng phấn kết quả những kỳ xổ số vừa ra trong ngày hôm qua. Những chỗ này tấp nập người ra vô, buổi sáng đến lựa mua số, buổi chiều đến dò số, đổi vé trúng. Mỗi chiều vào lúc bốn giờ rưỡi, xổ số được xổ và loan báo trên đài phát thanh. Báo không đăng nhưng những kết quả xổ cũng chẳng bao giờ lầm. Người có vé số chỉ việc ra đầu đường là có sẵn tấm bảng kết quả để dò. Mỗi chiều, công nhân đi làm về , xe đạp và người đứng chật cả nửa đường ở những chỗ đặt bảng kết quả xổ số.

Mỗi thành phố, mỗi tỉnh ở miền Nam đều được quyền mở xổ số để lấy lời cho quỹ tỉnh mình. Vì vậy có những kỳ xổ số của Thành phố Hồ Chí Minh, gọi tắt là số thành phố, và Tiền Giang, Hậu Giang, Đồng Nai, Sông Bé, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Cửu Long, Tây Ninh, Long An v.v... Phần lớn những vé này được tiêu thụ ở Thành Hồ. Mỗi địa phương mỗi tuần chỉ có một kỳ xổ số thôi, nhưng cứ tính sơ sơ như vậy, ta cũng thấy số lần xổ số trong một ngày, lại thỉnh thoảng có những kỳ đặc biệt. Hoặc thành phố có thể xổ số mỗi tuần ba kỳ.

Tưởng cũng nên nhắc qua lịch sử xổ số ở xứ này. Loterie do thực dân Pháp mang vào Đông Dương, có lẽ lần đầu vào những năm 1920. Vào thời kỳ này, Anh Con Trai Bà Cả Đọi còn đang giữ việc điếu đóm ở Thiên Đình, chưa bị Ngọc Hoàng đầy xuống trần ai, nên không biết rõ lắm. Có lẽ vào thời kỳ đầu tiên đó, xổ số được gọi là Xổ số Đông Pháp, phát hành khắp Việt-Miên-Lào Đến năm 1951, cái gọi là chính phủ quốc gia ở Sàigòn mở lại xổ số bán một đồng, độc đắc một triệu đồng, một tháng một kỳ. Qua Đệ nhất Cộng Hòa xổ số tiến lên một tuần một kỳ, tăng giá mười đồng cho đến ngày tan hàng.

Vì ngành xổ số phát hành đều mỗi ngày nên kỹ nghệ phụ của nó là Xổ Đề, đánh đề cũng theo nó bành trướng mạnh. Dân Thành Hồ có câu “Cả nước xổ số, toàn dân đánh đề” nói lên một cách rất đúng đắn hiện thực xã hội này. Trẻ con cũng chơi đề, nuôi số đề và việc chơi đề, nói lái là “đời chê” đem lại niềm vui, an ủi và hy vọng cho nhiều triệu người ở miền Nam.

Ngoài nghề bán, mua xổ số, huyện đề, chơi đề, nhân dân Thành Hồ hiện làm những nghề gì nữa? Nhân dân làm hàng trăm thứ nghề mới cũ do xã hội và thời cuộc tạo ra. Song đại đa số đều là những nghề buôn bán, cung cấp dịch vụ, không sản xuất vật phẩm. Đầy lề đường, nhân dân ngồi bán thuốc lá. Khoảng trăm thước có một chỗ sửa xe đạp. Giá vá một lỗ thủng xe đạp nay đã lên hai đồng, công bơm hai bánh xe đạp là năm mươi xu. Ở cửa các trường học có những người ngồi bơm mực bút bi cho học trò. Mỗi ống mực bơm là một đồng, trong lúc giá mua một bút mực Bic ngoại quốc mới là tám đồng. Từ sáng sớm có những ông già , bà lão, trẻ em lưng đeo cái bao bố, tay cầm móc sắt, đến những chỗ đổ rác, đi vào các xóm, bới các thùng rác nhặt bao ny lông, giấy vụn, bao rách, giấy bẩn, cứ ny lông và giấy là lượm, đem về bán cho Ba Tầu nấu lại. Bao, túi ny lông cũ nấu đi nấu lại nhiều lần, ép thành những bao túi mới mầu cà phê, mầu nâu. Giấy cũ tái sinh thành giấy carton.

Cũng trong các xóm đông đúc của Sàigòn ta thấy có nhiều nghề vặt hay hay. Chẳng hạn có nhiều người rao “đồ cũ đổi đồ mới”. Có những anh Tầu đi xe đạp chở một cần xé dép cao su đủ mầu, đi bán và đổi dép cũ đứt. Tất nhiên là phải các thêm tiền. Có những bà gánh nồi niêu xoong nhôm, đèn dầu tây đi bán, đổi. Đến năm nay, giá những chậu thùng bằng plastic quá đắt, dân Sàigòn bắt đầu quay lại dùng đồ sành. Vì nấu ăn bằng củi than, người Sàigòn dùng lại bếp lò. Cần đồ đựng nước, gạo, người dân Sàigòn dùng lại vại, chum sành. Có những ông chở trên một chiếc xe đạp bẫy cái vại cỡ trung đem vào các xóm bán từng nhà. Chắc bạn không sao tưởng tượng được bằng cách nào người ta có thể chở trên một cái xe đạp bẩy cái vại cồng kềnh và rất dễ vỡ. Người ta dùng những cái boọc ba ga bằng sắt lớn và chắc, lấy cây gỗ buộc thêm, giữa để một vại, hai bên sáu vại cân đối nhau, dùng dây chão chằng lại. Tất nhiên muốn chở nặng như vậy, xe đạp phải là xe tốt, khung niền cứng, vỏ ruột mới, loại xe gọi là xe thồ được chế tạo đặc biệt để chở đồ. Và người chạy xe phải thật cứng gân, cứng tay lái.

Trên đây là kể sơ sơ một số những nghề ít vốn, ai làm cũng được. Nếu có tiền, có chỗ, người Sàigòn mở tiệm ăn, cà phê, chè đường, trái cây có nước đá bào gọi là cocktail, mua bán quần áo cũ ở những chỗ gọi là khu chợ trời, bán đồ xe đạp, thuốc tây. Nhiều vốn nữa thì bán radio-cassette, quần áo ngoại quốc v.v... Tất cả đều mua đi bán lại. Tình trạng ly kỳ đập mạnh vào mắt mọi người và không ai trước đây có thể tưởng tượng nổi là Sàigòn hiện nay, 1981, lại có nhiều hàng hóa ngoại quốc hơn Sàigòn 1975. Ai có thể dự kiến được rằng sau sáu năm trái tim tư bản vẫn đập mạnh trong các xác vô sản gầy còm, khô khan. Trái tim tư bản đó sở dĩ còn đập được là vì nó được ngày ngày tiếp máu hồng từ những dòng máu tư bản ở khắp bốn châu truyền về. Tôi kể bốn châu là trừ châu Phi quá đọi nên không cung cấp gì cho Sàigòn. Những dòng máu đó là đường dây chi viện tư nhân do Việt kiều ở khắp thế giới gửi về cho người thân. 90% những người được hưởng chi viện này đều ở thành phố Hồ Chí Minh. Mọi thứ hàng về tới tám phần mười đổ ra bán ở thị trường. Trước tháng 6 năm 1980, khi thuốc lá ngoại quốc còn được gửi về, chưa bị tịch thâu, hang cùng ngõ hẻm nào cũng có bán Pall Mall, 555, Lucky, Craven A. Vào thời đó, thuốc lá ngoại át hẳn thuốc lá nội hóa, mua một gói Pall Mall dễ hơn, sẵn hơn là mua một gói Vàm Cỏ. Nay thì thuốc lá Anh Mỹ gần như hết hẳn ở Sàigòn. Chỉ còn thuốc Samit của Thái Lan được đổ lậu qua biên giới Thái-Kampuchia về và nếu có tiền chịu khó đi tìm thì ta vẫn còn mua được một gói 555 giá năm mươi đồng, một gói Craven A mười điếu cũng năm mươi đồng.

Những quần jean, áo pull, xà bông, kem đánh răng, vải xoa, nước hoa, bút, bật lửa thì chưa bao giờ Sàigòn có nhiều và đẹp như bây giờ. Sàigòn hiện có nhiều khu bán đồ ngoại quốc. Khu Huỳnh Thúc Kháng bán radio, cassette. Khu này bị dọn dẹp, cấm bán mấy lần, rồi lại cho bán. Quần áo, đồ dùng, thực phẩm và những đồ ngoại khác được bán rất nhiều ở khu Nguyễn Thông, đầu Hồng Thập Tự – chỗ công trường liền với Lý Thái To,å chợ An Đông, chợ Tân Định, khu Hải Ký mì gia và ở đường Tạ Thu Thâu chợ Bến Thành.

Khu nào đồ cũng nhiều và đẹp. Song tôi thấy không khu nào đồ nhiều, đẹp, sang, tốt nhìn mát mắt bằng khu Tạ Thu Thâu. Suốt con đường ngắn này và trên vỉa hè nhìn sang chợ Bến Thành, nhà nước cho dựng sạp đàng hoàng, mỗi sạp rộng một thước, hai dẫy đâu lưng nhau, treo bầy kín những quần jean, blousons, sơ mi đủ màu, đủ quốc tịch toàn cỡ vừa tầm người Việt, mua là mặc ngay, khỏi sửa. Có cả quần áo phụ nữ và trẻ em, giầy mũ là những thứ mà trước đây hàng PX Mỹ không hề có. Các tủ bầy nước hoa cũng có đủ thứ quốc tịch, xà bông, kem đánh răng đủ hiệu. Ngày xưa muốn mua một quần jean vừa ý, người ta phải kiếm mỏi mắt ở chợ trời khu Nhà Băng, nay thì theo ước lượng của tôi, muốn mua 50.000 bộ jeans-blousons người ta có thể đến khu Tạ Thu Thâu mua được ngay trong nửa tiếng đồng hồ. Giá quần jean từ hai trăm, đến năm trăm, pull và sơ mi rẻ hơn, khoảng một trăm năm mươi đến hai trăm đồng một áo.

Khu Hải Ký mì gia bán toàn thực phẩm: bơ, sữa, rượu, nho khô, bánh ngọt, trà sâm, kẹo mứt v.v... Đúng ra thì khu nào cũng có bán đủ mặt hàng, chỉ có nhiều hơn hoặc ít hơn, khu nào cũng có bán thuốc tây, bút. Nhưng thuốc tây nhiều nhất là ở khu Nguyễn Thông, bút bi, bút mực, bút chì, đồ văn phòng nhiều nhất ở vỉa hè Lê Lợi chỗ trước cửa nhà hàng Kim Hoa, cạnh Casino Sàigòn. Ở đây có đủ các thứ bút và bật lửa của Mỹ, Pháp, Đức, Nhật... Khu vỉa hè Tax bán phim ảnh v.v...

Tôi khó có thể tả hết những cảnh buôn bán của Sàigòn hiện nay. Vì thật ra tôi không thể biết hết. Và cũng không có đủ tài, đủ điều kiện để thu thập dữ kiện và diễn tả. Những gì tôi mô tả đây chỉ là một phần nhỏ của sinh hoạt Sàigòn. Còn biết bao nhiêu chuyện nữa không được viết vào đây. Thôi thì tôi dùng câu an ủi thông thường của tôi “Được bao nhiêu hay chừng nấy, Tùy duyên phương tiện”.

Những nghề tôi vừa kể ở thành Hồ đều là những nghề ít nhiều đã có từ trước ở Sàigòn. Trước năm 1975, người Sàigòn đã bán xổ số, đánh đề, làm đĩ, ăn cướp, ăn xin, đi moi thùng rác, bán quần áo cũ, bán chợ trời, đạp xích lô, mua ve chai v.v... Chỉ có trước năm 1975, dân Sàigòn bị Mỹ, Ngụy kìm kẹp nên ít người làm những nghề đó, nay thì được thả giàn.

