Nguồn gốc chữ Quốc ngữ

A.Đại Cương.

Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữViệt, người Việt chúng ta đã dùng từ lâu, mặc dù nó khôngđược chính danh. Bởi vì danh từ chữ Quốc ngữ là danh từchung, chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn chữNôm ( 1 ) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng do chúngta dùng lâu đã quen, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉcho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầudo những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam,họ mượn mẫu tự La tinh, ghép lại để ghi âm địa danhvà nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua các thờikỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình hình thành, nóđã được sự đóng góp của người Việt cũng như ngườingoại quốc, phần chính vẫn là người Việt chúng ta.

Sự hình thành chữ Quốc ngữ cóthể chia ra làm ba thời kỳ :

* Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621.
* Thời kỳ xây dựng năm 1651.
* Thời kỳ phát triển từ năm1867.

Chúng ta biết rằng, khoảng giữathế kỷ XVI, lúc ấy nước ta chia thành Nam, Bắc triều. Năm1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu), người Âu, theo đường biểnvào nước ta ở Đàng Ngoài, tại Nam Định để giảng đạo.Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Đàng Trong ở một thờigian rồi bỏ đi, cho đến năm 1615, giáo sĩ Francesco Buzomi đếnlập Giáo Đoàn Đàng Trong (Mission de la Cochinchine), đến năm1627, giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) mới lập Giáo ĐoànĐàng Ngoài (Mission de Tonkin).

Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộcDòng Tên, có một trung tâm truyền giáo ở Áo Môn (Macao - TrungQuốc), vì trước kia người Bồ Đào Nha sang Trung Hoa buônbán, họ ở bán đảo Schangch'nan thuộc Quảng Châu, vào khoảngnăm 1557, có bọn cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường haykhuấy nhiễu Quảng Châu, nên người Trung Hoa nhờ các thươnggia Bồ Đào Nha dẹp bọn cướp biển ấy, sau khi dẹp xongbọp cướp, người Bồ Đào Nha xin phép nhà cầm quyền TrungHoa cho họ trú ngụ ở bán đảo Schangch'nan và Áo Môn, mỗinăm họ đóng thuế cho chánh quyền Trung Hoa, cho đến thếkỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Đào Nha.

Thuở đó, các nhà truyền giáo Tâyphương muốn sang Viễn đông, họ đều theo các thương thuyềnBồ Đào Nha, cho nên họ chọn Áo Môn làm trung tâm truyềngiáo để hoạt động ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam,nơi ấy có cả một Viện thần học "Madre de Dieux" (Mẹ ĐứcChúa Trời).

Do đó các giáo sĩ người Âu thườngtừ Áo Môn sang Đàng Ngoài hay Đàng Trong và ngược lại, họthường dùng ngôn ngữ Bồ Đào Nha để giao dịch với nhau,những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về La Mã cókhi họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh.

B.Sự Hình Thành Chữ Quốc Ngữ

I.- Thời KỳSáng Tạo Chữ Quốc Ngữ

Không phải chữ Quốc ngữ hìnhthành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt,thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của cácgiáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đôngnằm trong địa bàn truyền giáo của họ.

Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữđược các nhà truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trướcnhất, công việc nầy do hai giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggierivà Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa,quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột : chữ Bồ, chữ Hán, phiênâm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảngviết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở La Mã (Rome).

Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneođã dùng ký hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ.

Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữNhật đã được La tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 cóđến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai tác phẩm quantrọng sau đây đáng được nhắc đến:

1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếngNhật theo mẫu tự La Tinh có tên là : Dotrina Jesus no Companiano Collegio Amacusa ni voite superiores no vou xi no comuni core no fanto nasu mono nari, Nengi, 1592.

2) Cuốn tự điển La - Bồ - Nhật:Dictionarium latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia JaponicoSocieta Jesus, Anno 1595)

Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhậtđược in theo mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604.

Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạochữ Quốc ngữ có thể chia ra làm 2 giai đoạn :

* Giai đoạn phiên âm.
* Giai đoạn cấu tạo câu.

1.- Giai đoạnphiên âm.

Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đâylà một dòng chữ xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hìnhthành chữ Quốc ngữ.

"Con gno muonbau tlom laom Hoalaom chian".

Câu nầy, theo giáo sĩ ChristoforaBorri ( 2 ), là câu mà các giáo sĩ đàngtrong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩalà : Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng ?

Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâumà có, nhưng đó là danh từ do người Việt Nam thời bấygiờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha, và sau đó đượcdùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương. Như vậycâu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏimột người Việt rằng : " Muốn vào đạo Thiên chúa chăng? " Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linhmục Buzomi đã sữa lại như sau : " Muon bau dau Christiam chiam? " ( Muốn vào đạo Christiang chăng ?).

Đây là câu trích trong quyển sáchcủa Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằngchữ Ý ( 3 ). Tuy vậy, chúng ta có thểcoi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùngtrong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ởĐàng Trong.

Phiên âm : Nghĩa
Anam : An Nam
Tunchim : Đông Kinh
Ainam : Hải Nam
Kemoi : Kẻ mọi
Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya : Quảng Nghĩa
Quignin : Qui Nhơn
Dàdèn, lùt : Đã đến lúc
Dàdèn lùt : Đã đến lúc
Scin mocaij : Xin một cái
Chià : Trà
Cò : Có
.......
Onsaij : Ông sãi
Quanghia : Quảng Nghĩa
Nuoecman : Nước mặn
Da, an, nua : Đã ăn nữa,
Da, an, het : Đã ăn hết
Omgne : Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay : Ông Sãi đi lại
Bàncò : Bàn Cổ
Maa : Ma
Maqui, Macò : Ma quỉ, ma quái
Bũa : Vua
Chiuna : Chúa

Bản phúc trình của Linh mục JoãoRoig viết bằng chữ Bồ Đào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621,để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm vài danh từ nhưsau :

An nam : An Nam
Sinoa : Xứ Hóa
Usai : Ông Sãi
Ungne : Ông nghè
On trũ : Ông trùm
Ca cham : Ca chàm ( kẻ chàm, tứcThanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọilà Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman : Nước Mặn
Bafu : Bà phủ
Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( ? )
Banco : Bàn Cổ
Oundelinh : Ông Đề Lĩnh

Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luiscũng viết một bảng tường trình bằng La văn tại Áo Mônngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, đểbáo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài phiênâm :

Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Ongne, Ungué : Ông nghè
Bancô : Bàn Cổ

Đến ngày 16-6-1625, giáo sĩ ĐắcLộ có viết một lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục NunoMascarenhas, trong ấy có vài phiên âm :

Ainão : Hải Nam
Tunquim, Tunquin : Đông Kinh

Thêm một tài liệu khác Gaspar Luisviết bằng La văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi choLinh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, trong ấy có phiên âm mộtsố địa danh và danh từ:

Fayfó : Hải phố (Fayfo : Hội An)
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Pullocambi : ?
Dinh cham : Dinh chàm
Quanghia : Quảng Nghĩa
Quinhin : Qui nhơn
Ranran : Ran ran ( tức là sông ĐàRằng ở Phú Yên)
Bendâ : Bến đá
Bôdê : Bồ đề
Ondelimbay : Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedoc : Ông Đề đốc
Unghe chieu : Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit : Nhứtlà không, không là nhứt

