Tìm hiểu thêm về việc Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng ngày 8-3-1965

           Cách đây 10 năm, tác giả bài viếtnày có viết một bài về biến cố quan trọngnày, đề tựa là “Thủy Quân Lục ChiếnHoa Kỳ đổ bộ vào Đa Nẵng ngày 8 tháng 3 năm1965,” đăng trên báo Thời Mới(Toronto), số 126, ngày 1/12/2004, trang 29, 33-34, 36 và 38.  Bài viết đó đã đuợcđăng lại trong cuốn sách của tác giả xuấtbản năm 2008, Bạch hóa tài liệu mật củaHoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa, ở các trang153-176, và hiện nay được đăng trên trang Web Nam KỳLục Tỉnh tại địa chỉ Internet sauđây:

http://www.namkyluctinh.org/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/thuy-quan-luc-chien-hoa-ky-do-bo-vao-dha-nang-ngay-8-thang-3-nam-1965

           Bài viết này tìm hiểu thêm về biếncố quan trọng đó dựa trên một số tài liệumới tìm thêm đuợc. Để khởi sự, chúng ta hảy trở lạicuốn hồi ký của tác giả Bùi Diễm, là mộtkhuôn mặt chính trị của VNCH, mà tại thời điểmngày 8-3-1965, đang đảm nhận chức vụ BộTruởng Phủ Thủ Tuớng trong Chính phủ củaBác si Phan Huy Quát.  Chúng ta hảynghe ông kể lại biến cố đó trong cuốn hồiký của ông viết bằng Anh ngữ: đó là cuốn hồiký In the jaws of history của tác giả Bùi Diễm(với sự cộng tác của David Chanoff) do nhà xuất bảnđại học Indiana University Press xuât bản năm 1999.Trong Chương 17 với tiểu tựa là The AmericansIntervene, tại 2 trang 131 và 132, tác giả Bùi Diễm kểlại biến cố đó như sau: ông cho biết sáng sớmngày 8-3-1965, Thủ Tuớng Quát gọi điện thoại,kêu ông đến gặp ngay vì có chuyện khẩn cấp.  Khi ông đến noi thì ông Quát chobiết TQLC Mỹ đang đổ bộ vào Đà Nẵngnên Chính phủ cần phải ra ngay một thông báo chính thứcvể việc này.  Ông Quát yêu cầuông cùng với một viên chức Mỹ có mặt lúc đólà ông Melvin Manfull soạn thảo ngay thông cáo báo chí này.  Điểm chính yếu mà tác giảBùi Diễm muốn nói là biến cố đó tuy không phảihoàn toàn là một bất ngờ lớn đối vớiông nhung nó quá đột ngột và chính phủ Quát không có chuẩnbị cho biến cố đó. Nguyên văn lời tác giả viết trong sách nhu sau: “Thenews itself was not an overwhelming surprise, because in the back of my mind Iknew that Washington would soon be pushing for something like this.  But the abruptness of the thing and the lackof preparation for it were upsetting, to say the least.” 1Chúng ta cần phải đánh giá mức độ khảtín của thông tin quan trọng này. Nói một cách chính xác hon, chúng ta cần tìm hiểu xembiến cố này có đúng thật là quá đột ngộtvà Chính phủ Quát đã không có chuẩn bị gì hết chobiến cố đó.

            Truớc hết,tìm lại hình ảnh trên báo Life của Hoa Kỳ liên quanđến biến cố này, chúng ta tìm thấy 2 tấmhình sau đây:


Hình các thiếu nữ Đà Nẵng đón tiếp TQLC Mỹ tại bãi biển Mỹ Khê.



Cận ảnh cho thấy sự hiện diện của Chuẩn tuớng Frederick J. Karch, tư lệnh lữ đoàn TQLC Mỹ và cả Thiếu tuớng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh vùng I tại thời điểm này.

           Trên báo Chính Luận của Sài Gòn, số rangày Thứ Năm, 11-3-1965, ở trang 1 cũng có loan tin vớiđầy đủ hình ảnh về biến cố này: 


           Trong hình chúng ta thấy có cảnh các thiếunữ Việt Nam choàng vòng hoa cho binh si Hoa Kỳ, và hình ThiếuTuớng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I đứngbên cạnh Chuẩn Tuớng Frederick J. Karch, Tư Lệnh LữĐoàn TQLC Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng.

