Bối cảnh Nam Kỳ vào mấy thập niên đầu thế kỷ 20

Tất cả những sự kiệnđược viết lại trong bài này đềuxảy ra vào những năm sau Thế Chiến ThứNhất (1914-18), cho tới khi Thế Chiến Thứ Haibắt đầu (1939-45).

Các chi tiết trong chương bốicảnh, sẽ đề cập rõ ràng đến sựgiàu có lớn nhờ ruộng đất của các ôngđại điền chủ vì chánh sách nâng đỡcủa người Pháp, và nhất là thế lực cũngnhư đặc quyền của các ông Hôi đồngquản hạt Nam Kỳ. Những điều đó, cùngvới việc đào kinh, gia tăng diện tích lúa trúng mùasẽ giúp chúng ta nhận ra cái không khí ăn chơi củacon cái nhà giàu, và góp phần cắt nghĩa hiệntượng đặc biệt của xã hội Nam Kỳ,một hiện tượng độc đáo màtrước đó và sau đó không bao giờ có. Trongchương nầy chúng ta sẽ nhận thấy nguồngốc sâu xa của sự biến đổi xã hội nôngnghiệp Nam Kỳ thành một nền kinh tế hàng hóaphồn thịnh kỳ lạ vào các năm 1927, 1928, 1929.

Cái bối cảnh giao thời giữahại nền văn hóa mới cũ đã tạo ranhững hiện tượng ít ai tiên đoánđược. Cũng một lò xuất, nhưng ngườithanh niên thời ấy trở thành những kiểu mẫukhác nhau. Giàu có lớn, tiền bạc dư thừa,những gia đình ấy có cuộc sống xa xí, tạo ramột hạng người ngồi không ăn chơithỏa thích: Công tử. Về mặt khác như chínhtrị, kinh tế, văn hóa, chúng tôi chỉ lược quacác sự kiện tiêu biểu. Về lịch sử, chínhtrị chúng tôi nói ít vì có nhiều sách báo đề cậprồi, nói nhiều sẽ nhàm chán. Trong phần kinh tế,chúng tôi sẽ kể một số chi tiết vềnhững hãng xưởng đầu tiên do ngườiViệt lập ra ở Nam Kỳ . Chúng tôi cũng kểsơ lược các nhà giàu lớn ở vài tỉnhmiền Nam thời đó. Họ làm giàu nhờ ruộngđất, đồn điền, mở xí nghiệp... cótài sản lớn. Chính họ và lớp con cháu họ đãtạo ra một hiện tượng mới, làm biếnđổi xã hội miền Nam hồi Tây mới qua.Về giáo dục, chúng tôi sẽ nói chi tiết hơn.Lớp thanh niên Việt Nam đầu tiên du học bênAlgérie, bên Pháp, vào cuối thế kỷ 19 là những ai?Những người Việt Nam đầu tiên nhậptịch Pháp là những người nào?

Lớp con cháu ho sẽ đóngnhững vai trò chính trị quan trọng trong thế hệkế tiếp. Đó là lớp trí thức mới, hấpthụ văn hóa Tây phương, thay thế cho lớp Nhosĩ cũ đang tàn dần. Tùy theo lãnh vực, cá tính, hoàncảnh mà họ sẽ là những nhà nghiên cứu, công chức(chủ quận, Hội đồng, cai tổng. .) hay côngtử ăn chơi, hay trở thành những thanh niên yêunước, có lý tưởng, tích cực hoạtđộng chống Pháp trong giai đoạn mới.Lớp thanh niên mới còn là những luật sư, bácsĩ, kỹ sư, chánh án, hội đồng địahạt.

Trước hết vềchính trị

Từ khi Thế Chiến ThứNhất chấm dứt, thuộc địa Nam Kỳbước qua một giai đoạn mới: Giai đoạnkhai thác kinh tế của người Pháp. So với Bắcvà Trung, đời sống dân Nam Kỳ cao hơn và cũngkhá hơn từ những năm trước. Thờikỳ này Nam Kỳ rất ổn định. Chỉ trongthập niên đầu của thế kỷ 20, nhờ cáckinh đào mà diện tích đất canh tác ở Nam Kỳtăng gấp đôi. Trong khi chiến tranh(1914-18) hàng hóa của Pháp bị gián đoạn với cácthuộc địa.

Tại Việt Nam, nhiềungười Việt giàu, có sáng kiến, dám bỏ vốnlàm ăn nhiều ngành khắp Sài Gòn và Nam Kỳ LụcTỉnh. Thắng lợi của Pháp trong Thế Chiến Ilàm gia tăng ảnh hưởng và uy tín của ho tạithuộc địa Đông Dương. Nhiềungười Việt tin người Pháp sẽ nớirộng chính sách cai trị cho phù hợp với nguyệnvong và công ơn của dân chúng Việt Nam đã góp tiền,góp xương máu để họ chiến thắng.Nếu như ở miền Trung và miền Bắc cónhững cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ mà caođiểm là cuộc khởi nghĩa của Việt NamQuốc Dân Động tại Yên Báy, thì tại Nam Kỳ,các phong trào tranh đấu giành độc lập không cònxuất hiện dưới hình thức cũ nữa. Concái các điền chủ được qua Pháp du họctăng dần. Lớp thanh niên mới, hấp thụvăn hoá Pháp chính là những người lãnh đạo cácphong trào tranh đấu chống thực dân ở miềnNam. Khi chọn thanh niên bản xứ cho qua Pháp, dĩ nhiênhọ lựa những con cháu các người đã có công vàtrung thành với họ, để đào tạo thànhnhững tay sai đắc lực. Tuy nhiên, cũng cónhững trường hợp cây đắng sanh tráingọt: Câu Hai Miệng (Huỳnh Công Miêng) con trai lãnh binhHuỳnh Công Tấn về nước một thời gianbất hợp tác với Pháp còn chống đối Pháp tiêucực. Một trường hợp điển hình khác làông Nguyễn Thế Truyền, cháu của Tuần phủThái Bình Nguyễn Duy Hán. Mặc dầu ông nội cậu,Nguyễn Duy Hán là một người thân Pháp, nhưng saukhi thành tài, Nguyễn Thế Truyền trở thành mộtnhà cách mạng, suốt đời hy sinh cho lý tưởng.