Bây giờ đến một số nghề mà chỉ có Sàigòn xã hội chủ nghĩa hoặc thành phố Hồ Chí Minh mới có, Sàigòn tiền 75 không có. Cũng khá nhiều, như nghề đứng ở cửa nhà Bưu Điện để hỏi mua lại thuốc tây của những người đi lãnh đồ. Số này toàn thanh niên, nam nữ. Có những em đẹp ra gì, từ khoảng hai mươi đến ba mươi tuổi. Các em đón mua thuốc cho những sạp bán thuốc ở các chợ hoặc cung cấp thẳng cho bác sĩ, y sĩ Sàigòn hành nghề tư được quyền bán thuốc tây luôn cho khách. Bán thuốc tây là nguồn lợi chính của y sĩ, không phải tiền coi mạch hay khám bệnh. Thường thì bà vợ y sĩ giữ việc bán thuốc. Bác sĩ Huỳnh Kim Hữu đã già nhưng vẫn còn hành nghề. Bà vợ ông bán thuốc và mỗi toa thuốc của ông bác sĩ nổi tiếng này ít nhất cũng từ 1.000 đến 5.000 đồng.

Tôi đã viết về tình trạng sau khi cộng sản hạ những cái gọi là bức màn sắt, bức màn tre xuống nước Nga, nước Tầu, phải đợi đến cả hai mươi mấy mùa cóc chín sau thế giới tự do mới thấy lai rai vài bài viết tố cáo chế độ cộng sản ác ôn, bất nhân, bất lương, về thực trạng cộng sản bị thất bại nặng trong việc mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, do những người viết trong nước Nga, nước Tầu gửi ra. Đích xác hơn, ta thấy Nga cộng cướp chính quyền từ năm 1920 đến năm 1979 Nga mới có Alexandre Solzhenytsin. Đánh Nga cộng như Solzhenytsin mới thật là đánh. Tầu cộng cướp trọn lục địa Trung Hoa năm 1948, mãi đến cuối thập niên 80 mới thấy lác đác vài nhân vật Tầu trốn sang được Âu châu viết vài tác phẩm mỏng dính kết án cộng sản Tầu và Mao Sì Tung. Anh em chúng tôi, một số người viết phải ngơ ngáo và ngơ ngác sống trong ác mộng thấy Việt cộng đi ngờ ngờ trong thành phố, chỉ sáu tháng, một niên sau ngày trời long, đất ngả nghiêng, chúng tôi đã có lai rai những bài viết về đời sống cực khổ của đồng bào ta dưới ách cộng sản gửi ra nước ngoài.

Làm được việc ấy, thực ra anh em chúng tôi cũng chẳng can đảm hay giỏi giang gì mấy. Năm 1975, tình hình có khác với năm 1954, Việt cộng chiếm Sàigòn, đường liên lạc bưu tín giữa Sàigòn và các nước tự do Anh, Pháp, Mỹ vẫn không đứt đoạn. Những lá thư từ nước ngoài nườm nượp gửi về tìm hỏi người thân kẹt lại, còn hay đã chết. Những lá thư con cá trong nước cũng lũ lượt kéo nhau ra đi.

Chúng tôi lợi dụng tình trạng tương đối tự do về thư tín ấy. Nếu Việt cộng làm như Pol Pot Khờ Me Đỏ, ra lệnh hủy bỏ bưu điện, nhân dân không có thư từ điện tín, điện thoại chi ráo, chắc anh em chúng tôi đã không làm được cái việc viết và gửi tác phẩm khơi khơi bằng đường bưu cục ra nước ngoài.

Công an VC rất khó kiểm soát được hữu hiệu số thư của nhân dân trong nước gửi ra những nước ngoài. Lý do, quá nhiều thư gửi đi, bọn công an bảo vệ văn hóa có đông đến mấy cũng không có thể mở từng phong thư ra kiểm duyệt được. ViXi không nắm được những địa chỉ khả nghi ở các nước Âu Mỹ. Nghe nói ở Bưu điện Trung ương Sàigòn, bọn cán bộ thường kiểm duyệt bằng cách lấy đại một số thư mở ra coi. Thư trong nước gửi ra nước ngoài, những lá thư bị gọi là “phản cách mạng, phản động” như thư của chúng tôi chìm lẫn trong cả ngàn lá thư đi mỗi tuần. Vixi có rình cũng khó vồ được thư của chúng tôi. Nhưng thư từ nước ngoài gửi về thì tình hình lại khác hẳn.

Công an VC rất dễ kiểm duyệt thư từ nước ngoài gửi về. Nhà dân được chia thành từng khu, mỗi khu chừng 400 đến 500 hộ. Một nhân viên bưu cục phát thư phụ trách việc phát thư cho hai khu. Nhà tôi ở quận Tân Bình, thư gửi cho tôi được đưa về bưu cục Tân Bình, bưu cục nằm trên đường Võ Tánh xưa của ta, nay là đường Hoàng Văn Thụ, khoảng trước con đường đi vào Đệ Nhất Khách Sạn. Tại đây, thư của tôi được đưa vào hộp chờ người phát thư khu tôi lấy đem đi. CAVC chỉ ra lệnh giữ số thư nước ngoài gửi về khu nhà tôi tại bưu cục chờ kiểm soát. Bọn công an mới vào nghề được gọi theo Tầu cộng là những trinh sát viên hoặc chiến sĩ trinh sát, những năm đầu đói rách đạp xế guồng rạc cẳng, nay thì tên nào cũng Honda mới hoặc cũ, vài ba ngày đến bưu cục Tân Bình một lần. Chúng chỉ việc kiểm số thư gửi về khu nhà tôi, thấy có thư của tôi là lấy, đem về sở mở ra coi. Bằng chứng tôi có liên lạc với “bọn phản động chống phá cách mạng” ở nước ngoài nằm trong những lá thư anh em tôi gửi về đó.

Tôi viết bài gửi ra nước ngoài nhiều nhất trong hai năm 1982, 1983. Tôi nhớ những năm ấy tôi gửi bài viết linh tinh cho từng này người:

– Cô Phương Hương, anh Trần TamTiệp, Paris, Pháp.

– Ông Hồ Anh, tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong ở Hoa Kỳ.

– Anh Nhất Giang ở Cabramatta, Úc.

Viết bài gửi đi, nhiều khi tôi bâng khuâng nghĩ đến chuyện không biết thư mình có đi thoát, có đến tay người mình gửi hay không? Một trong những sung sướng của tôi là được đọc bài viết của mình in trên trang giấy, sáng sủa, sạch sẽ, gọn gàng. Trong nhiều năm ở Thành Hồ, tuy vẫn viết bài gửi đi, tôi không hưởng được cái lạc thú ấy. Có lần tôi viết dặn ông chủ nhiệm Văn Nghệ Tiền Phong:

– ... Anh viết về cho tôi biết anh nhận được bao nhiêu bài của tôi, ngày nào. Anh viết là “áo hoa” tôi hiểu.

Ông chủ nhiệm Văn Nghệ Tiền Phong làm đúng lời tôi yêu cầu. Tôi nhận được lá thư từ Hoa Kỳ gửi về:

– ...Tôi nhận được ngày... hai áo hoa anh gửi, ngày... hai áo hoa nữa...

Đọc thư tôi thở hắt ra. Công an nó không đọc thư này thì thôi, nó mà đọc là nó biết tỏng tòng tong cái gọi là “áo hoa” này là cái gì. Bất cứ người dân Thành Hồ nào cũng có thể gửi áo hoa sang Tây, sang Mỹ, sang Úc, sang Ăng-lê – những năm đầu 80 có phong trào người Thành Hồ gửi những sấp hàng may áo dài cho thân nhân ở nước ngoài, những sấp hàng này được vẽ hoa nên gọi tắt là áo hoa – riêng Anh Con Trai Bà Cả đọi, anh em cùng vợ với Công tử Hà Đông, thì không thể. Cái gọi mánh “áo hoa, áo hoét” trong thư này chỉ là những bài viết phản động của anh thôi.

Khi CAVC nghi, mở cuộc theo dõi họ rất dễ tìm ra bằng chứng những người bị nghi phạm tội. Chúng tôi cứ viết, cứ gửi đi, cứ nhận thư về ngay nhà mình, một năm rồi hai năm. Cứ như vậy không thay đổi. Chuyện bại lộ và bị bắt là chuyện không thể tránh được.

CAVC chặn thư, mở thư xem, có thư họ lấy luôn, có thư họ chụp photocopy rồi để lại vào phong bì, gửi đến người nhận. Có những đêm nằm trằn trọc trên căn gác nhỏ Ngã Ba Ông Tạ, tôi xem lại lá thư mới nhận, lo âu khi thấy rõ vết phong bì thư bị mở ra, dán lại. Tôi sợ khi thấy những triệu chứng tôi sắp bị bắt lại. Nghe nói ở đời này có những người không ngán sợ tù đày, tôi không ở trong số những người đó. Tôi sợ tù đầy. Tôi đã nằm tù một lần hai mùa lá rụng, tôi đã biết thế nào là sự bẩn thỉu, nỗi buồn chán ghê rợn của cuộc sống trong tù. Những tháng giữa năm 1977, 1978, khi bị bắt lần thứ nhất, tôi nằm 12 tháng 2 ngày một mình còng queo, vò võ, buồn và nóng ruột nhiều khi muốn phát cuồng, trong hai xà-lim, văn huê kiểu Việt cộng là Biệt giam và Ca sô – số 15 khu B và số 6 khu C Một Nhà Tạm Giam số 4 Phan Đăng Lưu, tôi bắt chước thi sĩ Trần Văn Hương làm thơ:

Đã buồn cho nó buồn luôn
Vào tù xem mặt tù buồn ra sao
Vào tù mới rõ thấp cao
Buồn tù chẳng có buồn nào buồn hơn
Vào tù mới rõ nguồn cơn
Buồn nào thì cũng chẳng hơn buồn tù.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 28)

Nhân nhắc đến những năm 77, 78, tôi nằm xà lim ở Số 4 Phan Đăng Lưu, xin nhắc lại một vài kỷ niệm:

Trước hết là anh Nguyễn Mạnh Côn, một trong những ông đàn anh văn nghệ của tôi. Anh bị bắt trong chiến dịch càn quét văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại Sàigòn tháng Ba năm 1976.

Một chiều thứ bẩy, tháng Chín năm 1977, tôi vào xà lim số 15 khu B Nhà Giam Số 4 Phan Đăng Lưu. Khoảng 10 giờ sáng Chủ nhật hôm sau, tôi nhìn thấy anh Nguyễn Mạnh Côn.

Anh ở phòng tập thể số I khu B ngay trước dẫy xà lim trong có tôi. Chủ nhật, cai tù mở cửa phòng giam cho tù ra sân ngồi phơi nắng chừng nửa giờ. Tù phòng này được ra nửa giờ, trở vào phòng rồi mới mở cửa phòng tù khác.

Anh Côn ngồi xa tôi chừng 15 thước. Anh bận bô bà ba nâu. Người tù nào da dẻ cũng xanh mướt như tàu lá chuối non. Anh Côn tóc bạc, râu bạc. Buổi sáng hôm ấy tôi mới vào tù, tôi bồi hồi nhìn ông đàn anh của tôi qua ô cửa gió nhỏ bằng quyển sách trên cửa xa-lim. Hình ảnh anh Côn gầy yếu trong bộ bà ba nâu ngồi trong nắng trước cửa phòng tù số I khu B Nhà Tù Sâố 4 Phan Đăng Lưu hai mươi mùa thu trước sáng nay trở về ẩn hiện trước mắt tôi...

Anh Côn mua lại căn nhà lầu của Phạm Duy trong cư xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận. Vì anh chưa trả hết tiền, nên Phạm Duy chưa sang tên nhà cho anh, 30 Tháng Tư đến, Phạm Duy đi mất, anh chị Côn chưa chính thức làm chủ căn nhà. Tôi không biết anh chị Côn gặp khó khăn như thế nào vì căn nhà chưa sang tên này. Việt cộng theo lời dạy của thánh tổ Lênin, tịch thu hết “tài sản của những kẻ bỏ trốn ra nước ngoài”

Tôi vào tù được chừng bẩy ngày, được nói qua, nói lại với anh Côn vài câu ngắn ngủi, rồi tôi ngàn thu vĩnh biệt anh. Một tối nằm trong xà lim, tôi nghe có tiếng lịch kịch mở cửa sắt, tiếng gọi tên bên ngoài. Cánh cửa gió nhỏ ở trên xà lim bị đóng lại để người tù biệt giam không biết có chuyện gì xẩy ra bên ngoài. Đây là cuộc chuyển trại. Những người tù được chuyển đi, thường là sang Chí Hòa hoặc lên trại cải tạo, được gọi ra tập trung vào một hai phòng, chờ lên xe đi. Anh Côn đi khỏi số 4 Phan Đăng Lưu trong đêm hôm đó.