           Như vậy, sự thật lịch sửlà ở đâu?  Biến cốnày có đúng là quá đột ngột và Chính phủ Phan HuyQuát lúc đó đã không có sự chuẩn bị?  Chúng ta hảy tìm hiểu thêm qua mộtsố tài liệu có liên quan đến biến cố này.

           Như trên đã có nói, đây là một biếncố rất quan trọng cả về chính trị lẩnquân sự.  Về phía VNCH, cácnhân vật chính trị và quân sự có liên quan đến biếncố này là Thủ Tuớng Phan Huy Quát, Phó Thủ Tuớngkiêm Tổng Truởng Quân Lực Trung Tuớng NguyễnVăn Thiệu, Tổng Tư Lệnh Trung Tuớng TrầnVăn Minh, và Tư Lệnh Vùng I Thiếu Tuớng NguyễnChánh Thi.  Về phía Hoa Kỳ làĐai sứ Maxwell D. Taylor, và Tư Lệnh MACV ĐạiTuớng William C. Westmoreland.  Banhân vật đầu nảo của VNCH, các ông Quát, Thiệuvà Minh, đều không có viết hồi ký.  Tướng Nguyễn Chánh Thi có viếthồi ký, với tựa đề là Việt Nam: mộttrời tâm sự , nhưng hoàn toàn không có đề cậpđến biến cố này. Về phía Hoa Kỳ, Đại sứ Taylor có viếthồi ký.  Đó là cuốn sáchSwords and plowshares do nhà W.W. Norton xuất bản tạiNew York vào năm 1972, gồm 434 trang.  Rất tiếc, trong cuốn hồiký này, Đại sứ Taylor chỉ đề cập đếnbiến cố này trong một câu như sau: “An even moresignificant event occurred a few days later when two U.S. Marines battalionslanded at Da Nang  on March 8 and 9 tostrengthen the defense of that vital air base.” 2 Tuy nhiên,như chúng ta sẽ thấy, ông đã có gửi một sốcông điện về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đểbáo cáo chi tiết vể việc này .  Tuớng Westmoreland thì có viết hồiký, đề tựa là A Soldier reports.  Trong hồi ký này, TuớngWestmoreland có ghi lại khá nhiều chi tiết về biếncố này tại các trang 123-125. Chúng ta sẽ lần luợt sử dụng các tài liệunày để đánh giá thông tin về biến cố nàytrong cuốn sách của tác giả Bùi Diễm.

           Truớc hết là cuốn hồi ký củaTuớng Westmoreland.  Truớckhi đề cập đến biến cố này, TuớngWestmoreland có nói đến tình hình suy sụp về quân sựtại VNCH khiến cho ông đã có bản tuờng trình rấtbi quan cho rằng Việt Công sẽ chiếm đuợc MiềnNam trong vòng một năm; nguyên văn nhu sau: “I expressedconcern “that we are headed toward  a VCtakeover of the country,” probably within a year.” 3  Về biến cố này, ôngcho biết ngay từ đầu tháng 2-1965, phó tuớng củaông là Trung Tuớng John L. Throckmorton, sau khi đi thị sáttình hình bố phòng của đơn vị QLVNCH có nhiệmvụ bảo vệ phi truờng Đà Nẵng, đã tỏra lo ngại và đề nghị nên tăng cuờng ngay việcbảo vệ phi truờng này bằng một lữ đoànTQLC Hoa Kỳ (gồm 3 tiểu đoàn và các đơn vịyểm trợ).  Ông đồngý với sự lo ngại này nhưng chỉ khuyến cáo bốtrí hai tiểu đoàn mà thôi. Đề nghị của ông đuợc sự đồngý của Đô Đốc Ulysses S. G. Sharp, Tổng Tư LệnhLực Luợng Hoa Kỳ Tại Thái Bình Duong (CINCPAC =Commander-In-Chief, Pacific) và sau đó đuợc Chính phủ HoaKỳ chấp thuận vào ngày 26-2-1965.  Chính phủ Quát đồng thuậnmột cách dễ dàng (tuy nhiên ông không nói rõ thời điểmcủa sự đồng thuận này).  Nguyên văn Anh ngữ trong cuốnhồi ký này như sau: “Returning from an inspection of ARVNsecurity arrangements at Danang in early February 1965, my deputy, JohnnyThrockmorton, was concerned and recommended bringing in immediately an entireMarine Expeditionary Brigade of three infantry battalions with artillery andlogistics support.  While sharingThrockmorton's sense of urgency, I nevertheless hoped to keep the number ofU.S. ground troops to a minimum and recommended instead landing only twobattalions and holding the third aboard ship off shore. ... Admiral Sharp atCINCPAC agreed with my two-battalion proposal, deeming it “an act of prudencewhich we should take before and not after another tragedy occurs.”  Washington on February 26 approved it,subject to South Vietnamese concurrence. The Quat government gave that readily.” 4

