Minh Oan và Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Chiến Tranh Việt Nam đã kếtthúc vào ngày 30-4-1975, cách đây đã hơn 40 năm rồi.   Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cùng với Quân Lực ViệtNam Cộng Hòa (QLVNCH) đã bị khai tử. Trong khoảng thời gian đó, phần lớn các công trình nghiên cứu nhằm đánhgiá cuộc chiến của các sử gia Hoa Kỳ thuộc nhóm “chính thống”(orthodox) đều cho rằng Hoa Kỳ đã thua trận vì rất nhiều lý do, mà một trong nhữnglý do đó là vì đồng minh của quân đội Mỹ, QLVNCH, là một quân đội hèn nhát vàkhông có khả năng chiến đấu.  Quan điểmsai lầm và có tính nhục mạ QLVNCH này gần đây đã bị chính một thế hệ mới củacác sử gia và nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, được mệnh danh là nhóm “xét lại” (revisionist)bác bỏ hoàn toàn.  Bài viết này làmột cố gắng nhỏ trong việc ghi lại một vài nhận định và kết luận của các sử giaHoa Kỳ thuộc thế hệ mới này, nhằm minh oan và vinh danh QLVNCH.

Nhận Định Sai Lầm Về Bản ChấtCủa QLVNCH

Trong một bài viết về hai nhóm“chính thống và xét lại,” tác giả Mark Moyar, thuộc nhóm “xét lại,” đã nhận địnhlà một trong những khuyết điểm tệ hại nhứt của các sử gia Hoa Kỳ thuộc phe “chínhthống” là đã chịu ảnh hưởng quá nặng nề của những bài báo và tác phẩm rất đángnghi ngờ của bộ ba Halberstam + Sheehan + Karnow là những ký giả Mỹ nổi tiếngtrong thập niên 1960.  Nhận định của nhóm“chính thống về VNCH và QLVNCH là như sau: America’sSouth Vietnamese allies were corrupt and cowardly, in contrast to the patrioticand dedicated North Vietnamese and Viet Cong.” [1]  (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Đồng minh NamViệt Nam của Hoa Kỳ thì tham nhủng và hèn nhát, ngược hẳn với quân Bắc Việt vàViệt Cộng thì yêu nước và tận tụy).

QLVNCH bị xem là hèn nhát vàkhông có khả năng chiến đấu chỉ vì đã thua Trận Ấp Bắc (tháng 1-1963), đã đượcbộ ba ký giả nói trên mô tả tỉ mỉ trong các tác phẩm ăn khách của họ, nhứt làcuốn A Bright shining lie của Sheehan.[2, 3, 4]  Trong cuốn sách này, Sheehan dành hẳn ra mộtchương, mà ông ta gọi là Book III: The Battle of Ap Bac, từ trang201 đến trang 265, để nói về trận đánh này, trong đó Sheehan không bỏ qua bất cứcơ hội nào để khen ngợi các cấp chỉ huy của Việt Cộng và ngược lại nói xấu, chêbai các cấp chỉ huy của quân đội VNCH. Xin đơn cử một thí dụ điển hình:

“ … the captain in charge of the M-113s, [ám chỉ ĐạiÚy Lý Tòng Bá, chỉ huy Đại Đội 7 Cơ Giới M-113] who had been one of the fewdecent officers of this stinking army, was behaving like the rest of thecowardly bastards.” [5] (Xin tạm dịchsang Việt ngữ như sau: … viên đại úy chỉ huy các thiết-vận-xa M-113, mà trướcđây đã từng là một trong số rất hiếm những sĩ quan đàng hoàng, đúng đắn của cáiquân đội thối tha này, nay lại đang hành xử cũng giống như cái bọn con hoanghèn nhát kia).