Nhiều đêm nằm trằn trọc trong xà lim đèn lờ mờ, tôi gợi ký ức nhớ lại đủ thứ chuyện. Tôi hình dung lại căn nhà của gia đình tôi ở Hà Đông. Tôi sắp xếp đồ đạc ở trong nhà: cửa sơn mầu nâu gụ, ngay bên cửa ra vào là hai cái ghế, bộ sa-lông Tàu kê ở giữa nhà, rồi sập gụ, tủ chè, hoành phi, câu đối, chiếc đồng hồ quả lắc treo cạnh cái đầu trâu rừng đắp bằng đất nung, cặp sừng là sừng thật, sản phẩm của nhà thủ công nghệ Hà Đông, cây súng săn Ca-líp Xe-giờ của thầy tôi đặt trên cái giá sừng hươu trên tủ chè...

Và tôi nhớ lại cuộc giao tình của tôi với anh Côn. Như tôi đã viết trong số những người viết trẻ từng thân với anh Côn như Nguyễn Đình Toàn, Duyên Anh, Trần Dạ Từ, chỉ có tôi là “bạn đồng sàng, đồng bàn đọi” với anh Côn.

Anh Côn có bàn thờ Cô Ba tại gia nhưng anh thích đi hút ở tiệm hơn. Anh hút nhiều, tự làm thuốc lấy vất vả, mất thú. Ít khi anh tiếp ai ở bàn đọi của anh. Đi hút ở tiệm quá đô rồi về nhà anh vẫn đốt đèn làm vài bi để chị Côn yên trí là anh không hút ở tiệm.

Tôi được anh tiếp tại bàn đọi ở nhà mấy lần. Anh bảo tôi:

– Vợ tôi bà ấy nói tội nghiệp cậu. Tôi nói nó kiếm được tiền, sợ quái gì. Vợ tôi nói: “...nhiều hay ít thì rồi cũng vất vả như anh thôi...”

Anh Côn mất khoảng năm 1979 trên trại cải tạo Xuyên Mộc, chị Côn mất khoảng năm 1990 tại thành Hồ. Anh chị có hai con trai. Cháu lớn ở với vợ con trong căn nhà anh chị mua lại của Phạm Duy ở cư xá Chu Mạnh Trinh. Cháu thứ hai sống với vợ con ở Houston, Texas.

Anh Côn là đại biểu Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội trong quốc hội thứ nhất của ta sau năm 1945. Anh nói:

– Năm ấy, chúng tôi làm một bản tổng kết tình hình đất nước sau chiến tranh. Bản tổng kết có kể nạn đói năm Ất Dậu làm đồng bào ta chết đầy đồng. Chúng tôi quyết định để là hai triệu người chết. Đâu có làm thống kê được mà biết chắc con số người chết vì không có ăn trong năm ấy là bao nhiêu. Con số hai triệu do chúng tôi đặt ra trở thành số liệu lịch sử.

Khi tôi và anh Côn chơi ở tiệm Đ.Q hẻm trường Đại học Vạn Hạnh cạnh cầu Trương Minh Giảng, anh Triều Đẩu cũng hay lui tới đây. Anh Triều Đẩu là tác giả tiểu thuyết phóng sự Trên Vỉa Hè Hà Nội đăng trên Tạp chí Thế Kỷ xuất bản khoảng năm 1952, 1953 ở Hà Nội. Tôi đọc Trên Vỉa Hè Hà Nội của anh Triều Đẩu thấy anh viết thật hay, giọng văn có duyên, hỏm hỉnh, hấp dẫn. Một phần nhờ đọc Trên Vỉa Hè Hà Nội mà tôi nẩy ra ý bắt chước, viết cái gọi là phóng sự tiểu thuyết tếu Ông Tây, Bà Đầm, Bà Lớn, Yêu Tì, đưa ra những nhân vật không giống ai và không ai giống như ký giả Cuốc Tô, bà Zô-zan Chủ tịch hội Lát-Sốt-sì-sần, Cập-pi-tên La Lô, ông Đội Đèn, chị em Ngọc Tũn ái nữ ông Lang Toe, có thế võ Kim kê áp noãn thần sầu quỷ khốc không nam cao thủ võ lâm nào chịu nổi.

Anh Triều Đẩu là công chức, anh không phải là người viết chuyên nghiệp. Anh nghiên cứu tử vi và giải số tử vi nổi tiếng. Cung cách tử vi của anh có mục gọi là “Thất sát triều đẩu” nên anh lấy bút hiệu là Triều Đẩu. Bút hiệu thật hay và đặc biệt. Bên bàn đọi, anh xem tử vi cho nhiều người. Tôi đích thân chứng kiến vài chuyện anh chỉ căn cứ vào tên mấy ngôi sao trên tờ giấy mà gọi ra đời tư người ta đúng vanh vách. Đơn cử một chuyện:

Anh bạn Đại úy hít tô phê nhờ anh Triều Đẩu xem giùm lá tử vi đã lập thành. Giải linh tinh một hồi, không có gì quan trọng, thầy nói:

– Theo lá số này, thì chị vợ của anh đã có một đời chồng.

Đại úy cười gượng:

– Thưa nhân tình, nhân bánh thì chắc có, chồng thì chưa...

Tôi nghe anh Triều Đẩu nói:

– Tôi nói là đã có một đời chồng kia. Nếu không phải thì tôi đoán sai, tôi xin lỗi.

Thầy xin lỗi và thầy không giải nữa.

Đại úy bèn nhận là vợ mình đã có một đời chồng và xin thầy giải tiếp. Sau đó, tôi được nghe một ông Đại úy cũng trong hội hít tô phê khác kể tại bàn đọi này:

– Vợ nó là nữ trợ tá, bị thằng Thiếu tá trưởng phòng nó lấy. Nhưng thằng Trưởng phòng đã có vợ con rồi, nó lấy ít lâu nó buông, nó làm mối em cho tên này lúc ấy mới là Thiếu úy. Chuyện ấy anh em trong Nha tôi ai mà chẳng biết...

Tôi kể lại chuyện xưa tích cũ để nói về tài giải đoán tử vi của anh Triều Đẩu. Anh đã qua đời ở Thành Hồ. Tôi chỉ théc méc một điều: coi tử vi cho anh Côn và tôi anh Triều Đẩu nói cả hai chúng tôi đều có hậu vận êm đềm, càng ngày càng có tiếng, sống lâu lên lão làng, địa vị bền vững...

Lời anh tiên đoán về hậu vận của chúng tôi chắc chắn là đúng nếu chúng ta không bại trận, nếu quốc gia Việt Nam Cộng Hòa đứng vững. Nhưng chuyện xảy ra cho tôi thấy cuộc đời anh Nguyễn mạnh Côn hoàn toàn khác với lời giải của anh Triều Đẩu. Trước năm 1975, làm sao tôi có thể tin nếu có người nói: “Anh Côn, anh Hoạt sẽ chết thảm thiết trong tù, các tướng lãnh, sĩ quan của ta sẽ đi tù hết...”

Tôi không tin nếu có người nói như thế, nhưng sự thực là chẳng có ai, kể cả những ông bà thầy bói mù lẫn bói sáng nói một câu như : “Coi chừng. Đến năm 1975 tử vi của ông đi vào đại hạn đen hơn mõm chó mực. Ông bị mất chức, mất nhà, mất cả vợ, ông bị đi tù...” Có một thời, những năm đầu của thập niên 70, từ ông Tổng thống đến ông Tống thư văn, từ vị Đại tướng đến vị binh Nhì, tất cả đều mê tín tử vi, xem tử vi lu bù kèn. Nhưng tử vi của vị nào cũng sáng hơn gương Tầu, quan văn, quan võ đều thăng quan tiến chức, tả phù, hữu bật, nhà buôn đều nhất bản vạn lợi, phúc lộc dồi dào. Đùng một cái, Việt cộng nó kéo vào Sàigòn. Banh ta lông tú lơ mo. Tử vi, tử véo của anh nào cũng có sao Quả Tạ đồng cung với sao Bị Gậy...

Anh Chu Tử Chu Văn Bình chết trên tầu Việt Nam Thương Tín khi tầu trên đường ra cửa biển, anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt chết trong nhà tù Chí Hòa, anh Nguyễn Mạnh Côn chết trong trại cải tạo Xuyên Mộc.

Tôi được nghe anh em kể anh Côn chết vì anh tuyệt thực đòi Việt cộng phải trả tự do cho anh. Không biết vì sao anh nghĩ rằng án tù của anh chỉ là ba năm và anh đã ở tù đủ ba năm, Việt cộng phải trả tự do cho anh.

Cai tù Việt cộng học cách đàn áp tù nhân của đàn anh Nga cộng, Tầu cộng, tàn ác khủng khiếp với những người tù dám công khai chống đối bạo quyền của chúng. Chúng đàn áp thẳng tay những người tù đó để trấn áp những người tù khác. Người tù nào không chịu làm khổ sai là bị chúng nhốt phòng tối, trần truồng, không mùng mền, không chiếu, ăn cơm nhạt, không được tắm rửa... Chúng nhốt cho chết luôn. Người tù sống sót chỉ được thả ra sau khi năm bẩy lần van xin bằng miệng, bằng đơn từ. Người tù nào tuyên bố tuyệt thực là chúng bắt phải chết bằng cách “không chịu ăn, không cho uống nước luôn...”

Nghe nói người ta có thể nhịn ăn và lả dần cho đến chết, nhưng không sao có thể nhịn uống được... Bằng chứng là những năm Sàigòn bát nháo từ 1965 đến 1970 nhiều tu sĩ thường đến trước dinh Độc Lập để tuyệt thực, với những bình nước sâm Cao ly thượng hảo hạng do các nữ đệ tử cúng dâng. Ở trại cải tạo Xuyên Mộc, anh Côn tuyên bố tuyệt thực đòi tự do, bọn cai tù không cho anh uống nước cho đến lúc anh chết.

Từ Nhà Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, tác giả Đem tâm tình viết lịch sử, Ba người lính nhẩy dù lâm nạn, Mối tình mầu hoa đào, Tình cao thượng, Hòa bình... Nghĩ gì...? Làm gì...? bị Việt cộng đưa lên trại cải tạo Xuyên Mộc, Bà Rịa. Anh đến đó và nằm tại vùng rừng già ấy.

Hận thù nào rồi cũng qua đi với thời gian. Mai sau dầu có bao giờ... con cháu chúng ta đọc được những trang sử ghi lại những hận thù, những đau thương của ông cha chúng trong nửa cuối thế kỷ thứ 20 đầy máu và nước mắt chắc sẽ phải ngạc nhiên khi thấy ông cha chúng giết nhau, thù hận nhau quá đỗi.

Khi sống trong tù, mắt nhìn thấy những người bạn tù chết thảm thương, tôi vẫn nghĩ các bạn tôi chết, tôi cũng có thể chết như họ. Tại sao không phải là Hoàng Hải Thủy chết cứng trên nền xi măng xà lim số 4 Phan Đăng Lưu và hôm nay Dương Hùng Cường ngồi viết ở Rừng Phong Arlington kể lại cái chết thê thảm của bạn?

Tôi mượn lời văn sĩ Elie Wiesel để diễn tả tâm trạng tôi khi tôi viết những trang này. Văn sĩ Elie Wiesel người gốc Do Thái, sinh trưởng ở Romania, hiện sống trên đất Hoa Kỳ. Ông viết nhiều về thảm họa dân Do Thái ở Âu châu bị Đức quốc xã giết hại trong thế chiến thứ hai. Ông được tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1986:

– Tôi không có quyền tha thứ cho bọn giết người về cái tội chúng đã tiêu diệt sáu triệu người Do Thái. Quyền tha thứ hay không là ở những người đã chết.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 29)

Chỉ huy trưởng rút từ trong ngăn kéo ra một xấp báo lá cải của bọn phản động lưu vong in ở nước ngoài để trên bàn.

– Anh Tư đã xem mấy thứ này chưa?

– Dạ có. Tôi vẫn nhận được thường xuyên nhưng... Tư Tuân định hỏi có gì mới, nhưng anh thấy câu hỏi ấy thừa, bởi vì chỉ huy trưởng đã mời ở lại phải có “vấn đề cần trao đổi”. Vì vậy anh bỏ lững câu nói, nhìn đồng chí cấp trên của mình chờ đợi.