            Tài liệu kếtiếp là một công điện mật của Toà Đạisứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn gửi về Bộ NgoạiGiao, đề ngày 1-3-1965.  Trongcông điện này, Đai sứ Taylor cho biết ông và PhóĐại sứ Johnson đã đến gặp Thủ TuớngQuát sáng hôm đó.  Tại cuộcgặp gở này, sau khi thảo luận về Chiến dịchRolling Thunder,5 ông đã đề nghị việcđổ bộ hai tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ vào Đà Nẵngvà Thủ Tuớng Quát đã chấp nhận ngay đềnghị này.  Thủ TuớngQuát chỉ bày tỏ sự lo ngại về mối quan hệgiữa dân chúng chung quanh căn cứ Đà Nẵng vớilính Mỹ mà thôi.  Về điểmnày, Đại sứ Taylor cho biết có thể thu xếp dễdàng, và ông cũng xin Thủ Tuớng Quát cho phép ông cử TuớngWestmoreland liên lạc với hai tuớng Thiệu và Minhđể bàn về chi tiết. Thủ Tuớng Quát đồng ý ngay và cho biết ôngsẽ thông báo ngay cho hai tuớng Thiệu và Minh biết vềđề nghị này.  Nguyênvăn Anh ngữ của công điện như sau: “AlexJohnson and I called on Quat this morning primarily to discuss Rolling Thunderand the introduction of Marines into Danang. On the first point, as indicated in Reference A, Quat concurred in therevised mission and the updated press release... I then took up the matter ofintroducing the two Marines BLT's for the security of Danang airbase.  Quat agreed readily to the proposal andexpressed concern only about relations between the US military personnel andthe civilian population around the base. I told him I did not believe that matter would be difficult to work outand asked his permission to have Westmoreland contact general Thieu and Minh towork out all details.  He agreed to thissuggestion and indicated his intention to apprise Thieu and Minh at once of theproposal.” 6       

           Tài liệu kế tiếp cũng là mộtcông điện mật của Toà Đại sứ Hoa Kỳgửi về Bộ Ngoại Giao, đề ngày 2-3-1965.  Trong công điện này, Đạisứ Taylor cho biết Tuớng Westmoreland vừa kể lạibuổi họp của ông ta với các Tuớng Thiệu vàMinh về vấn đề đổ bộ TQLC vào Đà Nẵng.  Tuớng Westmoreland hiện đangtrên đuờng ra Đà Nẵng để thảo luậnvới Tuớng Thi theo yêu cầu của hai Tuớng Thiệuvà Minh, và Tuớng Depuy, J-3, Tuớng Thang (?), cùng với mộtđại diện của lữ đoàn TQLC cũng sẽra Đà Nẵng sau đó để soạn thảo kếhoạch chi tiết.  Nguyênvăn Anh ngữ nhu sau: General Westmoreland has just describedhis meeting (reported separately) with Generals Thieu and Minh on the subjectof the introduction of Marines into Danang. He is now leaving for Danang in order to discuss the matter with GeneralThi at the request of Thieu and Minh and General DePuy, J-3 General Thang and arepresentative of the MEB will go there shortly to work out detailed plans.” 7