Trong cuốn Vietnam, ahistory: the first complete account of Vietnam at war, tác giả Karnow,tuy chỉ dành cho Trận Ấp Bắc có 3 trang trong Chương 7, Vietnamis the place, cũng đã không tiếc lời chê bai quân đội VNCH ngay trongphần mở đầu như sau:

“The Diem’s army’s shortcomings became dramaticallyapparent in January 1963 near Ap Bac, a village in the Mekong delta forty milessouthwest of Saigon, where an inferior Vietcong contingent mauled a SouthVietnamese division that could have scored a victory had it not been led bypusillanimous officers.” [6]  (Xin tạm dịch sang Việt ngữ nhưsau: Những khuyết điểm của quân đội của ông Diệm đã hiện rõ trong ThángGiêng năm 1963 tại Ấp Bắc, một ngôi làng trong vùng châu thổ sông Cửu Long cáchSài Gòn 40 dặm về hướng tây nam, nơi mà một đơn vị nhỏ của Việt Cộng đã xé nátmột sư đoàn của Nam Việt Nam, mà lẽ ra đã thắng nếu không phài đã được chỉ huybởi những tên sĩ quan hèn nhát).

Đoạn văn này của tác giảKarnow, ngoài việc sử dung những ngôn từ có tính cách chê bai, mạ lỵ quân độiVNCH, còn chứa đựng một cụm từ cường điệu, sai lạc và gây hiểu lầm rất lớn chođộc giả.  Cuộc hành quân Ấp Bắc đúng làdo Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB tổ chức, nhưng các đơn vị tham chiến chỉ là ở cấp tiểuđoàn, chưa đến cấp trung đoàn, chớ đâu phải là “một sư đoàn” nhưKarnow đã viết.

Tác giả Halberstam, trong tácphẩm The Making of a quagmire: America and Vietnam during the Kennedy era,cũng dành ra nguyên một chương, Chương 6: Disaster: The Battle of ApBac, từ trang 77 đến trang 92, để nói về Trận Ấp Bắc.  Tuy không sử dụng nhiều từ ngữ có tính cáchchê bai, mạ ly quân đội VNCH như Sheehan và Karnow, Halberstam cũng gây ra nhiềungộ nhận về vai trò của Đại Úy Lý Tòng Bá trong trận đánh, thí dụ như không chịutấn công, không tuân lệnh Đại Tá Đạm (Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB).  Halberstam đã viết như sau ở trang 85:

“ … at this moment he refused to move his  APC’s … Colonel Vann, circling in a lightspotter plane, radioed Ba’s unit that Dam had ordered it to advance.  But Ba refused to move…” [7]  (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: … lúc đó ôngta [chỉ Đại Úy Bá] từ chối không cho các thiết vận xa tiến lên … Trung TáVann, đang lượn vòng trên một phi cơ quan sát nhỏ, đã điện xuống cho đơn vị củaông Bá là ông Đạm đã ra lệnh tấn công. Nhưng ông Bá vẫn không tiến lên …).   

Từ cổ chí kim, đối với binhgia, thắng thua là chuyện bình thường, có khi ta thắng địch thua, và ngược lại,cũng có khi ta thua địch thắng.  Nguyênnhân thắng hay thua đều có thể tìm ra được trong các yếu tố quan trọng như:tình báo, chiến thuật, tiếp vận, vv.  Trongkhoảng thời gian 6 tháng cuối năm 1962 (từ ngày 1-7-1962 đến ngày 31-12-1962), theotác phẩm biên niên sử Hai mươi năm qua: việc từng ngày (1945-1954) củatác giả Đoàn Thêm, đã có hàng mấy chục trận đánh giữa quân đôi VNCH và Việt Cộngmà kết quả thường là quân đội VNCH đã thắng với thống kê chung (do chính tác giảcủa bài viết này thực hiện bằng cách cộng lại tất cả các con số thương vong củahai bên trong suốt từ trang 324 đến trang 338) về số thương vong như sau:

  • VNCH:94 tử thương và 119 bị thương
  • ViệtCộng: 2413 tử thương và 438 bị bắt làm tù binh      