– Tôi biết. Mấy thứ giấy lộn này có đáng gì, nhưng nó là khói của một đám lửa cần dập tắt. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là phải chú ý đến nó...

Một đoạn trích từ những trang 74-75 của truyện “Những tên biệt kích cầm bút“. Hai anh Cớm Cộng Thành Hồ Minh Kiên – Nam Thi đồng tác giả. NTBKCB gọi những tờ báo của “bọn phản động lưu vong in ở nước ngoài” là “xấp lá cải”. Nhưng nếu hai anh bị người nào đó hỏi “Tại sao lại gọi là báo lá cải?” chắc chắn hai anh trả lời không thông. Vì mặc cảm răng đen, mã tấu lớ ngớ trước bọn ” ngụy dân Sàigòn” tên nào cũng học thức hơn mình, bọn Cán Cộng thường gồng mình tỏ ra hiểu biết một cách hết sức ngô nghê. Chuyện này chẳng có gì đáng phải théc méc. Đời nào và ở đâu cũng vậy, những anh “xấu hay khoe tốt, dốt hay nói chữ”. Đặc biệt là trong những bài viết của mấy anh VC người ta thường thấy tự dưng mấy ảnh tương vào vài câu tiếng Pháp, tiếng Anh không cần thiết và không giống ai.

Những năm 82, 83 đen hơn mõm chó mực ở Thành Hồ tôi thường tìm trong tờ tuần báo Công An Thành Hồ những tin tức có thể khai thác thành bài báo gửi ra nước ngoài, tất nhiên những tin tôi khai thác đều là những tin bất lợi cho Cộng sản, những tin nói lên đời sống cơ cực của người dân cùng sự bất lực cộng với sự thối nát, ngu ngốc của bọn Bắc Việt Cộng chiếm đóng miền Nam. Có lần tôi tình cờ nhìn thấy mấy chữ tiếng Anh in nghiêng một cách trịnh trọng trong phần truyện dài đăng từng kỳ “Lệnh Truy Nã” của Huỳnh Bá Thành – tức Họa sĩ Ớt báo Điện Tín Chủ nhiệm Thượng nghị sĩ Hồng Sơn Đông. “Lệnh Truy Nã“, tức “Lệnh Bắt Người” đăng trong tờ Công An Thành Hồ:

Đại úy Trường Sơn, cớm ViXi được Huỳnh Bá Thành diễn tả như một nhân vật Công An VC hào hoa phong nhã – anh Đại úy này chính là hóa thân của Cớm Huỳnh Bá Thành tức Ba Trung – khi thẩm vấn một can phạm Đại úy CAVC Trường Sơn ra lệnh:

– Cho tôi biết tên anh...

Can phạm trả lời.

Cớm lắc đầu:

– Không... Cho tôi biết full name của anh kia...

Bố khỉ. Có khỉ thì cũng khỉ vừa thôi, để cho người khác người ta khỉ mí chứ. Hai anh Mít đặc ở giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng giả, hơn nữa còn ở giữa phòng thẩm vấn của bọn Công an Việt Cộng, bọn nổi tiếng về mục bắt người dễ dàng, giam người thật lâu, bỏ quên người trong tù là chuyện thường ngày, đang tự nhiên phang nhau hai tiếng “full name“. Cớm Ba Trung học lóm được ở đâu hai tiếng “full name” lập tức đem ra xài trong tiểu thuyết để chứng tỏ mình cũng biết tiếng Mẽo như ai.

Nhân nói đến chuyện Cớm ViXi ham xài tiếng nước ngoài quê mấy cục, xin kể một chuyện nhỏ về chuyện vợ chồng tên Năm Tốt ở trại Tạm Giam Số 4 Phan Đăng Lưu, cửa vào thế giới tù đầy của những công dân Thành Hồ.

Năm Tốt, dân miền Nam, tập kết ra Bắc năm 1954, thuở thiếu thời từng theo học Đại học Chăn Trâu với Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh – Năm Tốt ở dưới đàn anh Nguyễn Văn Linh vài lớp – Ra Bắc, cũng như đa số thanh niên Nam bộ chưa có vợ hay có vợ mà bỏ lại trong Nam, Năm Tốt lấy một chị vợ Bắc Kỳ chính cống Bà Lang Trọc, Vợ Năm Tốt có cái tên giả khá đẹp là Thị Loan. Thị người mập mạp, đặc biệt mặt thị ngắn và gẫy trông như mặt loài chó Fox. Những năm 1984, 1985 khi những tu sĩ nhóm Già Lam Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Ni cô Thích Trí Hải, Thượng tọa Thích Đức Nhuận cùng bọn tám người bị gọi là “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút” đang ăn cơm tháng dài hạn ở Đại Học Xá Số 4 Phan Đang Lưu, Năm Tốt là Trưởng Trại, tức Quản Đốc Nhà Tù.

Những năm ấy – 1984, 1985- Năm Tốt trạc Năm Bó Gẫy tuổi đời, Thị Loan Năm Bó Chẵn. Thị Loan không phải là nhân viên Trại nhưng Thị tranh chức nhận thuốc và phát thuốc cho tù. Năm Tốt trao trách nhiệm nhận, phát thuốc cho Vợ để Thị ăn chặn thuốc của tù. Việc nhận phát thuốc cho tù là công việc béo bở, ra tiền nhiều và dễ dàng nhất trong nhà tù. Bọn Công An dưới quyền Năm Tốt cay cú nhưng vì sợ Năm Tốt nên chỉ lèm bèm chửi Thị Loan những lúc chúng ngồi riêng với nhau.

Sáng tinh sương ngày 2 tháng 5 năm 1984 tôi thiểu não theo bọn Công An đi vào hành lang khu C 1 Số 4 Phan Đăng Lưu, ông bạn cao niên của tôi là ông Vương Văn Bách – Luật sư – đã nằm ngâm thơ Trần Văn Hương được sáu tháng trong xà lim số 11 khu này. Tôi được đưa vào xà lim số 10. Nửa năm sau anh Bách và tôi đoàn tụ với nhau trong phòng giam tập thể số 6 cùng khu C 1. Anh với tôi ăn chung, nằm cạnh nhau cho đến ngày chúng tôi lên xe sang Thánh Thất Chí Hòa. Có lần tôi nghe anh kể:

– Thằng Năm Tốt sợ vợ thấy mẹ đi. Đàn bà Bắc kỳ loại con mụ Thị Loan đanh đá hạ cấp lắm. Trông cái mặt nó là biết nó nặc nô rồi. Năm Tốt hung hăng con bọ xít ở đâu chứ trước mặt Thị Loan là im re. Các cậu có biết con mụ Loan nó nói với thằng chồng nó ra sao không? Nó nói: “... Nè anh Năm à... anh chơi con đàn bà nào nó hai l... bốn vú thì anh hãy chơi, còn con nào nó chỉ có một l... hai vú thì anh đừng chơi. Tôi đây cũng có...”

Ông bạn cao niên của tôi học Albert Sarrault, từng than thời trẻ ông không học trường Việt nên khi chúng tôi nói với nhau những điển tích trong những sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Quốc Văn Độc Bản: “Ai bảo chăn trâu là khổ? Ôi cảnh biệt ly sao mà buồn vậy... không nơi nào đẹp bằng quê hương... Xuân đi học coi người hớn hở v.v...,” ông không biết gì để tham dự. Hai lần ông du học Pháp Quốc về ngành Luật. Vậy mà ông kể chuyện mụ vợ Năm Tốt nẹt chồng trơn tru, lưu loát và hết sức có duyên. Nằm bên ông tôi théc méc :

– Con vợ Năm Tốt nó chửi thằng chồng nó ở nhà nó, ai nghe được câu nó chửi chồng? Anh ở biệt giam anh lại càng không nghe được. Dzậy mà anh kể như chính tai anh nghe vậy?

Anh cười tủm:

– Cậu tưởng tôi bịa à? Tôi làm sao có đủ tài bịa một câu hay đến như thế? Vợ Năm Tốt chửi chồng nó công khai, càng nhiều người nghe nó càng khoái. Bọn công an nghe được, nói lại với nhau. Tù ra làm lao động nghe được chuyện bọn công an, kháo lại với nhau. Tôi đứng cửa gió biệt giam hóng chuyện chúng nó nên tôi nghe được.

Chừng một hai tháng Năm Tốt lờ phờ đi một vòng kiểm soát nhà tù. Khi đứng lại trước cửa một phòng tù Y có cái cử chỉ ruồi bâu kiến đậu là đưa tay lên bịt mũi, tay kia vẫy vẫy ra hiệu cho Trưởng phòng đứng lùi lại, đừng có đứng ngay sau cửa. Nhà tù là nhà tù Việt Cộng, bọn đàn anh Năm Tốt giao cho y giữ tù. Phòng tù chỉ có thể giam được 15 mạng, nó nhét vào đến 40 có khi 45 mạng. Cầu tiêu ngay trong phòng. Nước không có. Dàn ống dẫn nước lâu năm đóng rỉ sét, không có một giọt nước vào cầu tiêu trong tù. Làm gì mà không hôi thối. Thay vì Cai Tù Trưởng Trại phải xấu hổ vì phòng tù nhà nó hôi thối, nó lại bịt mũi khinh bỉ cái hôi thối của chính nhà nó.

Tết 1985, ngày 28 hay 29 Tết chi đó. Năm Tốt đi một vòng, gọi Trưởng Phòng Tù ra đứng cửa, nói:

– Ba ngày Tết tôi để cho mấy anh em vui chơi thong thả nhưng không được ồn ào. Sau ba ngày Tết triệt để cấm cờ bạc. Anh nào đánh bạc bắt được tôi phạt bảy ngày, Trưởng phòng tôi cho đờ-mi tăng...

Bẩy ngày là bẩy ngày nằm xà lim, bị còng chân hoặc còng tay. Năm Tốt cho “Trưởng phòng đờ-mi tăng” tức là cho Trưởng Phòng nằm xà lim, còng tay chân... ba ngày rưỡi.

Chỉ cần nói thêm vài dòng nữa về mục nhận, phát thuốc của tù của Thị Loan. Trong truyện của Aleksandre Solzhenytsin viết về một ngày trong đời anh tù Ivan Denisovitch ở Liên Xô, tác giả tả anh tù Ivan may mắn được bọn công an cho ra hầu hạ chúng những việc vặt. Nhờ vậy Ivan được hưởng chút cà phê thừa, bánh mì vụn của bọn cai tù. Tù Liên Xô sống nhờ bọn cai tù. Tù Việt Cộng ngược hẳn: Bọn cai tù sống nhờ tù. Chúng bóc lột, ăn chận, ăn gian, ăn bớt, ăn chĩa của tù không chút ngượng ngùng.

Nhà tù Số 4 Phan Đăng Lưu không cho phép tù giữ số thuốc người nhà gửi vào, kể cả thuốc bổ. Khi đến gửi đồ nuôi thân nhân phải nộp số thuốc cho Thị Loan. Thị ngồi riêng một bàn nhận thuốc. Cũng ghi tên, ghi số thuốc vào sổ đàng hoàng nhưng người tù có thuốc xin được dùng thuốc của chính mình rất khó. Muốn xin thuốc của mình người tù phải nhờ mấy anh tù được ra làm lao công quét dọn, khiêng cơm, phát cơm trong
khu. Mấy anh tù này nói lại với Thị Loan. Thị Loan không xuất hiện, anh tù lao động không có trách nhiệm cũng không có thẩm quyền xin, đòi thuốc cho bất cứ ai. Và anh tù có thuốc chịu chết.

Thuốc gửi vào tù mười, người tù có thuốc được lãnh hai, ba phần là may. Nhiều người không biết người nhà mình gửi cho mình những thứ thuốc gì. Thị Loan đem bán số thuốc Thị lấy của tù cho lái thuốc để cung cấp cho thị trường Âu dược. Những năm ấy bất cứ thứ thuốc Tây nào cũng bán được và bán có giá ở Thành Hồ.

Hôm nay trong số những bạn đọc những dòng này viết về vợ chồng cai tù Năm Tốt và Nhà tù Số 4 Phan Đăng Lưu chắc phải có một số bạn từng sống những năm 84- 85- 86 ở nhà tù này. Đã từng biết Năm Tốt – Thị Loan, các bạn làm chứng là tôi viết đúng.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 30)

Trích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, từ trang 92 đến trang 98.