           Dựa vào các tài liệu vừa duyệt quabên trên, chúng ta có thể khẳng định là việcđổ bộ hai tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ vào Đà Nẵngngày 8-3-1965 dứt khoát không thể là một biến cốquá đột ngột và Chánh phủ Phan Huy Quát không biếtgì cả nên không có sự chuẩn bị để đốiphó với biến cố như đã ghi trong cuốnhồi ký của tác giả Bùi Diễm đuợc.  Biến cố này rõ ràng đãđuợc các giới chức Hoa Kỳ là Đại sứTaylor và Tuớng Westmoreland, Tư Lệnh MACV, báo truớcđúng 1 tuần lễ với các giới chức củaVNCH là Thủ Tuớng Phan Huy Quát, Phó Thủ Tuớng kiêm TổngTruởng Quân Lực Trung Tuớng Nguyễn Văn Thiệu,Trung Tuớng Trần Văn Minh, Tổng Tư LệnhQLVNCH, và Thiếu Tuớng Nguyễn Chánh Thi, Tư LệnhVùng I.  Tất cả các giớichức VNCH đều đồng thuận một cách nhanhchóng.  Việc đón tiếp lữđoàn TQLC tại Đà Nẵng đã được chínhquyền địa phuong tổ chức với các thiếunữ xinh đẹp mang vòng hoa để trao tặng chobinh sĩ Hoa Kỳ.  Và chính ThiếuTuớng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I, mà BộTư Lệnh đặt tại Đa Nẵng, cũng có mặtđể chào đón Chuẩn Tuớng Frederick J. Karch, TưLệnh lữ đoàn TQLC Hoa Kỳ.  Như vậy, tại sao tác giảBùi Diễm lại ghi lại như thế trong cuốn hồiký của ông.  Chúng ta phải lấycông tâm mà nhận xét rằng ông không có động cơ nàođể tránh né, không nói sự thật cả.   Vậy thì chỉ có một cách giảithích duy nhứt có thể chấp nhận đuợc là quảthật, mặc dù là Bộ Truởng Tại Phủ ThủTuớng, ông đã không đuợc Thủ Tuớng Quátbáo cho biết truớc về biến cố này vì một lýdo nào đó.  Lý do đó chỉcó thể là vì Thủ Tuớng Quát không cho rằng đây làmột biến cố vô cùng quan trọng về chính trịcần phải thông báo cho Bộ Truởng Phủ Thủ Tuớngđể đưa vào chương trình nghị sự sẽđuợc thảo luận và thông qua tại một phiên họpcủa hội đồng nội các   Thủ Tuớng Quát chỉ nhìn biếncố như một vấn đề thuần túy quân sựnên chỉ cần thông báo cho các Tuớng Thiệu và Minh màthôi.  Và sự thật lịchsử quả nhiên rất gần với cách giải thíchnày.  Trong cuốn hồi ký củamình, ông Diễm có ghi lại phần tiếp của câu chuyệnvề biến cố này.  Saukhi soạn thảo xong Thông Cáo Chung về việc này và ôngManfull đã ra về, ông mới đuợc Thủ TướngQuát kể lại cho ông nghe về cuộc họp vớiĐại sứ Taylor nhiều ngày truớc đó (chắcchắn là cuộc họp vào ngày 1-3-1965 giữa Thủ TuớngQuát với Đại sứ Taylor và Phó Đại sứJohnson như phần trên chúng ta đã thấy).  Nhưng theo Thủ Tuớng Quátthì đó chỉ là một cuộc “trao đổi ý kiến”rất tổng quát về vấn đề tăng cuờngviệc phòng thủ của Miền Nam và qua đó Đạisứ Taylor có đề cập vấn đề đemTQLC vào.  Thủ Tuớng Quát cũngcho biết là ngay khi đó ông đã nói cho Đại sứTaylor biết là ông rất ngần ngại truớc việc“Mỹ Hóa” cuộc chiến tranh tại Việt Nam vì ông biếtlà Đại sứ Taylor cũng không thích chủ trươngđem quân tác chiến Mỹ vào Việt Nam.  Truớc lời giải thích nhưthế của Thủ Tuớng Quát, ông Diễm đã hỏithế tại sao lại có chuyện đổ quân độtngột như vậy.  ThủTuớng Quát cho biết ông nghĩ rằng chính TuớngTaylor cũng bị bất ngờ vì quyết địnhquá nhanh của Chính phủ Mỹ. Và vì vậy khi nói chuyện với ông Quát sáng hôm đó[ngày 8-3-1965] Đại sứ Taylor đã cố gắngtrình bày việc này như là một biện pháp thuần túyquân sự để đối phó với tình hình an ninh xấuchung quanh căn cứ.  Nguyênvăn Anh ngữ trong cuốn hồi ký của Đại sứBùi Diễm nhu sau: “...But as soon as the American diplomat left, Igot back to the point with Quat.  He toldme several days earlier he and Ambassador Taylor had had an “exchange of ideas”about the need  to reinforce South Vietnam'sdefenses.  As part of this exchange,which Quat had considered no more than an initial, general discussion, Taylorhad broached the subject of bringing in the marines.  Quat had then told Taylor he was reluctant tosee an “Americanization” of the war. Although he had not requested American troops, Quat told me, neither hadhe explicitly opposed the idea.  For hispart, Taylor, as Quat put it, “had shared many of my views on the matter.”  When I asked Dr. Quat why we faced thissudden development, he answered, “I think Taylor himself was taken by surpriseby a quick decision from Washington. This morning he tried to present it to me as a strictly military movethat had to be taken because conditions were bad around the base.” 8  