Và Linh mục Antonio de Fontes ngườiBồ Đào Nha, đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàmvới Linh mục Pina và Đắc Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mụcFontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văngửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ởLa Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũngcho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng Trong có 3 cơ sở:Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trongbảng tường trình nầy, có các phiên âm :

Digcham : Dinh Chàm
Nuocman : Nước Mặn
Quinhin : Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ : Xứ Hóa
Orancaya : ?
Quan : Quảng (Quảng Nam)
Xabin : Xá Bình ?
Bếndá : Bến đá
Bude : Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedóc : Ông đề đốc
Onghe Chieu : Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít : Nhứtlà không, không là nhứt
Dinh Cham : Dinh Chàm
Sinóa : Xứ Hóa

Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomiviết một lá thư chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi,cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghitheo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư nầygồm có:

Xán tí : Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượngđế
Ngaoc huan : Ngọc hoàng

Cho đến năm 1631, có thêm hai tàiliệu của Đắc Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết mộtbức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở La Mã , trong ấychỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa : Thanh Hóa, vàmột bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục PedroMarques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đếnlúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15-3-1631 (trongchuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d'Amiral, André Palmeiro,Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viếttrên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ:

Sinoa : Xứ Hóa (thuận Hóa)
Anná : An nam
Sai : Sãi
Mía : Mía ( nhà tạm trú)

Những tài liệu phiên âm trên, chochúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữtrong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúngta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thốngnhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiênâm :

Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)

Danh từ Ông Nghè :

Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)

2.- Giai ĐoạnCấu Tạo Câu.

a.- Sự đónggóp của Gasparo d'Amiral

Giai đoạn kế tiếp được coi nhưkhởi sự từ năm 1632 với những phiên âm của Gasparo d'Amiral,trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy vai trò đóng góp cho sựhình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo d'Amiral rất quan trọng,ông phiên âm có phương pháp. Tài liệu dẫn sau đây cho chúngta thấy rõ Đắc Lộ đã theo phương pháp của ông để phiênâm trước khi dựa vào quyển tự điển Bồ Đào Nha - Annamcũng của ông, để Đắc Lộ soạn quyển tự vị "AnNam - Bồ Đào Nha - La Tinh "

Để hiểu rõ điều chúng tôi vừađề cập tới, không gì hơn là chúng ta nhìn lại cuộc đờivà vết đi của họ, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng của Gasparod'Amiral đối với Đắc Lộ.

Gasparo d'Amiral sinh năm 1592 tại BồĐào Nha, gia nhập Dòng Tên ngày 1-7-1608, ông đã làm giáo sưdạy La văn, Triết học, Thần Học tại các học viện vàđại học Evora, Braga, Coinbra ở Bồ Đào Nha.

Năm 1623, Gasparo d'Amiral đến ÁoMôn, vào tháng 10 năm 1926, ông cùng với Thầy Paulus Saito (1577-1633ngườiNhật) đến Đàng Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùngvới Linh mục Đắc Lộ và Pedro Marques về Áo Môn. Ngày 18-2-1631Gasparo cùng 3 Linh mục khác là André Palmeiro, Antonio de Fontesvà Antonio F. Cardim từ Áo Môn đáp tàu Bồ Đào Nha đến cửaBạng (Thanh Hóa) và đến ngày 15-3-1631, các Linh mục nầy mớiđến Kẻ Chợ (Thăng Long).

Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontestrở về Áo Môn còn Amiral và Cardim ở lại tiếp tục côngcuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Năm 1638, Linh mục Amiralđược gọi về giữ chức Viện Trưởng Viện thần học tạiÁo Môn, như vậy ông đã ở Đàng Ngoài được 7 năm.

Đến năm 1641, ông được cử làmPhó Giám Tỉnh Dòng Tên hai tỉnh Nhật và Trung Hoa (gồm cácnước Nhật, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan và Trung Hoa- Áo Môn, Quảng Đông, Quảng Tây). Năm 1645, ông đáp tàu từÁo Môn đi Đàng Ngoài, khi tàu đến gần đảo Hải Nam bịđắm, do đó ông bị chết đuối vào ngày 23-12-1645.

Trong 7 năm ở Đàng Ngoài, Gasparod'Amiral còn để lại 2 tài liệu liên quan đến chữ QuốcNgữ. Tài liệu 1, ông viết bằng Bồ văn tại Kẻ Chợ vàongày 31-12-1632 nhan đề: " Annua do reino de Annam do anno de 1632,pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, Visitator das Provincias deJapan, e China " ( Bảng tường trình hàng năm về nước An namnăm 1632, gửi cha André Palmeiro, Dòng Tên, giám sát các tỉnhNhật và Trung Hoa). Tài liệu nầy hiện lưu trử tại văn khốDòng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm như sau:

Tun kim : Đông Kinh, chỉ cho xứ AnNam
Đàng tlão : Đàng Trong
Đàng ngoày : Đàng Ngoài
Đàng tlên : Đàng trên
Oũ nghe : Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién : nhà ti, nhà hiến
nhà phũ : nhà phủ
nhà huyẹn : nhà huyện
oũ khơũ : Ông Khổng ( Khổng PhuTử)
Đức laõ : Đức Long; niên hiệuĐức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ : Vĩnh Tộ; niên hiệuVĩnh Tộ (1620-1628)
Bua : Vua
Tế Kì đạo : Tế kỳ đạo
Đức vương : Đức Vương
Chúa oũ : Chúa Ông ( tức TrịnhTráng)
Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành : ChúaTung (Trịnh Vân; Tung Quận Công)
Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng QuậnCông)
Chúa Quỳnh ( Trịnh Lệ; Quỳnhquận công)
Chúa cả : Chúa cả (Trịnh Tạc,vào thời nầy Đàng Ngoài có 5 chúa là : Trịnh Tráng, TrịnhTạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa cóquyền hành mà thôi)
Thanh đô vương : Thanh Đô Vương
Chúa triết : Chúa Triết (TrịnhTùng)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (Thăng Long)
yêu nhău : yêu nhau
oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu(con rễ Trịnh Tráng)
Đàng Ngoằy : Đàng Ngoài
Quãng : Quảng
Tàm đàng : Tàm Đàng
Bên đoũ đa : Bên Đống Đa
tày : Tầy
lằng bôũ bàu : làng Bông Bầu
Cô bệt : Cô Bệt
Tri yếu : Tri yếu
kẻ hằii : kẻ hầu
ăn dương huyẹn : An Dương huyện
coũ thằn : công thành
Thíc ca : Thích Ca ( Phật)
Phổ lô xã : Phổ lô xã
Sãy uãy : Sải vải
Hộy ăn xả : Hội An xã
huyẹn uịnh lạy : huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật : Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên : Làng Kẻ TranhXuyên
Kẻ trãng : Kẻ Trang
Sấm phúc xả : Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả : Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc : Huyện BạchHạc
thầi phù thủi : Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc : Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm : Ông Phò mã Kiêm
bà : bà (?)
chúa bàng : chúa Bằng
thăn khê : Thanh Khê
hàng bè : hàng Bè
hàng bút : hàng Bút
cữa nam : cửa Nam
kẻ ăn lẵng : kẻ An lãng
hàng nấm : hàng nắm
đinh hàng : Đinh hàng
càii iền : Cầu Yên
hàng thuõc : hàng thuốc
oũ đô đốc hạ : Ông Đô ĐốcHạ
Oũ phũ mã nhăm : Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương : Ông chưởngHương
Thầi : Thầy
đức oũ hồe : Đức ông Huề
thuyèn thũỉ : thuyền thủy
Quãng liẹt xã : Quãng liệt xã
giỗ : giỗ
chặp : chạp
mă : ma
kẽ uạc : kẻ Vạc
cỗ : cỗ
oũ chưỡng quế : ông chưởng Quế
tình : tình
nhũộn : nhuận
tháng : tháng
cốt bõý : cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn : kẻ Lâm,huyện Tống Sơn
Nghệ an : Nghệ An
Bố chính : Bố chính
thuặn hốe : Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon : huyện Nghi Xuân
huyẹn Thinh Chương : huyện ThanhChương
làng cầii : làng Cầu
nhà nga : nhà nga
đậii xá : đậu xá
vàng may : Vàng May
đức bà sang phú : đức bà sangphú
oũ bà phủ : ông bà phủ
kẽ mộc : kẻ Mộc
kẽ bàng : kẻ Bàng
an nam : An Nam