Thấy phương pháp tranhđấu cũ lỗi thời, thất bại nhưcuộc khởi nghĩa non nớt của Phan Xích Long, phongtrào Đông Du... đều bị đàn áp dã man, lớpthanh niên tân học áp dụng câu "lấy độc triđộc". Học văn hóa Pháp để chốnglại người Pháp. Biến cố vua KhảiĐịình băng hà ở Huế không làm cho dưluận Nam Kỳ chú ý. Họ rất thờ ơ. Tuyvậy dân chúng miền Nam rất hăng say tranh đấuđòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu và nhất là biểudương sức mạnh hùng hậu trong lễ quốc tángnhà ái quốc Phan Chu Trinh. Sống dưới chếđộ thuộc địa gần 50 năm, Nam Kỳ cónhiều thói quen, tập quán và tự do hơn Bắc vàTrung Kỳ. Trong hai thập niên 1920-30, chúng ta thấy cómấy biến cố chính tiêu biểu:

- Trước tiên là hội kínNguyễn An Ninh (1900-1943).Sinh trong một gia đình có truyền thống cách mạng,Nguyễn An Ninh là một thanh niên có lý tưởng caocả và suốt đời đam mê phục vụ cho lýtưởng ấy. Từ bỏ phú quý, từ bỏnếp sống quen thuộc của hạng con nhà giàu, nhútlà sau khi đậu Cử nhân Luật khoa ở Pháp về,Nguyễn An Ninh cương quyết từ bỏ sự cámdỗ của quan trường mà Pháp hứa hẹn, ônglập ra một phong trào quần chúng, nông dân để cảitổ xã hội . Ông là nhà cải cách xã hội đầutiên dựa vào lực lượng lao động, ôngchỉ trích chế độ của Pháp, đồng thờikêu gọi cải tạo xã hội phong kiến của ta.Theo ông, văn minh động đích Tây phương cóthể kết hợp với văn minh tĩnh chỉĐông phương. Phong trào, hay hội kín Nguyễn An Ninhbắt đầu từ bài diễn văn "Caovọng của thanh niên" tại trụ sở HôiKhuyến Học ở Sài Gòn vào năm 1923. Xuất pháttừ Hóc Môn, Bà Điểm nhưng phong trào bànhtrướng mạnh ở các tỉnh miền Nam như TânAn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh. Hội kín Nguyễn An Ninhcũng gây tiếng vang lớn, được nhiềungười tham gia làm cho thực dân Pháp điên đầu.

- Kế tiếp là cuộc tiếpđón ông Bùi Quang Chiêu, lãnh tụ đảng LậpHiến vào năm 1926.Cuộc đón tiếp đó có một ý nghĩa chính tritrọng đại và tầm mức to lớn: Tậphọp sức manh và biểu dương ý chí tranhđấu trước mặt thực dân. Lầnđầu tiên, thanh niên trí thức Nam Kỳ dám tậphọp thành đám dông (60,000 người), giương caonhững tấm biểu ngữ và hô to những khẩuhiệu đòi tự do, dân chủ. Dịp này, thanh niêncũng làm áp lực với Pháp:

Hãy thả Nguyễn An Ninh! Hãy thảNguyên An Ninh!"

Cuộc biểu tình đón tiếp ôngBùi Quang Chiêu làm cho bọn Tây thực dân chủ đồnđiền, chủ xí nghiệp tức tối. Chúng hò hét laó, chỉ trích cả Toàn Quyền A. Varenne. Vào ngày 24 tháng Ba1926, một lực lượng hùng hậu nhứtxuống đường dự lễ quốc táng nhà chísĩ Phan Chu Trinh. Bắt chước cách tổ chứclễ quốc táng cho Tôn Trung Sơn năm trướcở Trung Hoa, lần này các tiệm buôn, hãng xưởng taiSài Gòn đều đóng cửa, công sở nghỉ việcđể tang cho cụ Phan. Hai trăm ngàn ngườiđủ mọi thành phần xã hội, lặng lẽ theoxe tang tiễn đưa cụ Phan đến nơi annghỉ cuối cùng trên nghĩa trang Tân Sơn Nhứt. Còn200 biểu ngữ đòi độc tập, tư do,hứa hẹn nối tiếp sự nghiệp tranhđấu của cụ Phan. Nhiều bài điếuvăn trở thành diễn văn cổ võ cho lòng áiquốc, kêu gọi mọi người noi gương tranhdấu của cụ Phan. Những từ ngữ mới"độc lập", "tự do", "dânchủ". . được nói đến trướcđám đông lần đầu.