           Lời giải thích trên đây của tác giảBùi Diễm xác định một điều quan trọngmà chúng ta đã biết và đưa ra hai điều mớimà chúng ta cần phải tìm hiểu thêm.  Điều quan trọng đuợcxác định là quả thật đã có buổi họp giữaThủ Tướng Quát và Đại sứ Taylor và trong buổihọp đó Đại sứ Taylor đã có đề cậpđến việc đưa Thủy Quân Lục ChiếnHoa Kỳ vào Đà Nẵng.  Haiđiều mới là: 1) Thủ Tuớng Quát có phần dè dặt,e ngại về việc Hoa Kỳ đưa quân tham chiếnvào Việt Nam và Đại sứ Taylor cũng chia sẻquan điểm này với Thủ Tuớng Quát; và, 2) Việcđưa các tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ vào Đà Nẵngđã đuợc quyết định rất nhanh tạiWashington và Đại sứ Taylor cũng tương đốibị bất ngờ.  Chúng ta hãylần luợt tìm hiều thêm về hai điều này.

           Về phần 1 của điều thứnhứt, tức là sự dè dặt, e ngại của ThủTuớng Quát đối với việc Hoa Kỳ đưaquân tham chiến vào Việt Nam, chúng ta không có cách nào kiểmchứng đuợc vì Thủ Tuớng Quát đã qua đờivà không có viết hồi ký.  Nhưngchúng ta có thể kiểm chứng đuợc phần 2 củađiều thứ nhứt.  Vàquả thật, như chúng ta sẽ thấy, Đại sứTaylor có cùng quan điểm với Thủ Tướng Quáttrong việc này.

           Ngay từ truớc khi các phi vụ oanh tạcliên tục Bắc Việt (Chiến dịch Rolling Thunder)đuợc bắt đầu thi hành từ ngày 2-3-1965, vấnđề tăng cuờng hệ thống phòng thủ chophi truờng Đà Nẵng đã đuợc đặtra.  Ngày 11-2-1965, Bộ Tham MuuLiên Quân (JCS: Joint Chiefs of Staff; cơ quan chỉ huy tối caocủa quân đội Hoa Kỳ, gồm 4 vị Tham MưuTrưởng của 4 quân chủng là Lục Quân, HảiQuân, Không Quân và Thùy Quân Lục Chiến, mà nguời đứngđầu – đuợcTổng Thống bổ nhiệm,luân phiên giữa các các vị Tham Mưu Trưởng củacác quân chủng – là cố vấn chính về quân sự cho TổngThống) đã có khuyến cáo nên đưa một lữđoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (gồm 3 tiểuđoàn với các đơn vị yểm trợ, tất cảkhoảng 5000 binh sĩ) đến Đà Nẵng.  Nhưng ngày 22-2-1965, TuớngWestmoreland chỉ xin đổ bộ 2 tiểu đoàn thôi,giữ lại một tiểu đoàn trên hạm độingoài khơi làm trừ bị. Đuợc tin này, Đại sứ Taylor phảnđối ngay trong một công điện gửi vềWashington cùng ngày 22-2-1965, với nội dung như sau:

           “As I analyze the pros and cons of placing anyconsiderable number of Marines in Danang area beyond those presently assigned,I develop grave reservations as to wisdom and necessity of so doing.  Such action would be step in reversing longstanding policy of avoiding commitment of ground combat forces in SVN.  Once this policy is breached, it will be verydifficult to hold line.  If Danang needsbetter protection, so do Bien Hoa, Tan Son Nhut, Nha Trang and other key baseareas... White-faced soldier armed, equipped and trained as he is not suitableguerrilla fighter for Asia forests and jungles. French tried to adapt their forces to this mission and failed.  I doubt that US forces could do muchbetter.  Furthermore, we would havevastly complicating factor of not running war and hence problem of arrangingsatisfactory command relationships with our Vietnamese allies.  Finally, there would be ever present questionof how foreign soldier could distinguish between a VC and friendly Vietnamese farmer.  When I view this array of difficulties, I amconvinced that we should adhere to our past policy of keeping our ground forcesour of direct counterinsurgency role.” 9 