Tài liệu thứ hai cũng soạn bằngBồ văn tại kẻ Chợ ngày 25-3-1637, có nhan đề: " Relacam dosCatequista da Christamdade de Tumk e seu modo de proceder pera o Pe ManoelDias, Vissitador de Jappão e China " (Tường thuật về các Thầygiảng của giáo đoàn Đàng Ngoài và về cách thức tiến hànhcủa họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa),tài liệu nầy hiện lưu trử tại Văn Khố Hàn Lâm Viện SửHọc Hoàng Gia Madrid Bồ Đào Nha. Gồm có một số phiên âmsau đây :

Sãy : Sãi
đức : đức
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô
thầy : thầy
định : định
nhin : Nhơn (tên)
Nghệ an : Nghệ an
lạy : lạy
tri : Tri (tên)
bùi : Bùi (tên)
Quang : Quảng (tên)
tháng : Thắng (tên)
Coũ thàn : Công Thành
Sướng : Sướng (tên)
đàng ngoài : Đàng Ngoài
già : Già (tên)
Vó : Vó (tên)
nân : Nân (tên)
lồ : Lồ (tên)
đôủ thành : Đông thành (tên)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (tên)

Trong hai tài liệu nầy, tài liệuthứ nhất có gần 400 chữ phiên âm, chưa được thống nhấtcách dùng mẫu tự ghi âm. Ví dụ :

Âm a ghi ă (Hội ăn xã) hay ghi a(Nghệ an)
Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hayũ (oũ phũ mả kiêm)
Có một số âm, phụ âm, dấu giọngkhông như ngày nay :
Các âm â ghi ă (hàng nấm)
----------- ê - e (huyẹn, hién)
----------- y - i (thầi)
----------- o - õ (bõy)
--------- âu - ăii (hầu)

Các phụ âm : ng ghi ũ (oũ)
----------------- ch - yc (bạyc)

Các dấu giọng : ? ghi ~ (cữa nam,phũ)
------------------- ~ - ? (Sấm phúxả, Nghỹa ăn xả)

Tuy nhiên Gasparo d'Amiral cũng ghi đượccác âm như ngày nay :

a (nghệ an ) ă (hàng nắm) â (thầi)
ê ( nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương,vương)

Có đủ dấu giọng:

không dấu (nam, đô)
� (Thíc ca)
` (thầi phù thũi)
? (chúa cả)
~ (giỗ)
. (vĩnh tộ)

Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm,một số chữ viết ngày nay giống y như vậy: đức, chúa thanhđô, thầy, Nghệ an, lạy, định ... Do đó chúng ta thấy Gasparod'Amiral ghi âm tiến bộ hơn các giáo sĩ khác, đó cũng làđiều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz hay GasparLuis viết từ năm 1621, đến tài liệu thứ nhất của Gasparod'Amiral có khoảng cách biệt trên 10 năm.

b.- Sự đónggóp của Linh mục Đắc Lộ.

Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes),người được Pháp đề cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ,mang lại sự khai hóa cho dân tộc Việt Nam, với chiêu bàinầy để che đậy hành động thực dân, xâm chiếm lãnh thổvà cai trị hà khắc dân tộc chúng ta. Để hiểu rõ vấn đềnầy, chúng ta cần lướt qua tiểu sử và hành trình truyềngiáo của Đắc Lộ.

Đắc Lộ sinh ngày 15-3-1591 tạiComtat Venaissin, tỉnh Avignon, miền Nam nước Pháp, tổ tiênông gốc Do Thái. Tổ phụ của ông đã di cư từ Tây Ban Nhasang Avignon vào giữa thế kỷ XVI, thân sinh ông là Benadin IIde Rhodes, được liệt vào hàng thân hào, nhân sĩ trong vùng.

Đắc Lộ gia nhập Dòng Tên ở LaMã ngày 14-4-1612, học tập chuyên về thần học và toán họctại học viện Saint André du Quirinal, thụ phong linh mục tạiLa Mã năm 1618. Cũng trong năm nầy, ông được phép sang ĐôngNam Á truyền giáo, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha,rồi từ đây đáp tàu đi Áo Môn ngày 04-4-1619, vì có ghéqua Goa (Ấn Độ) nên ông đến Áo Môn ngày 29-5-1623, ông đặtchân lên Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1624 tạiĐà Nẳng, cùng với các linh mục Gabriel de Mattos và một giáosĩ Nhật.

Đắc Lộ đến cơ sở truyền giáoThanh Chiêm thuộc Quảng Nam Dinh, nơi đây có Linh mục Franciscode Pina (sinh năm 1585 tại Bồ Đào Nha, đến Đàng Trong năm1617 và chết đuối ở Quảng Nam năm 1625) và Antonio de Fontes(đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624), tại đây Đắc Lộ họctiếng Việt với Francisco de Pina, tháng 7 năm 1626 ông rời ĐàngTrong về Áo Môn, ngày 19-3-1627, ông cùng với Linh mục PierreMarquez đến của Bang ( Thanh Hóa), ở đây, hai ông có yếtkiến Trịnh Tráng, rồi sau đó theo chúa Trịnh ra Thăng Long,thời gian nầy hai Linh mục lập giáo đoàn Đàng Ngoài, tháng5 năm 1630, chúa Trịnh cấm đạo, trục xuất các giáo sĩ,Đắc Lộ trở về Áo Môn.

Từ năm 1630 đến năm 1640, ĐắcLộ dạy thần học ở học viện thần học Áo Môn. năm 1640,ông được cử đến Đàng Trong làm Bề Trên, thay thế Linhmục Buzomi vừa từ trần tại Quảng Nam Dinh, ông ở đây chođến ngày 3-7-1645, bị bắt buộc phải rời cơ sở truyềngiáo Thanh Chiêm, theo lệnh của quan Cai bộ áp dụng án trụcxuất các giáo sĩ của chúa Nguyễn. Kể từ đó, ông rờihẳn nước Việt Nam, trở lại Áo Môn ông dạy tiếng Việtở Học viện Thần Học, ngày 20-12 năm 1645 ông đáp tàu từÁo Môn đi Âu Châu, nhằm mục đích vận động thành lậphàng giáo phẩm Việt Nam.