Mãi đến 10 năm sau, mộtbiến cố xuất phát từ phía khác: Mặt TrậnBình Dân lên cầm quyền ở Pháp nới rộng chếđộ cai trị thuộc địa, thả tù chínhtrị, cải thiện điều kiện làm việccủa công nhân, thợ thuyền, đã tạo ra nộtphong trào tranh đấu khác ở Việt Nam, đó làĐông Dương đại hội. Mục đíchcủa Đông Dương đại hội để thu thập ý kiến, nguyện vọngcủa mọi từng lớp dân chúng, trình bày vớiđại diện của Mặt Trận Bình Dân quaViệt Nam điều tra. Đại biểu của giaicấp tư sản, đại biểu nhóm Tranh Đấu (La Lutte),đại biểu công nhân, thợ thuyền, nông dân,phụ nữ đều được mời tham dự.Chuẩn bị cho Đại hội Đông Dương trongkhông khí hết sức phấn khởi, nhưng thực dânNam Kỳ vẫn còn ngoan cố. Thống Đốc NamKỳ Henri Rival tiếp kiến các lãnh tụ của phongtrào chọn ngày họp đai hội (16 tháng Chín), nhưngsau đó hắn trở mặt, cấm nhóm họp. Hobắt các lãnh tụ của Phong trào Đông Dươngđại hội như Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh,Nguyễn Văn Tạo, nhưng sau đó, do áp lựccủa Marius Moutet, họ phải thả các vị ấy.Ở Bắc cũng có phong trào Đông Dươngđại hội, nhưng cũng không kết quả vàphong trào tan rã nhanh chóng.

Cuộc diễn thuyết kêu gọidân chúng tranh đấu tại Xóm Lách, vườn bàĐốc Phủ Tài, cô ruột Nguyễn An Ninh, tuy khôngthành công, cũng gây được tiếng vang lớn.

Thời kỳ này có một vài phầntử Cộng Sản từ Pháp về hoạt độngchui vì không có ảnh hưởng và không đượcquần chúng ủng hộ. Nguyễn Văn Tạo,Dương Bạch Mai sống ký sinh dưới tờ báo LaLutte của Tạ Thu Thâu và Trần Văn Thạch,đó là nhóm Tranh Đấu. Còn yếu thì liên hiệp,hợp tác để tồn tại, đó là sáchlược của Cộng Sản.

Tạ Thu Thâu là một gươngmặt chính trị lớn của miền Nam, quê ở LongXuyên, du học bên Pháp. Vì tham dự cuộc biểu tìnhtrước điện Élysée đòi ân xá cho các lãnh tụcuộc khởi nghĩa Yên Báy, nên bị trục xuấtvề nước.

Trần Văn Thạch là một thanhniên trí thức, thông minh, đậu Cử nhân Giáo khoaVăn chương tại đại học Sorbonne.

Nhóm Tranh Đấu cũng gồm thêmNguyễn Văn Sổ, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh... lànhững thành phần ưu tú của xã hội bấygiờ. Nhóm Tranh Đấu ứng cử Hộiđồng Quản hạt Nam Kỳ và Hội đồngThành phố Sài Gòn, đắc cử vẻ vang với 80%cử tri dồn phiếu cho họ, chứng tỏ dưluận rất ủng hộ, trong khi cán bộ Công Sảnnhư Tạo, Mai còn núp trong bóng tối hoạt độnglén lút, tuyên truyền lừa bịp và phá hoại các tổchức chống Pháp của người quốc gia.

Về báo chí, thời kỳ này cógần 40 tờ báo, nhưng chúng tôi xin kể những tờbáo tiêu biểu như:

- Đông Pháp thời báo 1924-28.

- Tân Dân báo.

- Đuốc Nhà Nam 1928-37

- Phụ Nữ Tân Văn 1929-34

- Thần Chung (Tiếng chuông buổi sớm) 1929-33..

Nếu kể về khuynhhướng, chúng ta thấy:

* Về chính trị có báo La Lutte, LaCloche Fêlée, L'Annam, La Tribune lndochinoise...

* Về nghệ thuật vănchương có: Sài Thành nhật báo (1930-31), Văn Họctuần san (1934'1937), Tiểu Thuyết thứ Sáu (1935),Tiểu Thuyết Nam Kỳ (1935), Tiểu Thuyết Sài Gòn(1935), Sài Gòn Ngọ báo (1935-36), Tuần báo NghệThuật...

* Về phụ nữ, ngoài PhụNữ Tân Văn còn có: Đàn Bà Mới, NữLưu(1946-38), Nữ Công Tạp Chí (1936-38), NữGiới...

Thuở đó, các văn nhơn kýgiả tiếng tăm thường lui tới các nhà hàngĐông Pháp lữ quán, Nam Đồng Hưng, LụcTỉnh khách lầu, Đỗ Văn Bình Hôtel, Cửu Long Giangkhách sạn. Họ thường tới vào buổichiều, thảo luận tin tức, ăn uống, ngheđờn ca ra bộô (tiền thân của Cảilương ngày nay). Trong số các người làm báonổi tiếng thuở đó, người ta hay gặp cácông Nguyễn Tử Thức, chủ bút "Nam Trung tuầnbáo", Lê Sum tự Trường Mậu, bỉnh bút tờ"Công Luận", Lão Ngạc Nguyễn Viên Kiểu,Dủ Thúc Lương Khắc Ninh, cựu Hộiđồng quản hạt cũng là bầu gánh hát.