Trong số các trận đánh đó,riêng trong cuộc Hành quân “BìnhTây” vào ngày 21-8-1962, tại Bàu Sáng, Gia Rai(thuộc tỉnh Ba Xuyên), Tiểu Đoàn Phú Lợi của Việt Công đã bị đánh tan nát với166 tử thương và 25 cán binh bị bắt tại trận.[8] Các tác phẩm của bộ ba ký giả Mỹ nóitrên hoàn toàn không đề cập gì đến các trận đánh đó cả. nhưng đã mô tả thật tỉmỉ, nhưng không hoàn toàn đúng sự thật, Trận Ấp Bắc vào ngày2-1-1963, là một trận đánh mà quân đội VNCH đã có tổn thất khá lớn với 83 tửthương và hơn 100 bị thương (về phía Hoa Kỳ thì có 3 tử thương, 8 bị thương với5 phi cơ trực thăng H-21 bị bắn hạ; về phía Việt Cộng là 18 tử thương và 39 bịthương).[9]  Nội sự việc này thôi cũng đã đủ cho thấy sựthiên lệch rất nặng nề của 3 ký giả.  Hơnnữa, họ hoàn toàn không có mặt tại trận đánh, chỉ viết lại qua lời kể của cácsĩ quan cố vấn Mỹ.  Người sĩ quan VNCH cómặt tại trận Ấp Bắc là Đại Úy Lý Tòng Bá, một sĩ quan Thiết Giáp can trường,luôn sát cánh cùng binh sĩ dưới quyền, một tướng lãnh, Tư Lệnh Sư  Đoàn 25 Bộ Binh, đã không đào ngũ, bỏ đơn vịvà binh sĩ của mình, mà trái lại, đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng và bị bắtlàm tù binh vào ngày 29-4-1975 khi Sư Đoàn 25 BB bị địch đánh tan rã.  Chúng ta hảy nghe những lời tâm sự sau đây củaChuẩn Tướng Bá ghi lại trong hồi ký của ông:    

“Đến đây, tôi tưởng cần nói rõ sự thật trận đánh diễntiến của nó không giống như NEIL SHEEHAN viết kể trong quyển sách của anh – cuốn“A BRIGHT SHINING LIE” xuất bản năm 1988. Những điểm chính yếu cùng lý do chính đáng từng diễn tiến của trận đánh khôngđược trình bày, mà tác giả chỉ viết phần tổng quát theo lời kể, lời tường thuậtmột cách hời hợt và thiếu sót của JAMES SCANLON – Đại Úy Cố Vấn đơn vị. [tr. 65] … Tôi xin đặt một câu hỏi theo lờitrình bày của Neil Sheehan trong “A BRIGHT SHINING LIE,” làm sao tôi dám cãi lệnhTư Lệnh Sư Đoàn [là Đại Tá Bùi Đình Đạm, Tư Lênh Sư Đoàn 7 BB] đểthi hành lệnh của Trung Tá [Chuẩn Tướng Bá đã nhớ sai, lúc đó ông Thơ mớimang lon Thiếu Tá] Tỉnh Trưởng Mỹ Tho Lâm Quang Thơ không chịu vượt kinhtruy kích địch. [tr. 68][10] 

Tác giả Mark Moyar, trong một tácphẩm quan trọng của ông, Triumph forsaken: the Vietnam War, 1954-1965,đã viết rõ như sau:

“Colonel John Paul Vann, a U.S. Army advisor and thecentral figure in Sheehan’s book A Bright Shining Lie, was more dishonest indealing with the press than Sheehan ever   acknowledged. Vann fed the journalists an extremely misleading version of the Battleof Ap Bac, one that the journalists transformed into the accepted version ofthe battle.” [11]  (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Trung Tá (đúng ratác giả Moyar nên ghi là Lieutenant-Colonel cho rõ, vì lúc đó ông Vann chỉ mớimang cấp bậc Trung Tá; đây thật ra không phải là một lỗi, vì thông thường ngườiMỹ thường gọi chung hai cấp bậc Lieutenant-Colonel và Full Colonel là Colonel]John Paul Vann, một cố vấn của Lục Quân Mỹ và là nhân vật chánh trong cuốn sáchA Bright Shining Lie của Sheehan, đã thiếu thành thật nhiều hơn là Sheehan đã côngnhận.  Vann đã cung cấp cho các nhà báo mộtbáo cáo cực kỳ sai lạc về Trận Ấp Bắc, một báo cáo đã được các nhà báo biếnthành báo cáo được chấp nhận về trận đánh). 