Ngày 16-11-1654,Toà thánh La Mã cửĐắc Lộ làm Bề Trên của phái đoàn truyền giáo ở Ba Tư.Đầu tháng 11-1655, ông đáp tàu từ Marseille đi Ispaham thủđô Ba Tư, và tại đây ông đã trút hơi thở cuối cùng vàongày 5 tháng 11 năm 1660.

Giai đoạn trước, giáo sĩ ĐắcLộ có để lại 3 tài liệu về chữ Quốc Ngữ vào năm 1625và 1631 đã dẫn ở trên và giai đoạn sau nầy, ông cũng đểlại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647.

Tài liệu năm 1634, viết tay có nhanđề: " Tunchinenois Historiae libri duo quorum altero status temporalishujus Regni, altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur.Coeptae per Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636 " ( Lịchsử Đàng Ngoài và những bước tiến triển lớn lao mà phúcâm rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa lương dân,từ năm 1627 đến năm 1636) Bản nầy ghi bằng La văn gồm 2quyển, lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã.

Các chữ phiên âm trong quyển một.

Tung : Đông
kin : kinh
Annam : An Nam
Ai nam : Hải Nam
Chúacanh : Chúa Canh
Che ce : kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng : Chúa Bàng (đúng ra làBình; Bình An Vương Trịnh Tùng)
Chúa õu : Chúa ông
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô (Thanh Đô Vương Trịnh Tráng)
uuan : vương
min : minh
bát min : bất minh
thuam : thuận
uan : văn
uu : vũ
gna ti : nhà ti
gna hien : nhà hiến
Cai phu : cai phủ
Cai huyen : cai huyện
Bua ; vua
den : đền
sin do : sinh đồ
huan cong : hương cống
tin si : tiến sĩ
tam iau : tam giáo
dạu nhu : đạo nhu (nho)
dạu thíc ; đạo thích
Thicca, Thic ca, Thiccả : Thích ca
Sai : Sãi
sai ca : Sãi cả
lautu : Lão tử
Giô : giỗ
Cu hồn : Cô hồn
ba hon : ba hồn
Chin via : Chín vía
dum : Đồng (tên)

Các chữ phiên âm trong quyển hai

Cửa bang : Cửa Bạng (Thanh Hóa)
Phạt : Phật
bụt : Bụt
dang : Đàng
ciiia oũ : chúa ông
ciiia ban uuan : chúa Bằng vương
ciii sai : chúa Sãi
ciii canh : chúa canh
thinh hoa : Thanh Hóa
thai : thầy
sai vai : Sãi Vãi
Che vich : kẻ vích (cửa Vích, cửasông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no : Kẻ Nộ
Gne an : Nghệ An
bochin : bố chính
Rum : Rum
kiemthuong : Kiêm Thượng
Phuchen : Phục chân
cà : Cà
cã : cả
cá : cá
tlẽ : trẻ
tle : tre

Tài liệu năm 1644, Đắc Lộ viếtbằng Bồ văn tại Thanh Chiêm, nhan đề: " Relacão do gloriosoMartirio de Andre Cathequista Protomartir de Cochinchiana alanceado, edegolado em Cachão no 26 de Julho de 1644 Tendo de Idade dezanove annos" ( Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của Thầy giảngAn-Rê, vị tử đạo tiên khởi ở Đàng Trong, đã bị đâmchém tại kẻ Chàm ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi), tàiliệu nầy có những chữ phiên âm và câu phiên âm :

Ounghebo, Oũnghebo : Ông Nghè Bộ

Giũ nghĩa cũ d chúa Jesu cho den hethoy, cho den blon doy : Giữ nghĩ cùng đức chúa Jesu cho đếnhết hơi, cho đến trọn đời.

Tài liệu năm 1647, Đắc Lộ viếtbằng La văn tại Macassar ngày 4-6-1647 có nhan đề : " AlexandreRhodes è Societate jesu terra marique decẽ annorũ Itinerarium " ( Cuộchành trình mười năm trên bộ, dưới biển của Đắc Lộthuộc Dòng Tên), tài liệu nầy có các phiên âm như sau:

Ciam : Chàm
Ranran : Ran ran
Ké han : Kẻ Hàn
On ghe bo : Ông nghè Bộ
ke cham : kẻ Chàm
halam : Hà Lan
Cai tlam, Caitlam : Cát Lâm
ben da : Bến đá
Qui nhin : Qui Nhơn
Nam binh : Nam Bình
Bao bom : Bầu vom
Quan Ghia : Quảng Nghĩa
Nuoc man : Nước Mặn
bau beo : Bầu Bèo (?)
liem cum ; Liêm công
Quanghia : Quảng Nghĩa
Baubom : Bầu Vom
bochinh : Bố chính
Oũ ghe bo : Ông nghè Bộ

Sau khi đối chiếu tiểu sử củaGasparo d'Amiral và Đắc Lộ cùng các tài liệu phiên âm nhưtrên, chúng ta có nhận định sau :

1) Linh mục Gasparo d'Amiral phiên âmcó tự dạng gần với chữ Việt chúng ta viết ngày nay, hơnlà các phiên âm của Đắc Lộ, thử so sánh :

Tài liệu Gasparo d'Amiral 1632 : Tàiliệu Đắc Lộ 1636

----------------- Thanh đô vương --------thanh đô
----------------- Nhà ti ---------------------gna ti
----------------- Nhà hién -----------------gna hien
----------------- Nghệ ăn, nghệ an------ Gne an
----------------- Bố chính -----------------bochin

2) Gasparo d'Amiral phân biệt đượcmột số dấu giọng như đã vạch ra ở phần trước, trongkhi Đắc Lộ lại ít dùng dấu giọng.

3) Ngay trong cách phiên âm của ĐắcLộ, tài liệu sau phiên âm kém hơn tài liệu trước. Tráilại, Gasparo d'Amiral phiên âm tài liệu năm 1637 khá hơn tàiliệu năm 1632.

Năm 1632, bảng tường trình củaGasparo d'Amiral gửi cho Linh mục André Palmeiro, giám sát cáctỉnh Nhật, trung Hoa lúc đó Đắc Lộ cũng ở tại Áo Môn(1630-1640), là người tha thiết với các giáo đoàn truyềngiáo tại Việt Nam, chắc chắn Đắc Lộ có xem qua bảng tườngtrình nầy.

Từ năm 1638-1645 Gasparo d'Amiral ởtại Áo Môn, như vậy họ đã có thời gian ở bên nhau 2 năm1638-1640, rồi tháng 7 năm 1645 đến 20-12-1645 Đắc Lộ từViệt Nam trở lại Viện Thần Học Áo Môn, phụ trách dạytiếng Việt, còn Gasparo d'Amiral đã soạn quyển Tự vựng ViệtLa, như vậy cả hai có thêm thời gian ở bên cạnh nhau, lạicùng hoạt động chung bộ môn tiếng Việt, điều đó cho tathấy chắc chắn Đắc Lộ có chịu ảnh hưởng của Gasparod'Amiral về lãnh vực tiếng Việt.