Về kinh tế

Nam Kỳ bước qua một giaiđoạn mới phát triển lạ lùng. Biến cốthứ nhất là do ảnh hưởng cuộc khai hoangđất đai miền Tây, làm cho Nam Kỳ thịnhvượng hơn bao giờ hết. Việc đào kinhvừa thay cho việc làm đường lộ, làm giatăng diện tích đất canh tác lên nhiều lần.Kinh đào tới đâu, dân tứ xứ tới đócắm dùi làm ruộng, lập vườn, lập làng xóm.Số lúa gạo do Nam Kỳ sản xuất gia tăngvượt bực và trở thành món hàng quan trọngđể xuất cảng. Có lúc (1937) Việt Nam sảnxuất trên 3 triệu tấn lúa ! Khi hàng hóa lúa gao sản xuấtgia tăng dĩ nhiên giá trị đồng bạc ĐôngDương mạnh hơn đồng Phật Lăng(Franc) của Pháp. Cũng sau thế chiến, nhiềungười Pháp đem vốn qua lập đồnđiền cao su, cà-phê trong khi người Tàu nắmđộc quyền mua bán lúa gao.

Một trong những ngườiViệt đầu tiên biết làm ăn, có kiến thứcTây học, có tài kinh doanh và thành công mãi đến năm 1975là ông Trương Văn Bền. Không tốt nghiệpmột trường công nghệ nào, nhưng vào năm 1918ông Bền đã lập ra nhà máy ép dầu dừa tạiChợ Lớn, sử dụng 70 công nhơn bản xứ,tiêu thụ hàng năm 1500 tấn cùi dừa khô. Năm 1925hãng xà bông Trương Văn Bền ra đời (sau nàygọi là hãng xà bông Việt Nam), xưởng đặt phíabên hông chợ Kim Biên, sản xuất một loại xà bôngthơm lừng danh khắp Đông Dương: Xà bông CÔ BA!

Các ông Lê Phát Anh, Lê Phát Thanh, Lê PhátVĩnh, con ông Huyện Sĩ là những cự phú có óc kinhdoanh. Cả ba ông đều có học bên Tây, đỗ Tútài đôi, về nước bỏ vốn làm ăn, kinhdoanh nhiều lãnh vực mới mẻ, cạnh tranh vớingười Pháp. Lê Phát Vĩnh là người có tánh hàohiệp, lịch duyệt, cư xử với mọingười (công nhân, tá điền) rất đượclòng, khi chết nhiều người còn nhớ. Ngoàimấy ngàn mẫu đất ở miền Tây, giáp ranhvới "điền ông Kho Gressier", ông Vĩnh cònđồn điền trà, đồn điền cao suở Cầu Đất (Đà Lạt) và miền Đông.Năm 1920, ông Vĩnh lập hãng dệt the, lấy tên LêPhát (Manufacture de Tissage Le Phat) ở Cầu Kho (Quân l), sửdụng 50 công nhân, ông lại cho trồng dâu, nuôi tằm,ươm tơ để cung cấp cho nhà máy, khỏilệ thuộc nguyên liệu vào nước ngoài. Riêng tronglãnh vực đồn điền, ông Vĩnh có 200 công nhân.

Lê Phát An, năm 1934 trở thành cậuvợ Hoàng đế Bảo Đại có tặng cháu gái làNguyễn Thị Hữu Lan (Nam Phương Hoàng Hậu)một triệu đồng làm của hồi môn,đủ biết sự giàu có đến bậc nào! Ôngđược Bảo Đại phong tước AnĐịnh Vương. Ông dân Pháp, có tên ấy Denis Lê PhátAn.. Ông sống như một nhà quý tộc đúng nghĩa,biết làm ăn lớn, ăn chơi giao du với các ônghoàng bà chúa của Âu Châu, ăn xài như ông hoàng, bạn thânvới Hoàng thái tử Henri D'Orléans, Thái tử ĐanMạch Waldemar, Công tước De Montpensier, và nhiều nhàdanh giá khác... Ông là nhà quý tộc duy nhất ở Nam Kỳ,tiền rừng bạc bể có biệt điện Anaở Vũng Tàu, tư dinh Mont Roye ở Hạnh Thông Tây.

Trong lãnh vực điện lực, LêPhát An và Phạm Tùng Long có 12 nhà máy đèn ở các tỉnhNam Kỳ như Trà Vinh, Mỹ Tho, Châu Đốc, PhanThiết. Trong khi đó, tại Rạch Giá công tyđiện nằm trong tay các ông Cao Thiệu Toản,Nguyễn Chánh Ngọ, Bùi Văn Mậu.

Hồi đó từ Gia Địnhtrở lên là những đồn điền cao su ngút ngàn,nằm trong tay các nhà tư sản Việt Nam nhưNguyễn Hữu Hào (quê ở Gò Công), Lê Phát Vĩnh(đồn điền Bà Rịa), ở ThủDầu Một có đồn điền của các ôngNguyễn Văn Yến, Trần Văn Chương, Lê PhátTân (em ruột ông Lê Phát Vĩnh), Nguyễn Văn Thành..ÔngThành thuở nhỏ là một người rất nghèo, theo mẹ ra chợ hán rau cải, nhờhiếu học, thông minh mà trở thành giàu có. Tỉnh BiênHòa nhiều đồn điền cao su rộng lớntới vài trăm mẫu của các ông Nguyễn VănCủa (tức ông huyện Của), Trần Văn Tư,Trương Văn Bền, bà Nguyễn Thị Tâm. Nhiềuchủ nhân các đồn điền ấy có chân trongtập đoàn cao su Đông Dương.

Về ngành in và xuất bản ởMỹ Tho có nhà in Nguyễn Văn Trí. Sa Đéc có nhà inHồ Văn Lang. Sài Gòn có nhà in "Xưa nay" củaông huyện Của và Lê Phát An, nhà in Nguyễn VănViệt, và nhà in Đặng Thị Độc Lập...

