Lâm Bình Duy Nhiên
Tiểu Tử là cây bút của tình người, của sự mộc mạc, bình dị và chân chất. Qua ông, là sự phảng phất của cái đẹp nơi tâm hồn của những mảnh đời cơ cực, đẫm nước mắt nhưng nhuộm thắm tình người và nụ cười trong bối cảnh bi thảm và nhiễu nhương,…
Cái tâm, sự nhân từ luôn là điểm kết dưới ngòi bút dân dã và độc đáo của ông. Văn phong Tiểu Tử dễ đi vào lòng người đọc, khiến người ta bất chợt thầm khóc với những giọt nước mắt chứa đọng bao nỗi niềm và tâm tư mang máng.
Tiểu Tử là sự thầm lặng, miệt mài thậm chí cô đơn của sự gian truân nơi đồng quê miền Nam đầy nhớ thương và nơi xứ người lưu lạc, tha hương nặng trĩu con tim.
Nhớ Tiểu Tử là nhớ về Tô cháo huyết đậm tình người mà chỉ có ông, với tất cả sự chân thật thân thương đã khiến cả những trái tim sỏi đá cũng mềm lòng và thổn thức về sự cay nghiệt của thời thế đổi thay:
“Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:
- Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo!
Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mắt sáng rỡ, mũi hít từng hơi mùi thơm mời mọc.
Giọng bà xẩm ôn tồn:
- Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.
Ngừng một chút rồi tiếp:
- Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà... Phải thông cảm với nhau chớ! Thầy Hai hiểu tôi không?
Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ...”, rồi nín thinh. Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn... Bởi vì tôi thấy nó phải như vậy mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết!
Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:
- Không! Không! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím!
- Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà! Không tính tiền!
Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà! Ăn đi!”. Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt... Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao...”
Và chợt khóc khi ông tả lại cuộc gặp gỡ giữa hai mảnh đời Việt tha hương tận Phi châu xa xôi:
“Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lơ lớ:
– Trời ơi!… Bác là người Việt Nam hả?
Rồi hắn vỗ lên ngực:
– Con cũng là người Việt Nam nè!
Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng tôi kềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi bỗng nghe môt xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại “trôi sông lạc chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy” này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt…
Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:
– Trời ơi!… Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi!… Bác biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt… con mừng “hết lớn” bác à!”
Ôi thương làm sao “Con cũng là người Việt Nam nè!”
“nè” với bao dịu hiền, gần gũi và thân thương. Cứ như một giấc mơ, mới chỉ hôm trước, mới thoáng qua thôi…
Vĩnh biệt Tiểu Tử là chia tay với cái đẹp nhân nhân hậu và chút ít tính dân dã còn sót lại trong thời đại sóng gió, đầy rẫy sự chia rẻ, hận thù và sự trỗi dậy ngày càng nguy hiểm của chủ nghĩa dân tuý tưởng chừng đã bị mai một để rơi vào lãng quên.