Tài liệu Đắc Lộ viết năm 1647tại Macassar, chứng tỏ rằng sau khi ông rời Việt Nam ngày20-12-1645, ông vẫn chưa có được một hệ thống phiên âmvững chắc và gần gủi với chữ Quốc ngữ ngày nay.

c.- Sự đónggóp của Linh mục Antonio Barbosa

Antonio sanh năm 1594 tại ville de Arrifanade Sonza, Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên vào ngày 13-3-1624. Năm1629, ông được cử đến truyền giáo ở Đàng Trong và đếntháng 4 năm 1636, ông có đến Đàng Ngoài truyền giáo. Cho đếntháng 5 năm 1642, vì lý do sức khỏe, ông phải trở về ÁoMôn tịnh dưỡng. Cũng do tình trạng sức khỏe không tốtnên sau một thời gian tịnh dưỡng, ông rời Áo Môn đi Goavà ông đã từ trần trên đường đến Goa năm 1647.

Mặc dù ngày nay Antonio không cóđể lại tài liệu Quốc ngữ nào, nhưng Đắc Lộ đã chobiết : " Tôi lợi dụng công việc của các giáo sĩ kháccũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d'Amiral và AntonioBarbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tựđiển. Ông Gasparo d'Amiral làm cuốn Annamiticum - Lusitanium; ôngAntonia Barbosa làm cuốn Lusitanum - Annamiticum. Nhưng tiếc rằngcả hai ông đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc củacả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếngLa tinh, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng Latinh theo lệnh của các đức hồng y." (4 )

d.- Sự đónggóp của người Việt

Dù sao, khởi thủy chữ Quốc ngữhình thành cũng nằm trong mục đích chánh là phương tiệntruyền giáo cho các giáo sĩ thuộc Dòng Tên ở Việt Nam. Bêncạnh các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam thời đó không nhiềuthì ít cũng có đóng góp trong lúc hai linh mục Gasparo và Antoniosoạn hai quyển tự điển của họ, điều đó tuy không cóchứng cứ, nhưng theo suy luận hợp lý, cho phép chúng ta tinnhư vậy.

Ngoài ra trong thời kỳ nầy còncó tài liệu của 14 giáo dân Việt Nam ghi bằng chữ Quốcngữ, về việc họ xác nhận tán đồng ý nghĩa mô thức rửatội, do 31 linh mục Dòng Tên thảo luận ở Viện Thần Họctại Áo Môn năm 1645

Tài liệu nầy là một bản La văndo các linh mục Dòng Tên soạn, để trả lời cho Linh mụcSebastião de Jonaya, nhan đề: " Cirra formam Baptismi Annamico Idiomateprolatam' ( Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam).Phần chữ Quốc ngữ của 14 giáo dân Việt Nam ghi như sau:

" Nhin danh Cha uà con uà Su-phi-ri-to-sang-toí nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng ra ba danh ví bàng muốní làm một thì phải nói nhin nhít danh cha etc.- tôy là Giu ãocâi trâm cũ nghi bậi - tôy là An re Sen cũ nghi bậi - tôy làBen tò vẫn triền cũ nghi bậi - tôy là Phe ro uẫn nhit cũ nghibậi - tôy là An jo uẫn tãu cũ nghi bậi - tôy là Gi-ro-ni-mocũ nghi bậi - tôy là I-na sô cũ nghi bậi - tôy là tho-me cũnghi bậi - tôy là Gi-le cũ nghi bậi - tôy là lu-i-si cũ nghibậi - tôy là Phi-lip cũ nghi bậi - tôy là Do-minh cũ nghi bậi- tôy là An-ton cũ nghi bậi - tôy là Giu ão cũ nghi bậi " (nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to Sang-to Spirito Santo ý nầyAn nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốný làm mộy thì phải nói : nhân danh Cha vân vân. Tôi là Giuan Cai (?) Trâm cũng nghĩ vậy - Tôi là An rê Sen cũng nghĩ vậy- Tôi là Ben tô Văn Triều cũng nghĩ vậy - Tôi là Phê rô VănNhất cũng nghĩ vậy - Tôi là An gio Văn Tang cũng nghĩ vậy- Tôi là Gi-rô-i-mô cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi le cũng nghĩvậy - Tôi là lu-i-si cũng nghĩ vậy - Tôi là Phi líp cũng nghĩvậy - Tôi là Đô Minh cũng nghĩ vậy - Tôi là An ton cũng nghĩvậy - Tôi là Giu an cũng nghĩ vậy).

Như thế, chúng ta thấy rõ đâylà một bản văn Quốc ngữ của 14 người Việt Nam xác nhậnmô thức rửa tội năm 1645 của các linh mục Dòng Tên và đâylà tài liệu cho chúng ta thấy sự đóng góp của người ViệtNam trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

Qua so sánh, chúng ta có thể thấyrằng chữ Quốc ngữ năm 1645 chỉ giống chữ viết ngày naykhoảng 45%, và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ khởi đầutừ năm 1621 đến đây đã chấm dứt, để chuyển sang thờikỳ kế tiếp.

Tưởng cũng nên nhắc lại, từkhi khởi đầu phiên âm cho đến khi hình thành chữ Quốc ngữ,không phải là sự ngẫu nhiên, bởi vì giáo đoàn truyền giáoDòng Tên trước đó đã hoàn tất việc việc La tinh hóa chữNhật, để truyền giáo tại Nhật Bản. Nhật Bản cũng nhưViệt Nam ta, thuở đó mỗi nước đều có chữ Quốc ngữbiến chế từ chữ Hán, nước ta gọi là chữ NÔM, muốn biếtchữ Nôm, đòi hỏi người ta phải am tường chữ Hán, chữHán vốn đã khó học rồi thì chữ Nôm lại càng khó hơn,chính vì thế mà các linh mục đã La tinh hóa chữ viết củaNhật cũng như Việt Nam, để cho công việc truyền giáo củahọ được dễ dàng hơn.

*
II. Thời KỳXây Dựng

1. Khái Quát.

Theo tiến trình hình thành chữ Quốcngữ, cho đến khi quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinumcủa Alexandre de Rhodes được in tại La Mã năm 1651, chữ Quốcngữ đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn nầy bắt đầutừ công trình của hai Linh mục Antonio Barbosa và Gasparo d'Amiralkhi hai ông biên soạn Dictionarium Lusitanum - Annamaticum và Annamiticum- Lusitanum nhưng cả hai quyển nầy ngày nay chưa được khámphá.

Các nhà nghiên cứu cho rằng haiquyển tự điển vừa kể, có thể đã bị thất lạc do cáccuộc di chuyển văn khố Dòng Tên từ Áo Môn qua Manila khoảngnăm 1759-1760, và sau đó nhà cầm quyền Tây Ban Nha tịch thucác tài liệu ở văn khố Dòng Tên tại Manila vào khoảng năm1770 đem về Madrid, nên ngày nay không tìm thấy vết tích 2quyển tự điển nầy ở Áo Môn, Manila và ở Madrid cũng khôngtìm thấy chúng.

Linh mục Thanh Lãng có cho biết tạiTòa Thánh La Mã hiện có 2 cuốn tự điển do Linh mục PhilipphéBỉnh sao lục, không đề tên tác giả, đó là quyển : DictionariumAnnamiticum - Lusitanum ký hiệu Borg Touch 23 dầy 288 trang và DictionariumLusitanum - Annamiticum ký hiệu Touch 23 dầy 324 trang.