Kiên Trinh và số anh em trong đội của mình đã kiệt kê một danh sách 21 tên tàn quân của đội biệt kích văn hóa – tư tưởng của Mỹ có thể là thành viên của cái “tòa soạn bí mật tại chỗ” mà Tư Tuân đã gợi ra. Công việc ấy không mấy khó khăn vì chỉ cần lật ra các tập tài liệu, trao đổi với một số người am hiểu giới nhà văn, nhà báo cũ ở Sàigòn thì có thể lòi ra từng tên rằn ri đang núp ở xó xỉnh nào đó. Hầu hết, số người này quen thói lêu bêu, tối ngày la cà, bù khú với nhau ở quán cóc, cà phê cà pháo với nhau. Chỉ cần liếc qua là biết họ đang sống thế nào. Đó là những con ngựa quen đường cũ, chuyên gieo rắc nọc độc hòng gây tác hại về mặt chính trị tư tưởng. Sự tiêu xài vung vít mỗi khi được chủ trả tiền công cũng góp phần tự tố cáo chúng.

Căn phòng của Kiên Trinh nhỏ nhưng khá náo nhiệt. Chuông điện thoại reo từng chặp, mấy chiếc máy đánh chữ hiệu Remington mổ lốc cốc liên hồi. Chỗ này, một anh trinh sát trẻ hí hoáy viết, chỗ khác mấy anh đang hăng hái tranh luận với nhau, không khí giống hệt tòa soạn một nhật báo trước giờ báo lên khuôn, chỉ thiếu mùi mực in và dĩ nhiên không thiếu khói thuốc mù mịt. Kiên Trinh quen thuộc với khung cảnh và nhịp điệu sinh hoạt này đến nỗi mỗi khi ngồi viết một mình trong căn phòng vắng lặng, anh cảm thấy dường như thiếu một cái gì đó kích thích tính năng động của bộ óc. Các nhà khoa học cho rằng tiếng ồn ào ảnh hưởng xấu đến sự hoạt động tinh thần, nhưng với anh, loại tiếng ồn thân thương này là một chất liệu không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày.

Trông bề ngoài, Kiên Trinh ốm yếu: người dong dỏng cao gầy, mặt thon, lúc nào cũng không rời cặp kính trắng. Nhưng anh dẻo dai như một sợi mây rừng. Anh có thể ngồi lì suốt ngày xem tài liệu như một tu sĩ khổ hạnh, nhưng khi hành động thì anh lại rất nhanh nhẹn. Anh em kháo nhau rằng Trinh giỏi vũ thuật. Anh không hề nhận điều này nhưng thường lấy một trong những phương châm của vũ thuật cổ truyền vận dụng cho người trinh sát để tự rèn luyện mình: “Đi như lá, trụ như đá” Nghĩa là khi hành động thì nhẹ nhàng, linh hoạt như chiếc lá bay trong gió và khi tập trung nghiên cứu vấn đề gì hoặc trước mặt kẻ thù thì kiên trì vững vàng như tảng đá đầu non. Thật ra, anh không khỏe hơn ai về mặt sức vóc, nhưng có lẽ nhờ vận dụng phương châm ấy cộng với ý chí được tôi luyện trong chiến đấu, trong gian khổ, đã giúp anh nhân sức lực và trí tuệ của mình lên.

Đồng đội của anh mỗi khi thấy anh bù đầu ở phòng làm việc trong mấy ngày liền là đoán được sắp có cú “làm ăn lớn”. Anh em vẫn thường nói đùa với nhau: đó là sự im lặng trước giờ nổ súng.

Thật tình mà nói, Kiên Trinh cũng không tránh khỏi những lúc “bí rì rị” như hôm nay. Có những việc tưởng như sự thật đã phơi bày ra đó nhưng khi bắt tay vào mới thấy khó. Những lúc ấy anh cần có trí tuệ tập thể của đồng đội, nhưng hoàn toàn không ỷ lại vào tập thể. Chừng nào bản thân đã cố hết sức xoay xở vẫn không xong, lúc ấy anh mới yêu cầu đồng đội tiếp tay.

Vấn đề của anh hôm nay là trước mớ sự kiện ngổn ngang đã thu thập được, trước hàng tá đối tượng với hàng trăm trang tài liệu ấy, anh nên bắt đầu từ chỗ nào. Thế mà ngày mai anh đã phải trình chỉ huy trưởng bản kế hoạch rồi. Chỉ còn ngày và đêm nay nửa thôi.

Mười giờ sáng, Trinh tìm một bàn vắng người dưới gốc cây trứng cá đằng sau căng tin của đơn vị. Cái dạ dầy hay giở chứng của anh không ưa cà phê, nhất là cà phê đá. Đến giờ này, chén cơm chiên ăn lúc sáng đã tan biến từ lâu rồi, không cho phép anh thưởng thức chất cà-phê-in.

Nhưng anh vẫn cảm thấy không cưỡng nổi, gọi một ly cà phê đen, nếu như Hồng Sơn, một đồng đội trẻ của anh không kịp thời mang đến cho anh một chai xá xị. Anh thầm cảm ơn sự chăm sóc của bạn, nhưng trong mắt thoáng đôi chút thất vọng.

Sau khi châm điếu thuốc Đà Lạt, nhấp một ngụm nước ngọt, Kiên Trinh lên tiếng trước.

– Thế nào?

– Anh hỏi tôi? Hồng Sơn ngước lên nhìn Kiên Trinh thăm dò.

– Ừ. Chả lẽ mình lại nói chuyện với đầu gối của mình. Việc của cậu đi đến đâu rồi?

– Việc nào? Bọn tôi đang chờ bật đèn xanh đấy, sao anh lại hỏi tôi?

– Chờ mình là thế nào? Việc ai nấy làm chớ?

– Nhưng anh đã phân công cụ thể cho tôi làm gì đâu? Ngày mai mấy “cụ” mới duyệt kế hoạch của anh kia mà. Đến đâu rồi?

Kiên Trinh chột dạ, mặc dầu hơn ai hết, anh biết rõ thế nào Hồng Sơn cũng hỏi anh câu ấy. Năm phút trước đó, anh quyết định rủ Hồng Sơn đi uống nước để xả hơi đôi chút. Anh tin rằng Hồng Sơn sẽ giúp anh những ý kiến hay như bao nhiêu lần trước để anh bổ sung, củng cố những “tư duy chiến thuật” của mình. Vì thế, anh không do dự đặt ván đề với Hồng Sơn:

– Theo cậu, ta nên bắt đầu từ đâu?

– Tôi biết mà – Hồng Sơn cười khoái trá – Anh cần lính tráng “hiến kế” mới chịu rủ anh em xuống đây chớ dễ gì?

– Ừ. Hiểu thế cũng được. Nhhung cậu nhớ cậu cũng có trách nhiệm trong vụ này đấy, lại phải chịu phần “mũi nhọn” nữa là khác.

– Thôi được. Hồng Sơn làm ra vẻ long trọng. Thưa đồng chí đại úy, tôi xin được hiến kế...

– Nói đại đi, đừng kiểu cách “dỏm” nữa. “Vạn sự khởi đầu nan”. Nói đi, ta nên khởi đầu chỗ nào? – Kiên Trinh dục bạn.

Hồng Sơn xoa xoa mái tóc ngắn cắt đúng điều lệnh nội vụ và nói thẳng vào vấn đề mà đội trưởng mình đang quan tâm, dường như chính anh đã chuẩn bị trước. Anh bắt đầu trình bày:

– Đến nay, tài liệu chúng ta có trong tay khẳng định một điều là bọn phản động trong nước và số lưu vong ở nước ngoài đã thiết lập sự liên lạc thường xuyên với nhau. Nhưng chúng liên lạc với nhau bằng con đường nào, với phương tiện gì thì ta chưa rõ. Đây là vấn đề sống chết của bất cứ tổ chức gián điệp nào. Về mặt lý luận, liên lạc là khâu trọng yếu nhất và cũng dễ bộc lộ nhất, có phải vậy không? Đánh vào đó là trúng yết hầu của địch.

– Đúng. Bài bản của bất kỳ trường huấn luyện tình báo và phản gián nào trên thế giới đều thống nhất điều đó. Nhưng trong vụ này thì thế nào? Vấn đề là ở chỗ đó! Xin lỗi, mình không làm cậu mất hứng đấy chứ? Tiếp tục đi!

– Anh yên tâm. Dù sao tôi cũng tiêu hóa được ít nhiều bài học lý thuyết ở nhà trường để “hiến kế” với anh. Nhưng điều tôi vừa nói là đặc điểm chung nhất của bất kỳ tổ chức gián điệp nào. Nhưng những điều rất thông thường, ai cũng biết, không có nghĩa là điều dễ dàng giải quyết.

– Cậu vào vấn đề chính đi. Nhập đề như thế là bài bản lắm rồi! Thú thật với cậu, tôi thấy bọn này làm ăn nửa kín nửa hở, nếu không muốn nói là hơi bầy hầy. Cậu xem cái gã Trần Tam Tiệp ấy dám quảng cáo trên báo truyện “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” do “một tác giả còn kẹt trong nước gửi ra”. Và cũng lúc đó, nhà xuất bản Nam Á cũng quảng cáo sắp phát hành tập “Bình thơ Nguyễn Du” do một tên quỷ quái nào đó có bút hiệu Dương Hồng Ngọc, từ trong nước gửi ra. Bọn chúng tung hỏa mù chăng?

– Cũng có thể đây là thủ đoạn “gây nhiễu” để che dấu một hoạt động khác nguy hiểm hơn, nhưng cũng không loại trừ cái trò “lộng giả thành chân”. Điều đó ta có thể khẳng định qua công trình xét nghiệm “văn phong” của anh. Tôi hoàn toàn nhất trí với anh “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” dứt khoát do một tên nào đó trong nhóm “Hòa Bình, Độc Lập” cũ viết thì kẻ “Bình thơ Nguyễn Du” chắc chắn không ai khác ngoài tay Hoàng Hải. Cái giọng bình thơ xỏ lá ấy chỉ có hắn thôi.

– Chuyện đó để hồi sau phân giải. Cậu trở lại vấn đề đi: Làm thế nào bọn Trần Tam Tiệp nhận được bài vở của những tên biệt kích văn hóa ấy? Và đổi lại, bọn biệt kích ở đây được trả công như thế nào? Nếu không có xơ múi gì, tôi cam đoan chẳng tên nào chịu viết một chữ. Chúng căm thù chế độ cộng sản, chống đối một cách có ý thức và quyết liệt, nhưng đồng thời cũng là những tên rất hám tiền và háo danh.

– Vì vậy, anh đã nắm được chân lý của Archimède đã tìm ra nguyên lý về sức đẩy của nước. Đúng, tiền, tiền phải đóng vai trò nào đó trong vụ này. Nói khái quát, không chỉ là tiền mà là “lợi ích vật chất”. Đương nhiên cái ấy phải đi đôi với ý thức phản cách mạng.

– Tiền! Không loại trừ. Nhưng bằng hình thức nào khác?

– Hàng, chẳng hạn? Hồng Sơn trả lời ngay.

Kiên Trinh vụt đứng dậy. Anh thấy lóe ra một dấu hiệu rất đáng phấn khởi. Trong truyện “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” có nói đến việc Trọng Thủy lần theo vết lông ngỗng mà Mỵ Châu đã rắc trên đường bôn tẩu với cha. Phải chăng trong vụ này, tiền, hàng – chứ không thể gì khác – là dấu chân ngỗng để phăng ra mối liên hệ trong ngoài của địch thủ.

– Hay! Kiên Trinh kêu lên.

– Đề nghị đại úy hãy bình tĩnh. Nếu có reo lên tiếng “Euréka” như Archimède cũng được nhưng chớ bắt chước nhà bác học ấy để tồng ngồng mà chạy từ sông về nhà giữa ban ngày khi ông tìm ra nguyên lý về sức đẩy của nước phải không, thưa đại úy?

Cả hai cười phấn chấn hẳn lên, cất tiếng cười sảng khoái.