Các tỉnh có mấy xí nghiệpđáng kể như nhà máy xay lúa Nguyễn Thành Liêm. Ông Liêmcũng có lập nhà máy ép dầu dừa tại An Hòa. Nhà máyđường Hiệp Hòa thành lập năm 1921 Nhà máy xayLê Văn Tiết ở Chợ Lớn, mỗi ngày xayđược 16 tấn gạo.

Về giao thông chuyên chở tai VĩnhLong có Nguyễn Thành Liêm là một nghiệp chủ giàulớn, ông làm chủ hãng xe đò hàng chục chiếc,sử dụng trên 20 tài xế và 30
công nhân. Ở Cần Thơ có nhà tư sản TrầnĐắc Nghĩa có khách sạn, gánh hát TrầnĐắc. Về đường thủy có hãng tàu đòông Phán Nuôi (Vĩnh Long), hãng Vĩnh Hiệp ở Mỹ Tho.Về ngân hàng các người Việt tiên khởi thànhlập "Việt Nam Ngân Hàng" là do các ông Trần TrinhTrạch, Nguyễn Tấn Sử , Nguyễn Tấn Lợi, Lê Quang Liêm, Trương Tấn Bộ, Nguyễn ThànhĐiểm góp vốn. Nhiều công ty mua bán làm đạidiện các hãng xưởng của Pháp như: Công ty NguyễnPhú Khai ở Sài Gòn, chuyên nhập cảng xe hơi, xeđạp, thuốc lá; công ty Nguyễn Văn Hảođại diện hãng xe "Rùa nắp" (Rounab). Lê PhátAn còn chung vốn với De Ligon lập công ty dệt. Ngoàingười Việt, người Chà còn cho vay vốn(Chetty). Người Hoa cũng góp vốn buôn bán làm cho NamKỳ phát triển nhanh chóng
.

Về xã hội

Nam Kỳ có đời sống caonhờ kinh tế phát triển. Số điền chủbậc trung (500 mẫu ruộng) tăng rất nhiều.Họ có đời sống phong lưu như một quanlại ngoài Bắc (Tuần Vũ, Tổng Đốc).Hằng ngày, con cái họ ăn chơi tại các trà đìnhtửu điếm, đá gà, hút thuốc phiện cầuvui, coi hát..

Có hai địa điểm tậptrung ăn chơi hồi mấy thập niên đầuthế kỷ 20 như:

Sài Gòn có khách sạn Continental, nhà hàngHôtel de France đường Catinat. Ở Chợ Lớn cácphòng ngủ, nhà hàng tập trung gần khu "Đènnăm ngọn" đường Phùng Hưng ngày nay.Đây là khu làm ăn của người Tàu, nơi tiệctùng đãi đằng các quan Tây để làm áp-phe.Người Tàu có thói quen giải quyết công chuyên làmăn trên bàn tiệc.

Nơi nào cũng có ca nhi, gáiđiếm và động hút thuốc phiện, thú vuiphổ thông thời đó. Chợ Lớn còn có hát bộTàu, Sơn Đông mãi võ, nhạc Tàu, coi bói, thai đố,đấm bóp trong khách sạn. Việc tổ chứccờ bạc hồi thập niên 1920-30 nằm trong taythầy Sáu Ngọ, Sáu Nhiều. Sáu Ngọ đượcmệnh danh là vua cờ bạc Sài Gòn, hằng năm sốtiền xâu lên đến 2 triệu bạc. (Xem thêm "NamKỳ Lục Tỉnh" tập I, cùng tác giả). SáuNgọ là người lai, mẹ Tàu, nhập Pháp tịch,lấy tên Tây Paul Daron. Các nơi ăn chơi vùng Sài Gòn dànhriêng cho người Pháp, giới ký giả, và dân có học Tây.Chợ Lớn là nơi dành cho người Tàu, các ôngđiền chủ dưới tỉnh lâu lâu lên ChợLớn bàn việc mua bán, giá lúa gạo.

Ở miệt vườn, từMỹ Tho tới Bạc Liêu là nơi có nhiềuđiền chủ hạng trung. Một số ítđại điền chủ như ông Hương Liêm, đốcphủ Kiêng (Nguyên Duy Hành) ở Bến Tre, đốcphủ Sưng ở Mỹ Tho, hội đồngTrạch, hội đồng Điều... Bạc Liêu.Họ cất nhà lợp ngói âm dương, nền đúccao tới ngực, có hàng rào song sắt, hai bên lối đicó trồng nhiều bông kiểng. Nhà nào cũng cấtgần mé sông, hoặc có đào rạch nhỏ để chởlúa về có chỗ để ca-nô, có nhà mát đểchiều ra mé sông hứng gió. Ngày nay, trên rạch Long Hồ,còn nhiều nhà mát kiểu xưa. Trong quyển "BảyNgày Trong Đồng Tháp Mười" trang 91, ôngNguyễn Hiến Lê viết:

"Khi tới gần Gò Đá, chúng tôiqua một trại rất lớn, có cày máy. Chủđiền vui vẻ tiếp đãi, giữ chúng tôi lạiăn cơm. Chỉ trong một giờ là trên bàn đã cósáu, bảy món ăn, rượu quý trái cây và bánh ngọtrất nhiều. Dĩa chén toàn là đồ Limoges, lybằng pha lê. Chủ nhân có 600 mẫu đất, phàn nànlỡ mua non 1 vạn đồng bạc máy cày, mới dùngđược vài tháng lại phải bỏ vì không khíẩm thấp, thợ chuyên môn không có.... Chủđiền trong này là những ông vua nhỏ. Chánh thambiện vào nhà họ, thấy những thứ rượucủa họ mà thèm. Ho mua từng thùng để đãikhách quý... Điền chủ hạng trung như vây dưsức cho con cái qua Pháp học, mà số điền chủđó ở Nam Kỳ có biết mấy ngàn người,chưa có thống kê rõ ràng".