Tuy nhiên, vì bản thân họ đềuđã từng là những nhà báo được giải thưởng Pulitzer cao quý của Hoa Kỳ, tác phẩmcủa 3 ký giả nói trên đã trở thành những cuốn sách bán chạy nhứt(best-sellers), và đã được cả một thế hệ các sử gia và nhà nghiên cứu Hoa kỳdùng làm tài liệu tham khảo chính trong các tác phầm thuộc nhóm “chính thống” củahọ.  Điều này có nghĩa là những nhận địnhtiêu cực của họ về khả năng chiến đấu của QLVNCH đã trở thành khuôn sáo, đượccác tác giả “chính thống” tiếp tục lập đi lập lại và được các thành viên củaphong trào phản chiến sử dụng triệt để.  Mộtđiều nữa cũng đáng lưu ý là đa số các tác giả “chính thống” này lại là giáo sưtại các trường đại học.  Một số sinh viêncủa họ sau đó cũng trở thành giáo sư đại học và chính những người này lại tiếptục truyền bá các nhận định tiêu cực đó cho các thế hệ sinh viên kế tiếp. Trongthời gian mấy chục năm đó, giới truyền thông và điện ảnh của Hoa Kỳ cũng tiếptay trong việc nói xấu, chê bai QLVNCH này. Kết quả là đối với một bộ phận rất lớn của người dân Mỹ, trong một thờigian khoảng mấy thập niên, QLVNCH đã bị xem như là một quân đội hèn nhát vàkhông có khả năng chiến đấu cao.  Sự thậtthì sao?

Bản Chất Anh Hùng và Khả NăngChiến Đấu Cao Của QLVNCH

Sự thật, mà ngày nay không cònai có thể chối bỏ được nữa, đã thể hiện qua hai trận Tổng Tấn Công lớn của pheCộng Sản trong hai năm 1968 (Tết Mậu Thân) và 1972 (Mùa Hè Đỏ Lửa), đặc biệt lànăm 1972, khi đại đa số quân Mỹ đã triệt thoái, và QLVNCH đã phải chiên đấu đơnđộc. 

Trong trận Tổng Tấn Công năm1972 của phe Cộng sản, mà giới truyền thông và, sau này, tất cả các tài liệu củaHoa Kỳ đều gọi là The Easter Offensive, QLVNCH đã chiến đấu vôcùng anh dũng tại tất cả 3 mặt trận là Quảng Trị ở Vùng I, Kontum ở Vùng II, vàAn Lộc ở Vùng III.  QLVNCH đã thắng và đãgây ra những tổn thất rất nặng nề cho phe Cộng Sản.  Nhưng, dĩ nhiên, QLVNCH cũng đã phải trả mộtgiá rất đắt cho những chiến thắng lớn đó.