Philipphé Rosario Bỉnh sanh tại HảiDương năm 1759, vào chủng viện năm 1775. Được phong ThầyCả sau khi mãn khóa học.

Ngày 20-6-1796, ông đến Lisbonne thủđô Bồ Đào Nha, tại đây ông theo dõi tình hình giáo hộivà sáng tác gồm 23 tác phẩm gồm Bồ văn, La Tinh, Nôm vàQuốc ngữ, trong số ấy có tác phẩm " Truyện An-nam Đàngngoài chí Đàng trão ". Ông mất tại Lisbonne năm 1832.

Căn cứ vào công trình của PhilipphéBỉnh, vào những điều của Linh mục Thanh Lãng cho biết, chúngta có thể đi đến kết luận là quyển Dictionarium Annamiticum- Lusitanum của Gasparo d'Amiral và Dictionarium Lusitanium - Annamiticumcủa Antonio Barbosa đều có ở tại Lisbonne nơi mà PhilipphéBỉnh đã ở và làm việc, nên ông đã sao chép lại quyểntự điển, nó cũng chứng tỏ rằng Linh mục Đắc Lộ đãmang 2 quyển sách trên từ Áo Môn về Âu châu, có lẽ trướctiên ông định in 2 quyển tự điển nầy, về sau ông đãdựa vào đó soạn và in ra quyển Dictionarium Annamiticum Lusitanumet Latinum, nên 2 quyển tự điển kia không cần thiết phảiin nữa.

Chọn năm 1651 là năm đánh dấusự hoàn tất công trình điển chế chữ Quốc ngữ, nhằmmục đích làm phương tiện truyền giáo của các giáo sĩ TâyPhương, bởi vì chẳng những quyển tự điển Dictionarium AnnamiticumLusitinum et Latinum được in mà còn có quyển " Cathéchismus "(Phép giảng tám ngày), cũng được in trong năm nầy.

2. Thời kỳsoạn thảo quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - LaTinh

Cho đến nay, chưa có tài liệu nàocông bố thời gian và địa điểm Đắc Lộ đã soạn quyểnDictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum. Theo đoạn văn tríchdịch ở trên, chúng ta biết rằng Đắc Lộ soạn quyển tựđiển nầy dựa vào công trình hai quyển tự điển của Gasparod'Amiral và Antonio Barbosa.

Nhưng công trình của 2 linh mụcnầy không được in ra, chưa tìm thấy bản gốc, cũng chưatìm thấy tài liệu nào cho biết thời gian biên soạn hay hoàntất của chúng, để từ đó có thể giúp chúng ta xác địnhthời gian Linh mục Đắc Lộ soạn quyển tự điển của ông.Đặt ra vấn đề nầy để xác nhận thời điểm, trong nhữnggiai đoạn của tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.

Theo vết chân của Đắc Lộ, chúngta biết ông có thể soạn quyển tự điển, trong khoảng năm1630-1640 là thời gian ông dạy thần học ở Học viện thầnhọc tại Áo Môn. Nhưng mà thời gian nầy không chắc Linh mụcAntonio Barbosa đã soạn xong quyển Tự điển Bồ Đào Nha -An Nam, vì thời gian 1620-1642 ông đang truyền giáo Đàng Trongrồi Đàng Ngoài, thời gian nầy Linh mục Antonio học hỏi tiếngViệt, và từ năm 1642 đến năm 1647 ông có ở Áo Môn đểdưỡng bệnh, có lẽ thời gian nầy Linh mục Antonio đã biênsoạn và hoàn tất quyển tự điển của mình trước tháng12 năm 1645.

Còn Linh mục Gasparo d'Amiral sau thờigian ở Đàng Ngoài 7 năm, từ năm 1638-1645 ông ở tại Áo Môngiữ chức Viện trưởng Viện thần học kiêm Phó Giám TỉnhNhật và Trung Hoa, chắc chắn thời gian nầy ông đã phốihợp với Linh mục Antonio Barbosa để biên soạn và hoàn tấtquyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha.

Tóm lại các quyển tự điển AnNam Bồ Đào Nha và Bồ Đào Nha An Nam được soạn trong khoảng1638-1645. Vì năm 1645, Linh mục Gasparo bị đắm tàu chết đuốivà trước đó ít hôm, Linh mục Đắc Lộ đã rời Áo Môntrở về Âu Châu, chúng ta lại biết thêm rằng, thời giantừ 3-7-1645 đến 20-12-1645 là thời gian cả 3 linh mục ĐắcLộ, Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa đều có mặt tại ThầnHọc Viện ở Áo Môn, chắc chắn họ đã có quyết địnhgiao cho Đắc Lộ mang 2 quyển tự điển của họ về nhà incủa Bộ Truyền giáo ở La Mã để in, cho nên ngày nay bảngốc 2 quyển tự điển trên không tìm thấy ở Áo Môn, Maniliahay Tây Ban Nha.

Linh mục Đắc Lộ rời Áo Môn ngày20-12-1645, và đến La Mã ngày 27-6-1649, có lẽ thời gian nầyông bắt đầu soạn quyển Tự điển An Nam - Bồ Đào Nha -La Tinh, nhằm mục đích để cho các Linh mục truyền giáo ởViệt Nam được dễ dàng hơn. Ý ấy đã được các Hồngy chấp thuận như ông đã ghi ở bài tựa quyển Tự điển.

Vậy thời điểm Đắc Lộ soạnquyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum là khoảng năm1645- 1649, và ngày 5-2-1651 quyển nầy được Linh mục F. PiccolomineusBề Trên Cả Dòng Tên cho phép xuất bản. Và sau đó quyểnCathéchismus được soạn trong khoảng năm 1649 - 1651, cuốn nầyđược Linh mục L. M. Gosswinus Nickel quyền Bề Trên Cả chophép xuất bản ngày 8-7-1651, nó đóng vai trò quan trọng trongcông cuộc truyền giáo, nên trong phiên họp các Hồng Y vàgiáo chủ ngày 2-10-1651 đã quyết định ra lệnh cho nhà incủa Bộ Truyền giáo ngưng in các ấn phẩm khác, để nhanhchóng in cho xong quyển Cathéchismus.

3. Nội DungQuyển Dictionarium Annamaticum et Latinum

Quyển sách nầy trừ lời tựa,nó được chia thành ba phần chính:

a. Phần I. LinguaeAnnamaticae seu Tunchinensis brevis declaratio ( tức là phầnNgữ Pháp Việt Nam được soạn bằng La văn gồm 31 trang, chiathành 8 chương:

Chương I .- De literis et syllabis quibushase lingue constat (chữ và vần trong tiếng Việt)
Chương II.- De Accentibus et aliis signisin vocalibus dấu nhấn và các dấu)
Chương III.- De Nominibus (Danh từ)
Chương IV.- De Pronominibus (Đạidanh từ)
Chương V.- De Aliis Pronominibus (cácĐại danh từ khác)
Chương VI.- De Verbis (Dộng từ)
Chương VII.- De Reliquis oratiomis indeclinabilibus(những phần bất biến)
Chương Chót.- Pracepta quacdam ad syntaximpertinentia (cú pháp)

b. Phần II.Dictionarium Annamiticum seu Tunchinense cum lusiatna, et latina declaratione.