Nếu nói riêng về giá cả vài mónhàng chúng tôi xin nêu ra để độc giả thêm ý thêmvề giá trị của đồng tiền lúc ấy.Từ năm 1919 giá vàng 50 đồng một lượng.Sau đó sụt lần cho đến khikhủng hoảng kinh tế năm 1932 chỉ còn 19đồng một lượng. Nói chung trong hai thập niênkể trên, giá vàng xê xích khoảng 40 một lượng màthôi. Còn giá ruộng đất từ năm 1925, có 50đồng một mẫu, có khi tăng đến 80đồng nếu là ruộng tốt, gần bờ kinhxáng mới đào. Một mẫu ngoài Bắc rộng 3600m2, ở Trung rộng 4800 m2 và ở Nam Kỳ, mẫurộng 10.000 m2, lấy theo đơn vi đo lườngcủa Pháp. Một mẫu có 10 công, mỗi công ruộng có1000 m2. Hồi năm 1927, ông Lê Phát Vĩnh có đăng báobán 1000 mẫu ruộng ở Phụng Hiệp chạyxuống Sóc Trăng, với giá 80 000 đồng, nhưngkhông ai mua, họ chỉ trả 60.000 đồng (tính ra 60 đồngmột mẫu). Giá lúa năm 1928 là 1.20 đồng, nhưngđến năm 1933, có khủng hoảng kinh tế,chỉ còn 0.30 hay 0. 20 một giạ . Vè Nọc Nạn(1928) cho biết: "Lúa thì một giạ, giá thìđồng hai".

Về các cơ quan tư vấn caonhất ở Nam Kỳ, gồm một phầnngười bản xứ tham gia gọi là hộiđồng. Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ(Consell Coloniale) thành lập năm 1880, đượcquyền biểu quyết ngân sách Nam Kỳ. Lúc banđầu, hội đồng này có 12 hội viên, nửaPháp, nửa Việt. Muốn được đi bầu,phải là các điền chủ đóng thuế từ 20đồng trở lên, nhà buôn phải có môn bài hạng 6trở lên, còn công chức thì hạng thầy thông thầyphán trở lên mới được đi bầu. Vềnhân viên chính quyền bản xứ muốn đi bầuphải tri phủ, tri huyên, chánh phó tổng, lý trưởngđã làm việc trên 3 năm và các hội viên phòng Canh Nông,phòng Thương Mãi . Hội đồng địa hạtăn lương tỉnh, hay thành phố như Sài Gòn,Chợ Lớn. Ngoài ra, còn phòng Thương Mãi và Canh Nôngđược lập ra để tập họp nhữngđiền chủ, các nhà tư sản Pháp lẫn Việt.Phòng Thương Mãi Nam Kỳ thành lập vào năm 1868,được cải tổ vào năm 1923. Phòng Canh Nông NamKỳ thành lập năm 1897. Cao hơn hết là"Hội Đồng Kinh Tế Lý Tài ĐôngDương" lập ra từ năm 1928, do hội viêncác tổ chức vừa kể bầu lên. Thật ra các ôngHội đồng chỉ có quyền tư vấn,nhưng đối với dân chúng, họ đượctrọng vong lắm vì giàu có, nhiều đặc quyềndo Pháp ban cho. Kể từ khi Le Myre de Vilers, mộtngười dân sự được bổ làm ThốngĐốc Nam Kỳ, việc tổ chức cai trịđi vào nề nếp.

Trong một cuộc bầu cửHội đồng Quản hạt vào năm 1886 , mộtứng cử viên dùng chữ Quốc ngữ đểvận động tranh cử, đó là người bà convới ông Phủ Ca, tên Trần Tử Lương: "Tôiphục vụ trong chính quyền Pháp 22 năm, vàđược thăng Đốc Phủ Sứ hạngnhất, rồi xin hưu trí. Tôi hiểu biết mọivấn đề. Điều đó rất quan trọngđể giúp đồng bào. Bây giờ tôi biết nói vàviết tiếng Pháp, lẫn tiếng Hán. Tôi mong muốntrở thành ông hội đồng quản hạt NamKỳ, để đem hết sức mình giúp đỡngười An Nam về tất cả những vấnđề liên quan tới họ".

Hội đồng Quản hạt NamKỳ có nhiều quyền lợi. Muốn vào hộiđồng phải là những đại điềnchủ, những nghiệp chủ giàu lớn. Hơnnữa với chính sách nâng đỡ các Hội đồngđược quyền hưởng đặcnhượng về ruộng đất miễn phí.Chẳng hạn như:

- Ngày 3 tháng Tám 1900 cấp cho Hộiđồng Hồ Bảo Toàn 200 mẫu đất.

- Ngày 6 tháng Tám 1904 cấp cho Hộiđồng Trần Bá Diệp 100 mẫu đất .Tất cả đều miễn phí.