Khi viết về trận tái chiếm QuảngTrị, tác giả Mỹ Dale Andradé đã viếtnhư sau: “… the South Vietnamese marines suffered more than 5,000 casualtiessince June, 3,658 of them during the seven-week battle to recapture thecitadel.  Almost one out of every fourmarines in the entire division was wounded or killed.” [12] (Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “…Thủy Quân Lục Chiến của Nam Việt Nam đã có tổng số thương vong hơn5.000 từ tháng 6, trong đó có 3.658 là trong thời gian trận đánh 7tuần lễ tái chiếm cổ thành.  Gầnnhư là một phần tư binh sĩ của sư đoàn đã bị thương hoặc tử trận”).  Táichiếm một thành phố mà địch quân đã chiếm đóng trong gần 2 tháng, có đủ thì giờđể tổ chức các công sự phòng thủ thật vững chắc và với quyết tâm tử thủ, QLVNCH,với một số thương vong cao như vậy, đã chứng minh một cách rõ rệt bản chất anhhùng của mình, dứt khoát không phải là một quân đội hèn nhát như các tác giả Mỹtrong nhóm “chính thống” đã rêu rao trong mấy chục năm qua.  Nếu muốn biết thêm chi tiết về trận đánh đẫmmáu này, độc giả có thể tìm đọc bài viết sau đây: Tái chiếm Quảng Trị: trận đánh đẫm máu nhứttrong Chiến Tranh Việt Nam,trên Trang Web Nam Kỳ Lục Tỉnh tạiđịa chỉ Internet sau đây: http://www.namkyluctinh.org/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/tai-chiem-quang-tri-tran-danh-dam-mau-nhut-trong-chien-tranh-viet-nam

Tại mặt trận An Lộc, tình hình còn khó khăn hơn rấtnhiều.  Thị trấn An Lộc đã bị bao vậyhoàn toàn bởi một lực lượng rất lớn của Cộng quân gồm 3 sư đoàn bộ binh (cácCông Trường 5, 7 và 9), một sư đoàn pháo binh (Sư Đoàn Pháo Binh 69), nhiềutrung đoàn trợ chiến như phòng không, thiết giáp, vũ khí đặc biệt, đặc công,vv.  QLVNCH, với một lực lượng phòng thủbên trong nhỏ hơn rất nhiều (ngay Sư Đoàn 5 BB cũng chỉ còn có 2 Trung Đoànthôi) đã anh dũng chống cự với quyết tâm tử thủ các đợt tấn công dữ dội của địchquân có chiến xa yểm trợ.  Trong suốt thờigian của trận đánh, các đơn vị của QLVNCH đã phải gánh chịu những trận pháokích kinh hồn, có ngày lên đến hàng ngàn quả trọng pháo.  Tác giả James H. Willbanks, trong tác phẩm củaông The Battle of AnLoc, đã ghi rõ như sau:

“Theceaseless shelling, estimated at over 78,000 rounds during the three-monthperiod, had reduced the city to almost total ruins. … The ARVN defenders in thecity had sustained 5,400 casualties, including 2,300 killed or missing.  One battalion of the 5th ARVN wasdown to 26 effectives from an original strength of 300 soldiers.” [13] (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Việc pháo kích liên tục, ước tính lênđến 78.000 quả trong thời gian ba tháng, đã làm cho thị trấn hoàn toàn đổ nát.… Các chiến sĩ phòng thủ của QLVNCH đã gánh chịu một số thương vong là 5.400binh sĩ, trong đó có đến 2.300 tử trận hay mất tích.  Một tiểu đoàn của Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ còn26 người còn khả năng tác chiến từ một quân số 300 chiến sĩ lúc ban đầu).

Để biết thêm chi tiết về chiến công oanh liệt này củaQLVNCH, độc giả có thể tham khảo bài viết Tửthủ An Lộc mùa Hè năm 1972đã đăng trên Trang Web NamKỳ Lục Tỉnh tại địa chỉInternet sau đây: http://www.namkyluctinh.org/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/tu-thu-an-loc-mua-he-nam-1972

