Dạo quanh Sài Gòn, bạn sẽ luôn bắt gặp những con đường mang tên những anh hùng dân tộc, những danh tướng, vị vua trong lịch sử phong kiến hay những danh nhân của đất Việt. Thế nhưng, bên cạnh đó cũng có những tên gọi lạ tai như Thị Nghè, Thủ Thiêm, Đakao,… mà không phải người dân Sài thành nào cũng biết rõ nguồn gốc bắt đầu từ đâu.
1. LĂNG ÔNG - BÀ CHIỂU – QUẬN BÌNH THẠNH
Lăng Ông – Bà Chiểu là khu đền mộ thờ Tả quân Lê Văn Duyệt, được xây dựng vào năm 1948 nằm trên đường Vũ Tùng, quận Bình Thạnh. Mỗi khi nhắc đến Lăng Ông – Bà Chiểu, người ta vẫn thường nhầm lẫn đây là lăng thờ ông và bà tên Chiểu, thế nhưng bởi vì tục kiêng cữ tên nên khu đền thờ Lăng Ông được ghép với tên khu chợ Bà Chiểu nằm kế bên.
Với khuôn viên rộng lớn khoảng 1.85 ha, Lăng Ông – Bà Chiểu bao gồm 3 công trình chính: nhà bia, lăng mộ và miếu thờ. Ngoài ra, Lăng Ông – Bà Chiểu cũng là nơi thờ cúng Thiếu phó Lê Chất, Kinh lược Phan Thanh Giản và các “Anh hùng liệt sĩ vị quốc vong thân”.
Giữa phố thị ồn ào, náo nhiệt, khu đền mộ Lăng Ông – Bà Chiểu qua bao năm vẫn tọa lạc ở nơi đây và luôn vẹn nguyên nét trầm mặc, cổ kính và tĩnh lặng
2. THỊ NGHÈ – QUẬN BÌNH THẠNH
Thị Nghè (hay còn gọi là Bà Nghè) không chỉ là một tên gọi quen thuộc gắn liền một khu vực nối liền quận 1 và quận Bình Thạnh mà nó còn là tên của dòng kênh, cây cầu, khu chợ trong khu vực ấy. Hầu như người dân ở trung tâm phố thị Sài thành ai ai cũng từng được nghe nhắc về khu Thị Nghè, nhưng không nhiều người biết rõ tên gọi này.
Theo Trịnh Hoài Đức (công thần của triều Nguyễn) viết trong quyển “Gia Định thành thông chí” - mục “Trấn Phiên An” vào năm 1820 thì Thị Nghè là tên gọi dân gian của bà Nguyễn Thị Khánh – người đã có công khai hoang đất và bắc cầu đi lại qua sông cho dân chúng.
Bà Nghè là tên gọi thân mật, kính trọng mà người ta vẫn thường gọi mỗi khi nói về bà, bởi bà là vợ của một người thư ký lúc đương thời và là trưởng nữ của quan Khâm sai Chánh thống Vân Trường Hầu Nguyễn Cửu Vân.
Khu vực Thị Nghè đang phát triển từng ngày, hòa nhập vào cuộc sống văn minh, hiện đại của Sài Gòn hoa lệ, thế nhưng Thị Nghè vẫn sẽ luôn là vùng đất nhỏ gợi nhớ về những công lao to lớn của bà Nguyễn Thị Khánh trong những năm giữa thế kỷ XVIII.
3. BẾN NGHÉ – QUẬN 1
Bến Nghé từng là tên của một bến nước ở Sài Gòn xưa, là tên gọi của một dòng sông, rạch nước nhỏ và là tên goi của một địa phận hành chính thuộc quận 1. Tuy có nhiều cách giải thích khác nhau, nhưng nguồn gốc Bến Nghé đều gắn liền với con trâu.
Theo quyển “Phương Đình dư địa chí” năm 1900, Nguyễn Văn Siêu đã giải thích tên gọi này do tương truyền dòng sông này luôn văng vẳng tiếng kêu gầm như trâu rống của những đàn cá sấu, nên được gọi là “nghé” kết hợp với “bến nước”.
Đồng thời, trong sách “Đại Nam nhất thống chí” ở mục “tỉnh Gia Định” cũng được ghi chép tương tự. Bên cạnh đó, học giả Trương Vĩnh Ký lý giải rằng Bến Nghé bắt nguồn từ tiếng Khmer và nhà địa danh Lê Trung Hoa thì cho rằng đó là tên gọi của bến nước kết hợp với tên thú.
4. THỦ THIÊM – QUẬN 2
Ở Nam Bộ xưa khá phổ biến với tên gọi địa danh bắt đầu với từ “thủ” và được kết hợp với tên riêng của những người cai quản vùng đất đó hoặc những từ miêu tả địa danh đấy.
Vì thế, tên gọi Thủ Thiêm ở quận 2 cũng được kết hợp theo quy tắc ấy, Thủ Thiêm chính là tên gọi cho khu vực, địa phận hành chính và chức vụ chỉ huy đồn binh mà ông Thiêm làm chức thủ ngự, xuất hiện trong khoảng cuối thế kỷ XVIII.
Nhắc đến tên gọi Thủ Thiêm ở thành phố Hồ Chí Minh, đó không chỉ là một phường hành chính của quận 2 mà còn là gắn liền với khu đô thị mới, đường hầm vượt sông Sài Gòn hay những trường học, khu chợ,…
5. ĐAKAO – QUẬN 1
Đakao là địa giới hành chính thuộc quận 1, thuộc trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. Tên gọi Đakao bắt nguồn từ Đất Hộ được phiên âm ra tiếng Pháp là Đakao (dùng trong sách báo, văn bản thời Pháp thuộc), được phổ biến từ những năm 50 của thế kỷ XX.
Cứ thế qua bao năm tháng và trải qua những biến cố lịch sử, Đakao vẫn là tên gọi gắn liền với Sài thành hoa lệ, cùng với mảnh đất này “thay da đổi thịt”, hội nhập và phát triển từng ngày.
6. KÊNH TÀU HỦ - CẦU CHÀ VÀ
Kênh Tàu Hủ được đào vào năm 1819, là dòng kênh huyết mạch của Sài Gòn xưa, có vị trí quan trọng về mặt chiến lược và kinh tế, nối liền đường thủy từ đồng bằng sông Cửu Long đến phố thị Sài Gòn. Kênh Tàu Hủ trước kia được gọi là Cổ Hủ vì dòng kênh này có đoạn phình ra rồi thắt lại như cổ hủ heo, cổ hủ dừa.
Đồng thời, kênh Tàu Hủ còn được học giả Trương Vĩnh Ký và nhà ngôn ngữ học Huỳnh Tịnh Của cho rằng tên gọi Tàu Hủ là do người Triều Châu phát âm thành Tàu Khậu (chỉ những ngôi nhà gạch ven dòng kênh), sau đó trại âm thành Tàu Hủ.
Trôi theo dòng chảy thời gian, những tên gọi ấy đã có tuổi đời lên đến vài trăm năm, là một phần linh hồn của Sài Gòn xưa và là một bộ phận địa giới hành chính không thể tách rời của thành phố Hồ Chí Minh.
Những tên gọi ấy còn gợi nhắc về những năm tháng trước, in đậm dấu ấn lịch sử nối liền với hiện tại của mảnh đất này.