Năm 1882, một Hội đồngngười Pháp, ông Vienot than phiền rằng trong nhữngphiên họp các ông Hội đồng người Việtkhông tham gia bàn cãi, thảo luận gì cả, bởi vì khôngbiết tiếng Pháp. Khi hỏi ý kiến, hay biểuquyết về vấn đề gì họ cũngđồng ý, tiếng Pháp gọi là "Oui"như tiếng O K của Mỹ, nên dân chúng thườngchế nhạo các ông Hội đồng dốt, tiếngTây là "Hội đồng Qùi". Từ đó, họđề nghị những người muốn ra ứngcử Hội đồng phải có quốc tịch Pháp.Còn Chủ tịch Hội đồng Quản hạt, Cuniaccho rằng cần có thông ngôn để các ông Hộiđồng hiểu biết thấu đáo các vấnđề bàn cãi. Năm 1905, ông Hội đồng TrầnBá Diệp đắc cử Phó chủ tịch Hộiđồng Quản hạt Nam Kỳ, nhưng 4 ngày sauphải từ chức vì lý do riêng. Ông Hội đồngDiệp Văn Cương cho rằng vì áp lực từ bênPháp.

Bắt đầu từ năm 1881,Pháp cho gia nhập dân Tây những người có thể nóitiếng Pháp, còn nếu có công trạng với Phápđược miễn điều kiện này. Nhữngkẻ có mề đay "Bắc đẩu bộitinh" là những người vào Hội đồngQuản hạt Nam Kỳ trước nhất:

- Nguyễn Thành Trung năm 1882

- Lê Phát Đạt (ông Huyện Sĩ) năm 1882

- Diệp Văn Cương

- Hồ Bảo Toàn.

- Trần Bá Diệp năm 1882

- Cao Văn Sanh năm 1882

- Hội đồng Phong (không nhớ họ gì).

- Trần Bá Thọ (con Tổng Đốc Lộc)

Vào năm 1893, Pháp cho phép con cái các ôngHội đồng được theo học trườngTaberd có học bổng. Ông Hội đồng Cao Văn Sanhcó con được cho du học bên Algérie. Những ông Hôiđồng nổi tiếng hồi mấy thập niênđầu thế kỷ 20 là các ông Bùi Quang Chiêu, Lê Quang Liêm(Phủ Bảy), Trương Văn Bền, HuỳnhNgọc Bình, Trần Như Lân (bác sĩ)... Các ông Hộiđồng có trách nhiệm phê chuẩn các đề nghịxin cấp đất cho những người đứngđơn xin từ 20 mẫu trở lên. Dưới 20mẫu thường do chánh tham biện phê chuẩn.Thống Đốc hay Toàn Quyền có thể cấpmột số đất cho bạn bè thân thích. Năm 1900nhơn dịp Toàn Quyền Paul Doumer vào Nam ghé ăn ởnhà Đỗ Hữu Phương, cấp cho ông mộtsố đất rộng 2223 mẫu ở Vị Thanh bâygiờ. Cũng từ năm 1900, hàng chục ngàn mẫuruộng ở miền Tây được cấp cho cácngười Pháp, Việt có thế lực và tiếptục những năm sau đó ở miền Tây, chúng ta cònnghe nhắc đến những sở đất rộnglớn gọi là Điền Ông Kho(Gressier), Điền ÔngLa-bách (Labaste), Điền Cờ Đỏ... phầnlớn là những đất đai được cấpkhông tốn tiền.

Các nhơn vật nổi tiếngnhất của Nam Kỳ buổi đầu đều vôdân Tây và có đạo Công giáo. Họ cho con cướivợ lấy chồng Pháp để bảo đảmquyền lợi và sư học vấn sau này.

Vào năm 1888, toàn cõi Nam Kỳ có 2373cử tri đủ điều kiên đi bầu Hộiđồng Quản hạt, chia ra như sau.

- Biên Hòa 313 cử tri

- Sài Gòn 563 cử tri

- Trà Vinh 453 cử tri

- Vĩnh Long 333 cử tri

- Châu Đốc 203 cứ tri

- Mỹ Tho 508 cử tri

Những con số đó cho biếtsố người giàu ở các tỉnh lúc bấy giờ.Không phải tất cả mọi Hội đồngđều chỉ biết nịnh hót Tây. Chúng ta hãy nghelời phàn nàn của giám mụcMossard tuyên bố trong một phiên họp Hôi đồngQuản hạt rằng "Nhờ hấp thụ vănhóa do nhu cầu cai trị, nhưng một số các ông hôiđồng tỏ ra ít trung thành với Pháp".

Vào năm 1930 ở Nam Kỳ có 257đai điền chủ, mỗi người có ít nhấttừ 500 mẫu ruộng trở lên. Riêng Hộiđồng Tó, tức Trần Trinh Trạch có đến146000 mẫu ruộng, rộng bằng một tỉnh trungbình ngày nay, là người giàu nhất, thế hệ sau ôngHuyện Sĩ. Các ông gia nhập Pháp tịch đầu tiênlà Đỗ Hữu Phương vào năm 1881, Trần BáThọ năm 1883. Vào năm 1906, toàn cõi Nam Kỳ có 254người Việt có Pháp tịch.

Việc giáo dục nhữngnăm đầu ở Nam Kỳ ra sao?