Ta thấy đồng chấy Thủ trưởng, tức Giám đốc Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh quang vinh rực rỡ tên vàng giả, giao công tác đi bắt bỏ tù mút chỉ cà tha mấy tên văn nghệ sĩ Sàigòn kẹt giỏ bỏ của, bỏ nước chạy lấy người không thoát, dám liều mạng viết những bài tố cáo , châm biếm xã hội chủ nghĩa ưu việt ác ôn côn đồ, gửi ra nước ngoài đăng trên những tờ báo Việt hải ngoại, cho đồng rận Tư Tuân, trưởng cái gọi là Ban Công tác chống phá hoại tư tưởng. Đồng rận Tư Tuân lãnh công tác về nhà nghiên kíu, điều cha, điều mẹ năm bẩy ngày đêm, người ngợm phờ phạc, mất ăn bỏ ngủ với vợ. Chị vợ phiền não phải chạy sang nhờ đồng bọn bên Nhà Đẻ Nhân Dân cung cấp một số thuốc bổ thận Nhân cao chế tạo bằng thai nhi xã hội chủ nghĩa để anh chồng tẩm bổ. Thế rồi qua những trang sau đó, ta thấy – dù ta có căm thù cộng sản đến mấy ta cũng phải nhìn nhận: dường như đồng rận Tư Tuân trên thực tế chẳng có làm cái mẹ gì cả– Đồng rận giao toàn bộ công tác bắt bỏ tù bọn bị gọi là Những tên biệt kích cầm bút cho đồng rệp Kiên Trinh.

Buổi sáng trước khi tới sở làm công tác bắt bớ nhân dân, đồng rận Tư Tuân đớp nhẹ có “mấy chén cơm chiên”. Đến đây ta lại thấy tả đồng rệp Kiên Trinh ở vào cảnh “đến giờ này, chén cơm chiên ăn lúc sáng đã tan biến tự lâu rồi...” Cớm cộng đớp toàn cơm chiên thôi ư? Cũng chẳng có gì để ta phải théc méc. Cộng sản chuyên lấy máu nhân dân nhuộm cờ đỏ, lấy mỡ nhân dân chiên cơm đảng viên đớp ngon lành. Dzì dzậy nhân dân ta mới có câu: “Đừng có no. Để đảng no...”

Đồng chấy Thủ trưởng giao công tác cho đồng rận Tư Tuân, đồng rận Tư Tuân giao cho đồng rệp Kiên Trinh. Đến đây, người đọc ngây thơ lương thiện tưởng các cớm đẩy công tác xuống hạ tầng đến đồng rệp Kiên Trinh là hết, nhưng đồng rệp Kiên Trinh lại đẩy công tác bắt bớ, bỏ tù nhân dân xuống một tầng thấp hơn nữa. Nhân vật thứ tư xuất hiện là đồng xám xây cọoc Hồng Sơn.

– Theo cậu, ta nên bắt đầu từ đâu?

– Tôi biết mà – Hồng Sơn cười khoái trá – Anh cần lính tráng “hiến kế” mới chịu rủ anh em xuống đây chớ dễ gì?

– Ừ. Hiểu thế cũng được. Nhhung cậu nhố cậu cũng có trách nhiệm trong vụ này đấy, lại phải chịu phần “mũi nhọn” nữa là khác.

Tiếp đó Đồng xám xây cọoc Hồng Sơn long trọng thuyết trình:

– Đến nay, tài liệu chúng ta có trong tay khẳng định một điều là bọn phản động trong nước và số lưu vong ở nước ngoài đã thiết lập sự liên lạc thường xuyên với nhau. Nhưng chúng liên lạc với nhau bằng con đường nào, với phương tiện gì thì ta chưa rõ. Đây là vấn đề sống chết của bất cứ tổ chức gián điệp nào. Về mặt lý luận, liên lạc là khâu trọng yếu nhất và cũng dễ bộc lộ nhất, có phải vậy không? Đánh vào đó là trúng yết hầu của địch.

Ný nuận ba hoa chích chòe nghe chơi dzậy thôi. Ở Thành Hồ, em nhỏ lên ba, cụ già chín bó đều biết nhân dân thành Hồ muốn niên nạc, niên mỡ với người nước ngoài chỉ cần tình thư con cá oong đưa toa lét mang ra bưu điện chi tiền cò gửi đi là xong. Nói theo ngôn từ cộng sản những cuộc niên nạc kiểu này đều là tự phát. Nhân dân Sàigòn trước năm 1975 có cuộc sống tương đối an ninh và sung túc nhất nước. Rất đông người Sàigòn mần lương tháng, kiếm được bao nhiêu sài hết bấy nhiêu, tháng sau lại có lương, chẳng mấy người tính chuyện để dành, để sọt. Bởi dzậy nên nón cối, dép râu, mông đít bự chỉ ngơ ngáo kéo vào Sàigòn có năm bữa, nửa tháng là một số đông cư dân Sàigòn đẹp lắm Sàigòn ơi đã thấy cái đói lù lù đứng trước chân giường nát. Các anh con trai bà Cả Đọi ngẩn ngơ thấy những anh con trai bà Cả cũng như mình được trực thăng Mỹ bốc đi thoát, được đưa sang Mẽo quốc xứ thần tiên no đủ bơ sữa thịt bò vứt bỏ đầy đường, whisky tràn ống cống, đô la nhiều như lá Rừng Phong. Mấy ảnh lúc đầu chỉ gửi thư đi với mục đích đau thương và cao thượng là hy vọng mấy anh con trai bà Cả đẻ bọc điều sang được Mẽo quốc giầu đẹp thương tình bớt đớp, bớt xài chi cho vài chịch đô cứu đói. Những bức thư đầu tiên gửi ra nước ngoài – do đó – đều là những lá thư “Con cá nó sống vì nước. Dzợ chồng, bố con em sống nhờ quý ông, quý bà...”

Nhưng lẽ tự nhiên, tất nhiên, kiêm thiên nhiên, nhân nhiên là muốn gợi lòng thương hại của quý ông, quý bà để quý ông, quý bà đẻ bọc điều, tu mười kiếp, được Thủy Quân Lục Chiến Mẽo nó bốc lên trực thăng bay ra biển, chi về cho ít đô, những lá thư con cá bắt buộc phải kể khổ. Ngoài những nhớ thương biệt ly, nhớ nhung từ đây, chiếc lá trôi theo heo may... Người sang Mẽo có hay... rồi nỗi sầu tử biệt, sinh ly, kẻ ở người đi, lệ rơi thấâm đá, tơ chia rũ áo lụa Hà Đông, rách luôn cả áo lông Hà Nội, thư con cá phải kể về cuộc sống u tì, đen sì, đen sịt, đen hơn cái lá đa ca dao, đen hơn mõm chó mực của nhân dân Thành Hồ. Trong số đó, đời sống của các anh con trai bà Cả Đọi chiếm giải quán quân về mặt đen tối, rách nát và bi đát.

Từ kể khổ sang kể oán chẳng có mấy hồi. Kể khổ với kể oán liền nhau như hai mặt của lưỡi lame Gillette. Điều nguy hiểm là sống trong gông cùm cộng sản người dân có cả một triệu nguyên nhân để căm hận chế độ. Và bọn cộng sản ác ôn khi nắm được quyền ở nước nào cũng vậy, đều bắt nhân dân phải nhận chế độ của chúng là trong sạch, công bằng, nhân ái, đầy tình người một trăm một ngàn lần tốt đẹp hơn chế độ tư sản cũ. Chúng bắt nhân dân phải tỏ ra “phấn khởi, hồ hởi”, phải nói mình sung sướng, mình được giải phóng. Người dân nào than sầu khổ – chỉ cần than thở thôi, chưa nói đến chuyện tố cáo cộng sản ác độc, bóc lột, ăn cắp, nói dối – là đã bị coi là phản động, phải bắt cất đi để khỏi làm “nhiễm độc sầu buồn” lây lan người khác.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 31)

Năm 1977, trong phòng thẩm vấn nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Ba Trung Huỳnh Bá Thành nói với tôi:

– Trong lúc toàn dân phấn khởi, hồ hởi xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, anh làm thơ Buồn. Bài thơ của anh có thể làm nhiều người khác buồn lây. Vì vậy, chúng tôi phải bắt anh...

Lúc ấy bẩy tám giờ tối. Khu thẩm vấn vắng tanh, đèn vàng nhờ, bốn bề yên lặng. Ba Trung thường vào thẩm vấn tôi lúc bốn năm giờ chiều, ngồi mãi đến tám, chín giờ tối mới thả tôi về xà lim. Tô cơm tù được anh em tù đưa vào từ lúc bốn giờ chiều khô cứng trên sàn xi măng. Khi tôi nghe Ba Trung nói câu trên, quả thực trong lòng tôi có sự ngậm ngùi, tim tôi nặng như đá đeo. Tôi hối hận nghĩ: “... Thơ mí thẩn. Thơ con cóc. Mần thơ làm cái quái gì để cho nó bắt, nó nhốt thảm cảnh xã hội thế này! Vợ con nheo nhóc, mình thì tù tội mút chỉ cà tha, xa mùa lệ thủy. Việt cộng dzô Sègoòng, người Sègoòng nào mà chẳng buồn, nhưng người ta buồn, người ta chịu, người ta đâu có mần thơ. Nó nói nhân dân vui sướng, mình mần thơ tả nhân dân buồn khổ, nó cho mình dzô xà lim là đúng thôi.”

Trích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút từ trang 117 đến trang121

Về phần Hoàng Hải, người vợ như một dòng sông mà hắn có thể ngụp lặn, tắm mát thỏa thích sau những ngày bon chen vất vả. Thân hình đầy đặn, sung mãn của người phụ nữ sinh trưởng ở đồng bằng Nam Bộ cộng với khuôn mặt sắc sảo phảng phất những nét Tây phương đã nâng nhan sắc của bà ta lên trên mức bình thường. Trong đời Hoàng Hải có hai thích thú mà hắn cho là kỳ diệu là đôi mắt của người vợ và ngọn đèn dầu lạc trong tiệm hút. Nhìn vào đó, hắn thấy cả độ sâu thẳm của lòng mình, sự níu kéo của cuộc sống, vừa đam mê vừa tỉnh táo, vừa rực rỡ vừa mờ ảo. Đó là những nguồn gợi hứng cho hắn suy nghĩ và sáng tác.

... Với gia cảnh ấy, con người ta thường dễ yên phận với tuổi xế bóng. Song Hoàng Hải đâu phải là một con người như vậy. Hắn luyến một thời xưa. Hắn hi vọng về một sự cứu rỗi, về một cơ may đủ sức xoay ngược tình thế hiện tại. Và hắn đã nhận được tín hiệu từ xa vọng đến đầy hứa hẹn, thúc giục hắn vùng vẫy. Đó là một ảo vọng, nhưng đối với hắn lại là một vũng nước xanh mát trong sa mạc mà hắn là kẻ sắp chết khát. Những tín hiệu đến với hắn bằng nhiều cách. Những lá thư của bạn bè gửi đi từ bên kia đại dương, những buổi phát thanh bằng nhiều ngôn ngữ ngày đêm vút lên không gian mà Hoàng Hải đón nhận bằng chiếc radio hiệu Zenith cực mạnh. Hắn biết rằng qua những tín hiệu ấy, từ những xứ sở xa xôi, người ta còn quan tâm đến “sự tồn tại” của hắn.

Có những câu, những ý hắn gần như thuộc nằm lòng: “Chúng tôi sẽ làm hết mình để anh trở thành immortel”

Hoàng Hải còn nhớ rất rõ nét chữ quen thuộc của người bạn ở Oa-sinh-tơn gửi cho hắn năm 1976. Có lẽ người bạn ấy cho rằng từ immortel trong tiếng Pháp thâm thúy hơn từ bất tử trong tiếng Việt Nam nên đã cố tình sử dụng từ ấy đến hai lần trong mấy chục dòng của lá thư đầu tiên gửi cho Hoàng Hải.

“... Ở đây mọi người đều nghĩ và tin chắc rằng thế nào Việt Nam cũng có những Xôdennítson. Dễ gì có thể viết một cái gì đại loại như “Quần đảo Gulắc” để biện minh cho tên phản bội Vlasov. Nhưng hắn biết chắc bạn bè của hắn benâ kia đại dương đang cần những “món” gì. Lúc cháy khát cổ, một ly nước lã cũng quý không kém gì một chai Coca Cola ướp lạnh.