Bản chất anh hùng và khả năng chiến đấu cao QLVNCHđã được chứng minh thêm một lần nữa, và cũng là lần sau cùng trong Chiến TranhViệt Nam, tại thị trấn Xuân Lộc, cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn của VNCH, vào trungtuần tháng 4-1975.  Sau khi đã chiếm đjượccả Vùng I và Vùng II của VNCH, và phá tan phòng tuyến Phan Rang của Bộ Tư LệnhTiền Phương của Quân Đoàn III, quân Bắc Việt tiến về hướng Sài Gòn trong thế mạnhgần như chẻ tre.  Thị trấn Xuân Lộc làphòng tuyến cuối cùng của QLVNCH trước ngưỡng cửa vào Sài Gòn.  Phe Cộng Sản nghĩ rằng họ sẽ chiếm Xuân Lộc mộtcách dễ dàng.  Nhưng họ đã lầm.  Nguyên cả một quân đoàn Bắc Việt, Quân Đoàn4, dưới quyền tư lệnh của Tướng Hoàng Cầm, gồm 3 Sư Đoàn 6, 7 và 341, đã bị mộtsư đoàn duy nhứt của QLCVNCH là Sư Đoàn 18 Bộ Binh, dưới quyền tư lệnh của TướngLê Minh Đảo, chận đứng tại Xuân Lộc trong gần hai tuần lễ, từ ngày 9 đến ngày21-4-1975. 

Với chiến thuật quen thuộc “tiền pháo hậu xung,”các đơn vị pháo binh của quân Bắc Việt đã pháo kích vào thị trấn Xuân Lộc rất dữdội và biến thị trấn này thành một đống gạch vụn.  Ta hảy nghe lại lời kể của một ký giả Mỹ:

“Almostevery building has been damaged, and the town center reduced to rubble.  The streets are pocked with 130-millimetershells that come whistling in from the green, brooding hills to the north.  What were once houses are now heaps ofpulverized stone and charred timbers. The market, its tin-roofed stalls twisted into weird shapes, looks likea junk yard, and the bus station, where the initial fighting took place, is recognizableas such only by the blackened skeletons of a few buses…” [14] (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Gần như tất cả các tòa nhà đều bịphá hủy, và trung tâm thị trấn đã biến thành một đống gạch vụn.  Các con phố đầy các hố đạn đại bác 130 ly đã đượcbắn vào từ những ngọn đồi xanh ở hướng bắc. Những gì trước đây là những ngôi nhà bây giờ chỉ còn là nhũng đống đánát vụn và những thanh gổ cháy đen.  Còncái chợ, mà các gian hàng lợp tôn đã bị bóp méo thành những hình thù kỳ dị, thìgiống như một khu bỏ đồ phế thải, và cái bến xe đò, nơi trận đánh đầu tiên đã diễnra, thì chỉ còn nhìn ra được nhờ mấy cái sườn cháy đen của một vài chiếc xe đò…)  

Mặc dù vậy, cũng giống như các đơn vị của QLVNCH đãtử thủ ở An Lộc vào mùa Hè 1972, các đơn vị của Sư Đoàn 18 BB đã can trường chịuđựng các trận pháo kinh hoàng đó, và chờ khi địch quân bắt đầu tấn công vào thịtrấn, đã chống trả mãnh liệt và gây cho chúng những tổn thất rất nặng nề.  Hai tác giả Mỹ, George J. Veith và Merle L.Pribbenow, đã viết một bài báo thật dài, gồm tất cả 51 trang, gần như là một cuốnsách nhỏ, mô tả thật chi tiết trận Xuân Lộc. Hai tác giả đã trích dẫn chính hồi ký của Tướng Hoàng Cầm như sau:

“Duringthe first three days of the battle 7th Division suffered 300casualties and the 341st Division suffered 1,200 casualties …Virtually all of our 85 mm and 57 mm artillery pieces had been destroyed.” [15] (sau đây là nguyên văn tiếng Việt của Ghi chú số 9, Chương 20, của quyểnhồi ký của Tướng Hoàng Cầm, Chặngđường 10.000 ngày: hồi ký của Thượng Tướng Hoàng Cầm (phần 2), tài liệu trực tuyến, có thề đọc toàn văn tại địachỉ Internet sau đây: https://lichsuhuyenbivietnam.blogspot.com/2012/11/chang-uong-10000-ngay-hoi-ky-cua-thuong_15.html): Ba ngày đầu chiến đấu, sư đoàn7 bị thương vong 300 cán bộ, chiến sĩ, sư đoàn 341 bị thương vong 1.200. Chínxe tăng bị địch bắn cháy 3, hỏng 3. Pháo 85 ly và 57 ly hỏng gần hết.”