Chiếm được Nam Kỳrồi người Pháp muốn dùng văn hóa Pháp thaythế cho nền văn minh bản xứ. Ho chọnlớp con cháu những người có công với họ choqua Pháp, Algérie du học, với lý do khí hậu Algérie hợpvới người Đông Dương hơn. Vào năm1893, con của những Hội đồng quản hạtNam Kỳ tên Duồm và Năng (không rõ họ và chữ lót làgì) và con của Hội đồng Cao Văn Sánhđược cho du học Algérie trước tiên.Trường Adran thành lập năm 1861, trường Taberdlập năm 1874 . Pháp chú ý đến thế hệ kếtiếp là lớp con cháu của Đỗ Hữu Phương,Trần Tử Ca, ông Huyên Sĩ, nên nhiều con cháu các giađình ấy đều được qua Pháp du học.Đỗ Hữu Phương được qua Phápnhiều lần: Năm 1878 dự hội cho đấuxảo, năm 1884 và 1889 đi thăm con du học Nênnhớ vào năm 1869 lúc chiếm trọn Nam Kỳ, nhưngchưa có hòa ước chính thức mà Pháp đã mở raở Sài Gòn 6 trường học để dạy chữPháp và chữ Quốc ngữ, thay thế cho chữ Hán.Trường Le Myre de Vilers (Nguyễn Đình Chjểu,Mỹ Tho), là một trường được thànhlập sớm nhất, vào năm 1872 dưới thờiThống Đốc dân sự cùng tên. Khi mới thành lậpcó vụ rắc rối giành học trò giữa Thanh traNội vu bản xứ và Giám mục Lize. Vì cần họcsinh, nên họ bắt các học trò trong họ đạocủa cha Lize vào học mà cha không đồng ý, tạo rasự tranh chấp. Sách "Sự Có Mặt CủaNgười Pháp Ở Nam Kỳ và Cam Bốt" do tácgiả Milton E. Osborne gọi vụ đó là "Affaire del'école centrale de Mỹ Tho" . Cha Lize phàn nàn: "câu Vânglịnh Chúa hơn vâng linh người đời khôngcòn ý nghĩa nữa". Vụ tranh chấp ấy làm chothanh tra bản xứ phải nhượng bô. Nhiều nhàkhá giả có lịnh bắt buộc phải cho con theohọc trường Mỹ Tho. Tuy nhiên họ tìm cáchgiấu con ruột, cho đứa ở đi học vìsợ triều đình sẽ trả thù. Những con cáicủa gia nhơn ở đợ nếu có chí về sautrở thành những ông phủ, ông huyện dễ dàng.Để khuyến khích ngoài trợ cấp quần áo,tiền bạc cho học trò, Pháp còn cấp cho cha mẹchúng. Ta thấy thực dân cũng khôn ngoan chú trọng chínhsách trồng người. Con trai Huỳnh Công Tấn là HuỳnhCông Miêng còn gọi Cậu Hai Miêng (1858-1899) về làm quanmột thời, rồi chán đời, ăn chơi, sốngnhư công tử đầu tiên của Nam Kỳđược mọi người ca tụng là"miễn tử lưu linh". Cậu Hai Miệng cómột gia tài ruộng đất kếch xù nhưng ít aibiết. Theo tài liệu Pháp, lúc chết Cậu Hai Miêng còntrên 1000 mẫu ruộng!

Trước năm 1975 còn ngôi môCậu Hai Miêng tại đường Nguyễn TấnNghiệm (sau đổi Trần Đình Xu). Câu Hai Miêngchết, nhưng danh tiếng cậu còn sống mãi trong lòngngười dân vì tập thơ "Cậu Hai Miêng" đượcin và tái bản nhiều lần phổ biến sâu rộngở Nam Kỳ. Nội dungtập thơ ca tụng tính khí Câu Hai sống theo anh hùnghảo hán, điệu nghệ với anh em bè bạn, hay giúp đỡ ngườinghèo. Cậu Hai Miêng tới đâu hết tiền xài,cứ vào dinh các tham biện chủ tỉnh, chủquận hỏi xin. Các quan nể cậu và nhớ công lao chacậu nên cũng giúp đỡ. Đôi khi cậu làmđiều gì phạm lỗi nhỏ, họ cũng bỏqua. Nói về hành vi hào hiệp, rộng lượng củacậu, dân chúng Nam Kỳ có hai câu thơ trong tập"Thơ cậu Hai Miêng":

"Cậu Hai Miêng, cậu chớ cólo,

Hết tiền cậu cứ xuốngkho lấy xài"

Vài người Việt qua Algérie duhọc vào cuối thập niên 1880 là các ông NguyễnTrọng Quản, Diệp Văn Cương, TrươngMinh Ký.

Ông Nguyễn Trọng Quản (1865-1911)quê ở Bà Rịa, con rể Trương Vinh Ký, du họcLycée d'Alger, về nước làm giáo sư, rồi thành giámđốc các trường sơ học vào những năm1890-1900. Ông còn là một nhà văn tiền phong, đãviết truyện "Thầy Lazaro Phiền",xuất bản năm 1887. Ngoài ra ông còn là họa sĩ,đã vẽ các tranh minh họa trong tiểu thuyết "PhanYên ngoại sử" của Trương Duy Toàn,xuất bản năm 1910 tại Sài Gòn.

Trương Minh Ký(1855- 1900) là người quê ở huyện Bình Dương,nay thuộc tỉnh Gia Định, cũng học bên Alger(thủ đô nước Algérle), về nước làm giáosự dạy trường Chasseloup Laubat, trường thôngngôn, và viết cho tờ "Gia Định báo". Năm1899 ông làm thông ngôn trong một phái đoàn của triềuđình Huế dự hội chợ đấu xảo taiParis. Trương Minh Ký để lại nhiều tácphẩm chữ Quốc ngữ, ngôn ngữ, chữ Pháp vàchữ Hán rất có giá tri.

Ông Diệp Văn Cương chúng tôicó nói nhiều trong các tập Nam Kỳ Lục Tỉnh, xinmiễn kể lại.

(Hứa Hoành. Các giai thoạiNam Kỳ Lục Tỉnh)