Phần nầy không đánh số trang,chỉ đánh số cột, mỗi trang chia làm 2 cột, có tất cả900 cột, nhưng từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường đểmột vài trang giấy trắng. Chúng ta cũng nên chú ý, mẫu tựb (phụ âm v ngày nay, vì có tự dạng gần giống như mẫutự b, nên được xếp tiếp sau mẫu tự b)

Mỗi chữ Việt được giải nghĩatheo thứ tự chữ Bồ rồi mới đến chữ La tinh.

c. Phần III.Index Latini sermonis.
Phần nầy mỗi trang chia làm 2 cột,không có ghi số trang và số cột, nhưng có tất cả 350 cột,tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữLa tinh, bên cạnh mỗi chữ có ghi số cột của chữ La tinhấy ở Phần II. Như vậy người biết chữ La tinh sẽ tra cứuđược chữ Việt tương ứng.

Sau khi biết khái quát về quyểntự điển nầy, chúng ta có những nhận định sau đây :

* Công trình điển chế Việt ngữcủa Đắc Lộ chẳng những đã hệ thống hóa phương phápghi âm ngôn ngữ Việt Nam mà còn là một tác phẩm căn bản,để từ đó Việt ngữ được hợp lý hóa các âm thể nhưngày nay.

* Dù sao thì công trình của ĐắcLộ cũng chỉ nhằm giúp những người biết chữ La tinh hayBồ Đào Nha học Việt ngữ, Đắc Lộ không có công trìnhnào nhằm vào sự phổ biến chữ Quốc ngữ nầy cho ngườiViệt, cũng vì thế mà từ 1651 đến 1866, hơn 2 thế kỷ chữQuốc ngữ chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ và mộtít giáo dân mà thôi.

* Cho đến khi quyển " ChuyệnĐời Xưa " của Trương Vĩnh Ký ra đời năm 1866, vẫn cònghi ở lời Tựa "... cùng là có ý cho người ngoại quốcmuốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen. " Điềunầy đủ chứng tỏ chữ Quốc ngữ trước đó, có mục đíchgiúp cho người ngoại quốc học tiếng Việt.

* Ngày nay một số tự điển nhằmmục đích giảng giải, phần đầu của tự điển có phầntóm lược ngữ pháp, chẳng hạn như quyển Anh Việt, ViệtAnh Tiêu Chuẩn Tự Điển của Lê Bá Kông, sự trình bày cũnggiống như hình thức trình bày ở phần đầu quyển Tự điểnViệt - Bồ - La của Đắc Lộ.

4. Các Tác PhẩmTiêu Biểu Khác.

a. Quyển Cathéchismus

Ngay trong năm 1651, Quyển Cathéchismus( Phép Giảng Tám Ngày) là một bản văn chữ Quốc ngữ xưanhất còn lại ngày nay, nó cũng là bản văn được nhiềungười biết đến, đấy là công trình của Đắc Lộ, tuychỉ nhằm mục đích truyền giáo, nhưng ngày nay nó đã trởthành một chứng liệu quý giá để xác định một bản vănhoàn toàn dùng Quốc ngữ.

Cathéchismus là một quyển sách giáolý, viết cho người giảng dạy giáo lý dùng để truyền giáo.Mỗi trang sách chia làm 2 cột, cột bên trái là chữ la tinhvà cột bên phải là chữ Quốc ngữ. Sách có 319 trang, khôngcó lời tựa.

Sách không chia từng chương, màchia thành ngày học, gồm có 8 ngày, cho nên còn được gọitên là " Phép giảng tám ngày " , phân chia như sau :

- Ngày thứ nhất : Đạo thánh đứcChúa Trời.
- Ngày thứ hai : Đức Chúa Trời.
- Ngày thứ ba : Đức thợ cả
- Ngày thứ tư : Những đạo vạy
- Ngày thứ năm : Một đức chúaTrời ba ngôi - Đức chúa Trời ra đời cứu thế.
- Ngày thứ sáu : Thầy thuốc cả.
- Ngày thứ bảy : Con chiên lành.
- Ngày thứ tám : Một bậc thanglên Thiên đàng.

Sách không chia ra các tiểu mục,trong khi sao lục để tái bản, André Marillier dựa vào nguyêntắc để chia ra các tiểu mục. Chẳng hạn như Ngày thứ tư: Những đạo vạy :

* Con cháu ông Adam.
* Ông Noe và lụt cả
* Tháp Babel
* Nước đại minh phân ra nhiềuđạo vạy
* Đạo bụt : giáo ngoài và giáotrong
* Đạo lão
* Đạo Nho : Việc thờ ông Khổng.
* Những sự dối trá của ThíchCa về linh hồn ta
* Những điều lầm lỗi trong việcthờ cúng cha mẹ
* Linh hồn ta chẳng hay chết.

Quyển Cathéchismus là một quyểnsách Quốc ngữ được in đầu tiên vào năm 1651, nó mở đầucho công cuộc truyền bá giáo lý Thiên chúa giáo bằng sáchQuốc ngữ tại Việt Nam.

b. Các Tài LiệuViết Tay

Ngày nay tại văn khố Dòng Tên ởLa Mã còn có 2 tài liệu viết tay của 2 người Việt, đólà Igesico Văn Tín và Bento Thiện.

Tài liệu của Igesico Văn Tín làmột lá thư viết ngày 12-9-1659, không đề nơi chốn gửi,mà cũng không ghi tên người nhận, nhưng do những chi tiếttrong thư, người ta hiểu được là Văn Tín viết tại kẻVó, gửi cho Linh mục Marini lúc đó dang ở La mã. Nội dungthư, đại ý nói về các hoạt động truyền giáo tại kẻVó ( Đàng Ngoài), sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa Trịnhtrục xuất khỏi Đàng Ngoài, và bày tỏ lòng thành kính đốivới Linh mục Marini( 5 )

Còn tài liệu của Bento Thiện gồmcó một bức thư viết tay, viết năm 1659 và một tập tàiliệu. Cả hai đều lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã.Về bức thư, tuy không có ghi ngày, nhưng mở đầu bức thư,ông có ghi ngày viết là ngày lễ Daria tức là 25 tháng 10.

Ở hàng trên cùng hay dòng thứ nhấtcủa bức thư nầy, có ghi dòng chữ Bồ " Ao Pe Philipe Marino" ( Gửi cho cha Philipe Marino - Marini), dòng thứ hai ghi bằngchữ La Tinh " Pax Christi " ( Bằng an chúa Ky-tô), từ dòng thứba trở đi là chữ Quốc ngữ.( 6)

Nội dung bức thư nầy, ông nóivề tình hình truyền giáo tại Đàng Ngoài, cùng những lờica ngợi của chính Bento Thiện cũng như của những giáo dânđã nhờ ông chuyển lời thăm hỏi đến Linh mục Marini.

Ngoài ra Bento Thiện cũng có đềcập tới việc Marini nhờ ông viết một số tài liệu vềViệt Nam, ông cho biết đã làm xong " hai vở " (7 ), và gửi nơi Linh mục Onofre để nhờ chuyển tớicho Marini.