Hoàng Hải đã làm cho cơ quan USOM từ năm 1954, đến năm 1973 lại làm việc chu USIS. Cách nhau gần hai mươi năm, ở hai thời điểm mở đầu và kết thúc sự có mặt chính thức của người Mỹ ở Sàigòn, hắn có đủ thời gian để hiểu người Mỹ. Trước kia họ là như thế thì nay và sau này họ vẫn thế: nếu không có Coca Cola thì họ sẵn sàng nhận ly nước lạnh. Có còn hơn không!

Hoàng Hải tự cho mình không chỉ là một ly nước lạnh bình thường mà là một ly nước lạnh hiếm hoi trong sa mạc. Sự khan hiếm ấy nâng cao giá trị của hắn lên.

Năm 1976, 1977 hắn đã hái ra tiền nhờ nhạy bén khai thác tình trạng khan hiếm ấy. Nhưng hắn đã phải trả giá khá đắt. Chính vì thế, sau khi dự cuộc họp ở nhà bà chị của Kiều Trang về, Hoàng Hải thấy có điều không ổn, lần trước chỉ một mình hắn độc quyền “làm ăn” với bên ngoài, thế mà công an đã phăng ra, khiến hắn phải vô trại giam. Hắn đã viết rất nhiều thể loại truyện, phiếm luận, nghị luận, văn học, thơ... với đủ các bút hiệu hắn đã ký tên những bài đã được in trên các báo của “phe hắn” xuất bản ở nước ngoài, nào là “Người Sàigòn”, “Ngụy Công Tử”, “Con trai Bà Cả Đọi”, “Yên Ba”, “Hạ Thu”... Hắn không ngờ công an lại bỏ công sưu tầm và nghiên cứu “sự nghiệp văn chương” của hắn kỹ đến thế. Biết dấu không được, hắn đã khai tuốt tuột. Đó là phương thức “tối ưu” – thà rằng khai cái người ta đã biết để được nhẹ tội còn hơn chối quanh. Về mặt này, hắn cũng tự hào rất am hiểu công an cộng sản. Hắn được khoan hồng thật. Hắn không tiếc lời thề thốt và viết trong bản cam kết:

“Khi được nhà nước khoan hồng cho về sum họp với vợ con, tôi sẽ lo làm ăn v.v...”

Tôi thích viết, vẽ, chơi đàn từ thuở tôi chưa biết thích đàn bà, con gái. Tức là lúc tuổi đời chưa đầy một bó. Thuở xa xưa ấy tôi không chỉ thích văn, họa, nhạc bình thường như mọi người, tôi hung hăng con bọ xít muốn mai sau mình sẽ trở thành văn sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ. Nói cách khác, tôi muốn sáng tác văn, họa, nhạc. Khi tôi nói tôi học nhạc không phải chỉ để chơi đàn suông, tôi muốn sáng tác những bản nhạc như các ông Jôhan Sìtờrao, ông Bít Tô Vơ, ông Môza, tôi bị khựng khi ông anh tôi nói: “Mày chơi được mấy bản nhạc của mấy ông ấy cũng đủ hết đời mày rồi. Ở đấy mà đòi sáng tác nhạc...”

Những năm học tiểu học ở thị xã Hà Đông – trường Tự Đức, hiệu trưởng cậu giáo Kiên – tôi là tên vẽ khá nhất những lớp có tôi là học sinh. Bạn học có giấy thường đưa cho tôi vẽ cao bồi cưỡi ngựa, bắn súng đuổi mọi da đỏ, vẽ chó mèo, đôi khi vẽ cả những cảnh trai gái theo sự tưởng tượng bậy bạ của bọn nhóc chúng tôi. Năm 1946, tôi theo gia đình tản cư lánh nạn chiến tranh về quê tôi ở ven sông Đuống. Năm 1947, tôi đi kháng chiến ở vùng Bắc Bắc – Bắc Ninh, Bắc Giang – năm 1950, tôi theo gia đình hồi cư về Hà Nội. Từ đó tôi bỏ vẽ và giấc mộng họa sĩ của tôi tiêu tán thoòng. Tôi học đàn ghi ta ba lần. Lần thứ nhất học thầy Tạ Tấn ở Hà Nội, lần thứ hai học thầy Vĩnh Lợi ở Sàigòn, lần thứ ba học thầy Lâm Tuyền cũng ở Sàigòn. Tôi thích nhạc nhưng có lỗ tai trâu, mù tịt về nhịp điệu, thêm cái tật cầm cây đàn là muốn thánh thót du dương ngay, không chịu ngồi gù lưng mà phứng phưng cả tiếng đồng hồ.

Năm 1983 con tôi đi học vẽ. Thầy dậy là bà họa sĩ Nguyễn Thị Tâm và ông chồng là họa sĩ Nguyễn Long Sơn. Ông bà mở lớp dậy tại nhà riêng sau trường Mỹ thuật Gia Định. Tôi theo con tôi đến thụ huấn ông bà họa sĩ Sơn Tâm. Vì yêu họa từ ngày còn nhỏ lại sống đời dân Ngụy tại thành Hồ quá nhàn rỗi, ngày tháng phất phơ toàn chủ nhật, quanh năm chủ nhật, hết năm này 365 ngày chủ nhật đến năm khác 365 ngày chủ nhật, tôi đi học vẽ cho đỡ buồn, cho có việc làm. Ở đời có những ông “Già năm mươi tuổi chưa đeo kính. Thức suốt năm canh chỉ sợ già...” tôi mới bốn mươi đã đeo kính lão. Thầy Sơn nói:

– Vẽ mà cứ bỏ kính ra nhìn, đeo kính lên, vẽ được vài nét lại bỏ kính ra... thì vẽ viếc cái gì... Mấy ông trên năm mươi học vẽ chỉ để chơi thôi...

Thầy nói đúng. Tôi học vẽ những năm 80 không phải để trở thành họa sĩ mà chỉ để đỡ buồn. Tuy nhiên tôi nghĩ, tôi có thể minh họa được những truyện ngắn của tôi. Mình viết truyện, mình vẽ tranh đi kèm truyện theo đúng ý mình. Là nhất. Học vẽ chừng vài tháng, tôi bắt đầu vẽ được hí họa. Bức vẽ anh Nguyễn Văn Nghêu số 4 Phan Đăng Lưu khệ nệ ôm thùng quà nước ngoài gửi về đề thêm bốn câu lục bát tôi cho là hay cực kỳ. Bốn câu thơ có âm điệu lá đa dân tộc, theo sự đề cao có thể là quá đáng của tôi, xứng đáng được chọn làm ca dao ghi lại cả một thời nhân dân Thành Hồ Con Cá, Cái Bang ba, bốn túi tấp nập đến chầu chực ở những nhà bưu điện, kho hàng Tân Sơn Nhất chờ lãnh những thùng đồ cứu đói. Thời gian người Thành Hồ sống nhờ đồ Pháp, đồ Mỹ kéo dài từ năm 1978 đến năm 1990. Bốn câu bất hủ nguyên là tám câu:

Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Đôi tay anh vín đôi cành
Quả chín anh hái quả xanh anh vồ
Năm sáu năm nay anh ăn ở thành Hồ
Anh ra bưu điện lãnh quà em cho
Đồ em vừa nặng vừa to
Anh đã con mắt anh no cái mồm

Trong hai triệu người Việt sống ở các nước Tây Dương chắc phải có 50.000 vị từng được hưởng niềm sung sướng được đi lãnh đồ ở Thành Hồ. Xin quý vị làm chứng: thơ tôi tả đúng hay sai? Ở đời ta thấy có những thứ đồ thật to mà không nặng, như bao rơm chẳng hạn, lại có những thứ đồ thật nặng mà không to, như cục sắt. Riêng với đồ ngoại quốc gửi về cho ta, ta mơ ước thùng đồ có đủ hai điều kiện: nặng và to. Đồ vừa nặng vừa to là nhất. Trước hết nhìn thùng đồ hai chục ký, ba chục ký lô to vuông, vững chãi, phương phi, sung túc, phồn vinh, hiện đại mắt ta truyền cảm được thống khoái đi khắp châu thân ta, đến từng chân lông, ngọn tóc của ta. Ta mệt mỏi một cách sướng khoái ôm thùng đồ về nhà. Sau khi mắt ta nhìn đã – đây là sướng – ta hiu hiu ngồi chờ những nhóm anh chị chuyên săn mua đủ các thứ đồ ngoại thấy ta có đồ lớn, xin ta địa chỉ, theo ta đến tận nhà xin mua đồ của ta. Ta bán đồ lấy tiền mua gạo nếp, gạo tẻ, thịt cá rau dưa, vợ chồng, bố con, ông cháu hí hửng dắt nhau đi ăn mì vịt tiềm, phở, bún bò giò heo, ta cùng bạn hữu hạ cờ tây, bia Trung quốc. Chị vợ gầy guộc xanh leo xanh lét vì đói, vì lo của ta có ít tiền còm yên tâm được một hai tháng, chị sẽ dzui dzẻ đôi chút với anh chồng gà què ăn quẩn cối xay. Cuộc sống như dzậy chẳng phải là đỡ khổ ư? No cái mồm nhờ đồ em, dù chỉ no được một tháng cũng là no.

Những ngày ấy, tháng ấy, năm ấy – thấm thoát đã qua mười mấy mùa cóc chín – tôi di chuyển bằng xế đạp – người Thành Hồ gọi là xế Điếc – mang theo trong cái túi vải xách tay đủ thứ linh tinh bịch thuốc, hộp quẹt, cặp kính, chìa khóa, thêm quyển sổ tay và cây bút chì để khi ngồi cà phê vỉa hè lấy ra hí hoáy ghi hình. Về nhà tôi dùng bút mực vẽ lại, đôi khi tô màu. Bọn công an thành Hồ đến nhà tôi đêm mùng Hai tháng Năm năm 1984 vớ được tập hí họa của tôi. Vì vậy hai anh Nam Thi – Minh Kiên mới thấy bức họa “Đồ em vừa nặng vừa to” của anh chàng phản động Hoàng Hải.

Việc đi học vẽ và vẽ mấy bức hí họa của tôi bị hai anh cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên diễn tả bằng những câu:

... Vì thế hắn đã chọn để lại một thứ có thể thanh minh rằng hắn đã biết hối cải và không làm gì xấu. Gần đây, hắn học thêm nghề hội họa. Trong mớ tài liệu mà hắn không đốt có tập phác họa do hắn vẽ. Hắn có thể nói với công an: “Thưa các ông, đây là công việc hàng ngày của tôi. Các ông xem, tôi già rồi, sức yếu còn làm gì nổi, nên tôi đã học vẽ, may ra có đươc một nghề vừa sức, hợp với khả năng để sống...”

Đại tá Tổng Biên Tập chi mà viết quá ngu. Một người tuổi đời năm bó, làm báo, viết truyện chuyên nghiệp từ năm mới hai bó gập, hai mươi mấy mùa táo tầu Nghị Hách sống đàng hoàng, sống ung dung, sống phơi phới với nghề viết truyện giải trí lương thiện, bỗng dưng bị bọn cộng sản bẻ gẫy cái cần câu cơm, bắt dzô tù, còn đổi nghề, đổi nghiệp cái gì được nữa! Thay vì phải lấy làm hổ thẹn vì chế độ của chúng đập bể nồi cơm của người dân lương thiện, bọn đầu trâu mặt ngựa, tim heo, óc chó lại tỏ ra hiu hiu tự đắc khi thấy những người dân miền Nam vì chúng mà lâm vào cảnh đói khổ.

Hai mươi niên vất vả ở Thành Hồ, tám niên ngồi rù trong những Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, tôi có phạm một số việc không được đàng hoàng chi mấy. Khi ra tòa năm 1988, tôi có nói: “Thưa bà chánh án” – Mụ chánh án xử tôi là mụ Nguyễn Thị Thu Phước, bao nhiêu phước, mụ ấy thu ráo trọi vào lòng mụ – nhưng tôi không -: “Thưa quý tòa...” như nhiều anh em ta. “Quý Tòa” là danh từ gọi tòa án quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Với người dân Việt Nam Cộng Hòa tòa án cộng sản có cái gì là “quý”? Chúng muốn tuyên án tử hình cho mình lên thùng phuy bãi bắn Thủ Đức, chúng muốn bỏ tù mình mút mùa Lệ Liễu kiêm Lệ Thủy – Lệ Thu... Vậy mà mình cứ phải “quý trọng” nó thì ngoài sự nhục nhã thậm tệ còn có sự lạ lùng không chấp nhận được.