ThayLời Kết

Quacác tác giả Mỹ, thuộc nhóm “xét lại,” ngày nay người Mỹ đã có một cái nhìn đúngđắn hơn về QLVNCH, đồng minh của Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Việt Nam.  Họ đã biết rõ là QLVNCH tuyệt đối khôngphải là một quân đội hèn nhát và không có khả năng chiến đấu cao.  Bài viết ngắn này chỉ điểm qua một vài bài viếtcủa các tác giả thuộc nhóm “xét lại”, vì công tâm của đa số người Mỹ lương thiện,đã minh oan và vinh danh QLVNCH, một quân đội anh hùng đã đi vào lịch sử.  Trong phần kết của bài viết dài về Trận XuânLộc đã nói đến bên trên, hai tác giả Veith và Pribbenow đã ghi lại câu trả lờisau đây của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB: “Please donot call me a hero.  My men who died atXuan Loc and a hundred battles before are the true heroes.” [16] (Xin tạm dịch sang Việt ngữnhư sau: “Xin đừng gọi tôi là một anh hùng. Các binh sĩ dưới quyền tôi đã hy sinh tại Xuân Lộc và trong hàng trăm trậnđánh trước đó mới thật là nhũng vị anh hùng”).

___________________

Ghi Chú

  1. Moyar, Mark, “Vietnam: historians at war,” Academic questions,vol. 21, no. 1 (Spring 2008), tạp chí điện từ, có thể đọc toàn văn trực tuyến tạiđịa chỉ Internet sau đây: https://www.nas.org/academic-questions/21/1/vietnam_historians_at_war

  2. Halberstam, David.  TheMaking of a quagmire: America and Vietnam during the Kennedy era.  Rev. ed., with an introduction by Daniel J.Singal.  Lanham, Md.: Rowman & Littlefield,2008.  Tr. 77-92.

  3. Sheehan, Neil.  A Brightshining lie: John Paul Vann and America in Vietnam.  New York: Random House,1988.  Tr. 201-265.

  4. Karnow, Stanley.  Vietnam, ahistory: the first complete account of Vietnam at war.  New York: Penguin Books, 1984.  Tr. 259-262.

  5. Sheehan, sđd, tr. 233.

  6. Karnow, sđd, tr. 259-260.

  7. Halberstam, sđd, tr. 85.

  8. Đoàn Thêm.  Hai mươi năm qua:việc từng ngày (1945-1964); tựa của Lãng Nhân.  Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu, [1989]. Tr.328.

  9. Battle of Ap Bac, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:  https://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Ap_Bac#Aftermath

  10. Lý Tòng Bá.  25 năm khói lừa:hồi ký của một tướng lãnh cầm quân tại mặt trận.  Las Vegas: Tác giả xuất bản,1995.  Tr. 65 và 68.

  11. Moyar, Mark.  Triumphforsaken: The Vietnam War, 1954-1965. Cambridge, UK: Cambridge University Press, 2006.  Tr. xvi.

  12. Andradé, Dale.  America’s last Vietnam battle: halting Hanoi’s1972 Easter Offensive.  Lawrence:University Press of Kansas, 2001.  Tr. 196.

  13. Willbanks, James H.  The Battle of An Loc.  Bloomington: Indiana University Press,2005.  Tr. 146-147.

  14. Caputo, Phillip, “S.Viets take skeleton of city.” Chicago tribune, số ra ngày14-4-1975, tr. 3.

  15. Veith, George J. và Merle L. Pribbenow, “Fighting is an art: the Army ofthe Republic of Vietnam’s defense of Xuan Loc, 9-21 April 1975,” Journalof military history, vol. 68, no. 1 (Jan. 2004), tr. 163-213.  Tr. 193.

  16. Veith và Pribbenow, bài báo vừa dẫn ngay bên trên, tr. 213.