Còn về tập tài liệu (hai vở)(8 ), nó gồm có 2 phần, phần trước gồm có : Lịchsử Việt Nam từ khởi thủy cho đến Trịnh Nguyễn phân tranh,tuy tóm lược nhưng cũng khá đầy đủ, phần nầy gồm có6 trang khổ 20 x 29 cm. Phần sau cũng gồm có 6 trang cùng khổgiấy, nội dung gồm có : Ghi chép phong tục, tổ chức quanlại, thi cử, tổ chức hành chánh, kể ra các xứ, phủ, huyện,châu, động, xã, thôn ở Đàng Ngoài và phần cuối cùng làtín ngưỡng.

Những tài liệu nầy có chụp hìnhvà in lại trong quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659 củaLinh mục Đỗ Quang Chính, nói chung thì chữ Quốc ngữ viếtvào thời kỳ nầy rất khó đọc, chỉ có chừng 50% là cótự dạng giống như ngày nay.

Qua những lời lẽ viết trong thưcủa Văn Tín và Bento Thiện cho chúng ta thấy rằng, sự diễnđạt bằng Quốc ngữ thời ấy không được suông sẻ, dữkiện nầy không thể kết luận rằng trình độ văn hóa củangười viết kém, vì Bento Thiện đã viết được lịch sửViệt Nam ... chẳng qua chữ Quốc ngữ chưa được phổ biến,chưa có quy củ để có thể diễn đạt tư tưởng dễ dàng,trong sáng, cho nên câu văn kém văn hoa.

5. Thời kỳcủa Pièrre Joseph Georges Pigneau de Béhaine và J. L. Tabert.

a. Pierre JosephGeorges Pigneau de Béhaine (1741-1799)

Ông là Giám mục d'Adran, ngườiPháp thuộc dòng Thừa sai, trong thời gian ở chủng viện Virampatmangần Pondichéry (Ấn Độ), ông có nghiên cứu về Khổng Mạnhvà có soạn bộ tự vị Việt - La tinh (Dictionarium Annamatica- Latinum). Bản sao ghi năm 1772, còn lưu trử tại văn khố củahội Thừa sai Paris. Sách chưa kịp in ra thì ông mất.

b. J. L. Tabert(1794-1840).

Giám mục Tabert cũng thuộc dòngThừa sai, ông có ở Sàigòn và soạn hai quyển tự vị : DictionariumAnnamatico - Latinum và Dictionarium Latino - Annamaticum, theo các nhànghiên cứu như Adrien Launay, Linh mục Lepold Cadière đều chorằng Tabert đã dựa vào công trình của d'Adran để soạn thảo.Quyển Dictionarium Annamatico - Latinum (Nam Việt Dương Hiệp TựVựng) được ấn hành do nhà Serampore, Extypis J. C. Marshman năm1838.

Đến thời kỳ nầy các phụ âmđầu bl (blõ : trở), ml (mlòy: lời), tl (tlẽi : trẩy) vậncản /~/ (oũ : ông) đều được cải tiến như tự dạng ngàynay.

Nói chung đến thời kỳ nầy, chữQuốc ngữ đã hoàn bị, hay nói khác hơn là chữ Quốc ngữtrong quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng của Linh mục Tabertvà chữ Quốc ngữ ngày nay không mấy khác biệt, và chữ Quốcngữ cũng chỉ là phương tiện truyền giáo, cũng giống nhưtình trạng trước kia, nó chỉ được phổ biến giữa cácgiáo sĩ truyền giáo ở Việt Nam và một số rất ít giáodân người Việt.

Phải đợi đến năm 1866, năm quyển"Chuyện Đời Xưa " của Trương Vĩnh Ký ra đời, chữ Quốcngữ mới được phổ biến với mục đích truyền bá cho ngườiViệt, và phải đợi đến năm 1882, nhà cầm quyền Pháp banhành Nghị định, bó buộc các viên chức hành chánh xã thôntrong khắp cõi Nam Kỳ, phải thông hiểu chữ Quốc ngữ, nóđánh dấu thời điểm chữ Quốc ngữ được sử dụng chínhthức tại miền Nam. Như vậy, từ khi manh nha cho đến khi đượcdùng làm văn tự chính thức trên vùng đất thuộc địa củaPháp, chữ Quốc Ngữ phải trải qua một thời gian trên haithế kỷ rưỡi để hoàn thiện cấu trúc tự dạng.

C. Kết Luận

Do các Linh mục dùng chữ Quốc ngữ,để truyền bá đạo Thiên chúa, thực dân Pháp sử dụng chữQuốc ngữ thành công cụ cai trị. Người miền Nam sống trêndải đất Nam Kỳ tuy mới thành lập, nhưng họ cũng đã chịunhiều ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại cócá tính hào hùng, cho nên những người yêu nước, ngườibình dân chống lại việc học chữ Quốc ngữ nầy, tinh thầnấy được ghi lại trong Ca dao:

Khuyên anh về học lấy chữ Nhu,(9 )
Chín trăng em đợi, mười thuem chờ.

Biết được tiến trình hình thànhcủa chữ Quốc ngữ, chúng ta mới hiểu rằng không phải chỉcó Linh mục Đắc Lộ, là người có công sáng chế ra chữQuốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồmcác giáo sĩ Tây phương vàngười Việt Nam.

Phải đợi đến những nhà văntiền phong như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh TịnhCủa, sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữQuốc ngữ, trong đó Huình Tịnh Của soạn quyển Đại NamQuốc Âm Tự Vị, in năm 1896. Họ đã là những nhà văn lớn,gây thành những phong trào tiên phong sau nầy về các địahạt: báo chí, dịch truyện tàu, viết tiểu thuyết và ngaycả phong trào thơ mới cũng bắt đầu từ miền đất Nam Kỳnầy.

*

(1). ChữNôm là mượn âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt.

(2). ChristoforaBorri đến Đàng Trong năm 1618, ông theo Linh mục Buzomi và Pinađến lập cơ sở ở Nước Mặn, ông rời Đàng Trong năm 1621về Áo Môn, rồi sau đó về Âu Châu.

(3). Borri,Relation della nuova missione delli PP. della Compania di Giesu, al regnodella Cocincina, scritta dal Padre Christoforo Borri, Milanese della medesimaCompania, Roma, 1631 ( Sự liên hệ về giáo đoàn mới của cáclinh mục Dòng Tên, ghi bởi linh mục Christoforo Borri ngườiMilan thuộc giáo đoàn nầy).

(4). Võ LongTê, Lịch sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sàigòn 1965trang 192-193.

(5). ĐỗQuang Chính Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sàigòn1972, trang 92-98.

(6). SáchLịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 100-107

(7). BentoThiện gọi là 2 vở, đó là 2 tập vở. Xưa kia chuyển vậnÂu- Á bằng đường thủy, có lẻ sợ bị nạn đắm tàu,nên sao thêm 1 tập, để gửi 2 chuyến tàu khác nhau, cho nêntuy 2 nhưng chúng chỉ là một, ngày nay cả 2 tập vở ấy,tồn trử tại Văn Khố Dòng Tên ở La Mã.

(8). SáchLịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 108-109và phụ lục.

(9). ChữNhu là âm Hán Việt, âm Nôm đọc là Nho, chỉ cho chữ Hán