Nhưng với bọn công an thành Hồ đến bắt tôi, thẩm vấn tôi, tôi không “Thưa ông...” với tên nào cả. Tôi trích đăng đoạn hai anh Nam Thi – Minh Kiên viết về chuyện tôi đi học vẽ để bạn thấy Việt cộng chửi rủa chúng tôi đểu cáng đến chừng nào. Tôi bị chúng chửi, mạ lỵ, bới móc tàn tệ nhất trong số tám người bị chúng gọi là “Những tên biệt kích cầm bút”. Các bạn thấy đấy: Cả ông ngoại tôi cũng bị chúng lôi vào chuyện. Chúng viết tôi kính cẩn: “Thưa các ông...” vẫn còn là nhẹ. Trong một tập sách mỏng chúng viết về một ông từ nước ngoài trở về bị chúng bắt sống ở Lào, tôi đọc được năm 1982, chúng viết ông chiến sĩ quốc gia này gọi chúng bằng “ông”, xưng “con”.

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 32)

Trích Những Tên Biệt Kích Cầm Bút

Căn phòng nhỏ của Kiên Trinh lại trở nên náo nhiệt với các loại tiếng ồn ào quen thuộc, thân thương: Những chiếc máy đánh chữ đang mổ liên hồi để hoàn thành gấp bản báo cáo kết thúc vụ án, xen lẫn những câu chuyện mà những trinh sát vui miệng kể cho nhau nghe.

Hồng Sơn dí dỏm:

– Nếu cho Hoàng Hải chỉ là nhà văn, nhà thơ gì đó, quả là chưa đủ. Phải tính thêm hắn vaò danh sách soạn giả kiêm diễn viên! Thủ vai chính trong vở kịch trá hàng, hắn đến công an thành phố nhằm đánh lạc hướng mũi nhọn điều tra vào họa sĩ Ý Nhi. Vở kịch không thành công. Hôm bị bắt, hắn lại chuyển sang đóng vai cải lương. Buồn cười là khi bọn mình vào nhà “hỏi thăm” hắn thì hắn nói nghe tỉnh rụi:

– Trời! Tôi chờ các anh đã mấy ngày nay rồi. Tưởng đâu các anh đến sớm hơn chớ!

Chẳng lẽ giờ G của kế hoạch phá án được chuyển dời, mấy tướng nhà mình cứ thấp thỏm sợ lọt mất hắn nên bám quá sát khiến hắn ngửi thấy tấm lưới bủa vây.

Hắn lại tỏ ra “thanh thản” lúc phải “khăn áo ra đi”. Hắn vừa vẫy tay, vừa nói lời từ biệt vợ: “Thôi... anh ra đi lần thứ hai nghe em...”

Nhiều tiếng cười cùng cất lên một lúc khi một số trinh sát hình dung lại điệu bộ và lời nói “rất chi là cải lương” ấy của Hoàng Hải.

Quý bạn vừa đọc một đoạn trong hai trang 195-196 chương XXII, quyển “Những tên biệt kích cầm bút”. Anh cu Hoàng Hải bị kể phạm tội “trá hàng” và có lời nói “rất chi là cải lương” khi anh bị công an Việt cộng, hai giờ sáng đến nhà dựng cổ dậy, đọc lệnh bắt và sau đó “khăn áo ra đi”

Nhiều tiếng cười cùng cất lên một lúc khi một số trinh sát hình dung lại điệu bộ và lời nói “rất chi là cải lương” ấy của Hoàng Hải. Bọn đầu trâu, mặt ngựa tỏ ra sung sướng, khoái lạc với việc đi bắt người cho vào tù. Chúng thích thú khi thấy người khác sợ hãi, đau khổ. Giống như bọn văn nô ca tụng việc Đảng giết người, bọn công an cộng sản nhẩy múa, ca hát trên xiềng xích và trên xác chết những nạn nhân của chúng, những đồng bào của chúng:

Ông cha ta có câu:

Một đời làm lại
Bại hoại ba đời...

đời chúng ta có câu:

Một đời cộng sản
Tàn mạt ba đời...

Tôi, người mang cái tên Hoàng Hải “rất chi là cải lương” là công tử bột, con nhà thông phán, nhưng quán tính con nhà Tổng đốc, con nhà Thượng thư, tôi ăn chơi, chưng diện không bằng ai, nhưng tôi có cái tật tôi rất khó chịu khi tôi làm việc gì rởm, lố bịch, không được thanh lịch hay khi tôi bị người khác chê cười, chọc quê, cho là quê, rởm. Vì vậy, tôi coi lời hai cớm cộng Nam Thi – Minh Kiên diễn tả tôi “có điệu bộ và lời nói rất chi là cải lương” là lời mạ lỵ tôi nặng nhất trong tất cả những trang Những tên biệt kích cầm bút viết về tôi.

Hai giờ sáng ngày 2 tháng 5 năm 1984, chừng 10 tên công an thành Hồ kéo vào nhà tôi. Đọc lệnh bắt, khám xét, làm biên bản, khoảng 5 giờ sáng, chúng đưa tôi ra khỏi nhà.

Chỉ có vợ chồng tôi sống trong căn nhà nhỏ Cư xá Tự Do trước cửa hồ tắm Cộng Hòa, Ngã ba Ông Tạ. Tháng 11 năm 1977, khi công an Thành Hồ đưa xe bông đến nhà rước tôi đi lần đầu, Alice ở lại nhà một mình, lần thứ hai, nửa đêm, chúng đưa xe bông đến nhà đưa tôi đi, Alice cũng ở nhà một mình.

Hắn lại tỏ ra ‘thanh thản’ lúc phải khăn áo ra đi“. Tôi phải nhận cớm cộng diễn tả đúng tâm trạng vợ chồng tôi lúc ấy. Chúng tôi cũng buồn, cũng ngao ngán, nhưng chúng tôi “bình thản” vì chúng tôi biết trước việc bắt bớ sẽ xẩy ra, việc tôi bị tù đầy bắt buộc phải có, không tránh được, việc tôi bị bắt là tự nhiên, hợp lý. Chúng tôi đã làm những việc chúng tôi phải làm, chúng tôi biết rõ là làm những việc đó bọn công an Thành Hồ không để cho chúng tôi yên.

Nếu tôi viết: “... Đêm chúng đến nhà bắt tôi lần thứ hai tôi thanh thản ra đi...” trong các bạn có thể có bạn nghĩ: “Anh này dzóc. Công An ViXi nó nửa đêm đến nhà còng tay dẫn đi, sức mấy mà ra đi thanh thản...” Nhưng chính bọn Công An ViXI viết như thế về tôi.

Một người bạn nói: “Viết tả lại những vụ Việt cộng bắt người ngoài những thủ tục như đọc lệnh, còng tay, khám xét, moi móc v.v... có lẽ ta nên viết về tâm trạng của người bị bắt...” Tôi đồng ý với anh. Chỉ có điều, nếu tôi tả lúc tôi bị bắt vợ chồng tôi bình thản nhiều bạn đọc có thể sẽ không tin. May cho tôi là cớm cộng đến bắt tôi đêm ấy xác nhận “hắn lại tỏ ra ‘thanh thản’ lúc ra đi....”

Và đây là việc tôi làm, lời tôi nói với Alice trước khi tôi xách túi theo bọn đầu trâu, mặt ngựa ra khỏi căn nhà tình ái của chúng tôi.

Nhớ lại lần trước vào Số 4 Phan Đăng Lưu, tôi bị lấy mất cái dây nịt thắt lưng – cái dây lưng Mỹ, hai mặt đen, nâu, đẹp nhất, vừa nhất, tôi ưa nhất – nên lần này khi sửa soạn ra đi tôi cởi dây lưng để trên bàn. Dây lưng đó của tôi thuộc loại to bản theo kiểu 1970, có cái khóa to và nặng, khi đặt lên bàn phát ra một tiếng kịch.

Tôi nói bốn câu với Alice trước khi ra khỏi nhà:

– Anh bỏ không hút thuốc nữa. Khi được thăm nuôi, đừng gửi thuốc lá cho anh.

Tôi hôn nàng. Và đây là câu nói thứ hai:

– Anh dâng đời anh lên Thiên Chúa.

Đây là câu thứ ba:

– Anh sẽ về với em.

Tôi cầm tay nàng:

– Đi với anh ra cửa

Khi tên trưởng đội ra lệnh đưa tôi đi, bọn công an ra ngoài đứng quanh chiếc xe ô tô đã mở sẵn cả bốn cửa. Nhưng một tên vẫn đứng trong cửa nhìn chừng chúng tôi. Khi tôi dắt Alice ra đến hàng ba, tên đứng cửa nghe được câu tôi vừa nói với Alice, hỏi tôi:

– Anh nghĩ là anh còn có thể trở về được cái nhà này à?

Đây là câu tôi trả lời hắn:

– Tôi còn sống thì tôi còn trở về chứ.

Câu “Trời... Tôi chờ các anh đã mấy ngày rồi...” là câu cớm cộng bịa. Tôi không nói câu đó.

Người tù bị bắt nửa đêm ở nhà, tảng sáng bị còng tay đưa đi, đi một chuyến đi âm u không biết ngày về, đi theo lũ cai tù tàn bạo, ác ôn nhất lịch sử, người tù ấy hôn vợ và nói với vợ:” Anh sẽ về với em...” Chỉ có bọn công an cộng sản mới thấy việc làm và lời nói đó của người tù “rất chi là cải lương...” Nếu chúng không thấy như thế chúng không phải là công an cộng sản.

Sáu mùa lá rụng sau, một sáng đầu xuân tôi trở về mái nhà xưa lần thứ hai. Ông bạn ở sát nhà tôi sang thăm. Ông kể lúc tôi bị đưa ra khỏi nhà, ông đứng bên cửa nhà ông và ông nghe rõ tiếng tên công an hỏi tôi và câu tôi trả lời. Ông nói:

– Thằng đó nó hỏi ngu quá. Người ta còn sống thì người ta trở về chứ. Chúng nó muốn giam người ta cho đến chết sao.

Hai bà trong cư xá, buổi chiều ngồi nói chuyện với nhau trên hiên nhà cho mát, một bà nói khi tôi đi ngang:

– Chúng nó muốn giết người ta nhưng đâu có được. Còn có Trời nữa chứ!

Chuyến đi kéo dài sáu năm, năm năm sống quanh quẩn giữa những bức vách phòng tù, những hàng song sắt, một năm ở trại lao cải. Tôi đã làm đúng lời tôi hẹn với vợ tôi buổi sáng tháng Năm xa xưa khi tôi ra đi: “Anh sẽ về với em...” Sáu năm sau tôi trở về với nàng.

Thực ra, ngay khi tôi còn ở trong Thánh thất Chí Hòa, đọc vài trang NTBKCB do vợ con tôi gửi được vào cho tôi, tôi thấy tức cười nhiều hơn là sợ hay hờn giận. Các con tôi đọc những trang NTBKCB viết về bố mẹ chúng chúng cười lên hô hố. Tôi dám chắc người nào đọc NTBKCB cũng phải cười, vì họ thấy bọn Công An Việt Cộng viết về chúng tôi “kỳ” quá, không có qua một điểm nào giống chúng tôi...

... Về phần Hoàng Hải, người vợ như một dòng sông mà hắn có thể ngụp lặn, tắm mát thỏa thích sau những ngày bon chen vất vả. Thân hình đầy đặn, sung mãn của người phụ nữ sinh trưởng ở đồng bằng Nam Bộ cộng với khuôn mặt sắc xảo phảng phất những nét Tây phương đã nâng nhan sắc của bà ta lên trên mức bình thường...

Đó là lời hai anh Cớm Cộng Nam Thi-Minh Kiên viết về Alice, vợ tôi, trong Những Tên Biệt Kích Cầm Bút. Một đêm trong Phòng 10, Lầu Ba, Khu ED, Lầu Bát Giác Chí Hòa, nằm trong mùng đọc trang báo mới gửi vào lúc ban ngày bằng cách dùng để gói thức ăn thăm nuôi, đọc xong câu trên tôi nói với Trí Siêu Lê mạnh Thát, ngày ấy, tháng ấy, năm ấy hai chúng tôi nằm cạnh nhau:

– Chúng nó viết chửi tôi tàn độc quá, nhưng chúng nó khen vợ tôi đẹp và vợ tôi yêu thương tôi, tôi xí xóa với chúng nó.