           Tuy nhiên, đối với đề nghị cụ thểcủa Tuớng Westmoreland, Đại sứ Taylor không bác bỏhoàn toàn, mà đề nghị chỉ đổ bộ 1 tiểuđoàn thôi, và chỉ với nhiệm vụ duy nhứt là bảovệ an ninh cho phi truờng Đà Nẵng mà thôi.  Tuớng Westmoreland cũng đồngtình với đề nghị thay đổi này củaĐại sứ Taylor, với điều kiện phầnquân số còn lại sẽ đổ bộ sau.  Tuớng Tổng Tư Lệnh LựcLuợng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (CINCPAC =Commander-In-Chief Pacific, lúc đó là Đô Đốc Ulysses S. G.Sharp) không đồng ý với đề nghị củaĐại sứ Taylor và giữ nguyên đề nghị củaTuớng Westmoreland.

           Về điều thứ nhì, tức là việcWashington quyết định nhanh về việc đổbộ TQLC Hoa Kỳ vào Đà Nẵng và Đại sứTaylor cũng tương đối bị bất ngờ,thì chúng ta cần phải duyệt lại diễn tiến củaviệc này để có thể nắm được phầnnào sự thật lịch sử của câu chuyện.

-      Đầu tháng 2-1965: Tướng Throckmorton, Tư LệnhPhó MACV, sau khi thị sát hệ thống phòng thủ củaphi trường Đà Nẵng, đề nghị đổbộ 1 lữ đoàn TQLC (1 MEB = Marine Expeditiionary Brigade, gồm3 tiểu đoàn TQLC với các đơn vị yểm trợ,gồm tất cả khoảng 5000 quân)

-      Ngày 11-2-1965: JCS cũng đề nghị đổ bộ1 MEB

-      Ngày 22-2-1965: Tướng Westmoreland, Tư Lệnh MACV,đề nghị chỉ đổ bộ 2 tiểuđoàn thôi, giữ lại 1 tiểu đoàn làm trừ bị

-      Ngày 22-2-1965: Đại sứ Taylor phản đốiviệc mang quân bộ chiến Hoa Kỳ vào Việt Nam,nhưng vẩn đồng ý với yêu cầu củaTướng Westmoreland, nhưng đề nghị chỉđổ bộ 1 tiểu đoàn thôi.

-      Ngày 24-2-1965: CINCPAC bác bỏ đề nghị củaĐại sứ Taylor và giữ nguyên đề nghị củaTướng Westmoreland

-      Ngày 26-2-1965, từ 7:05 đến 9:50 tối: TổngThống Lyndon B. Johnson họp với Bộ TrưởngNgoại Giao Dean Rusk, Thứ Trưởng Ngoại Giao GeorgeBall, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara, và CốVấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy và chấp thuậnđề nghị của Tướng Westmoreland (“OnFebruary 26, ... , President Johnson met from 7:05 p.m. to 9:50 p.m. with Rusk,McNamara, Ball and McGeorge Bundy and appoved Westmoreland’s request for thedeployment of two Marine battalion landing teams to Danang.”) 10

-      Ngày 27-2, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳgửi công điện cho Đại sứ Taylor đểthông báo về việc đổ bộ TQLC và yêu cầu ôngtìm sự đồng thuận của Chính phủ ViệtNam Cộng Hòa (“On 27 February(26 February, Washington time), the Department of State cabled AmbassadorTaylor that the Marines were to be landed and that he was to secure approvalfrom the Government of Vietnam for this eventuality.”) 11

-      Những ngày sau đó, Đại sứTaylor đã liên tiếp gặp Thủ Tướng Quát vàongày 28 (như chúng ta đã thấy bên trên), và hôm sau, ngày 1-3,Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trường Quân LựcTrung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Tổng TưLệnh QLVNCH Trung Tướng Trần Minh Minh (Minh nhỏ)để bàn về việc đổ bộ lữ đoànTQLC Hoa Kỳ này.  (On the afternoon of the 28th,Ambassador Taylor met with Vietnamese Prime Minister Phan Huy Quát to discusswith him the proposed American landing. The following day, 1 March, the Ambassador met with the Minister of theVietnamese Armed Forces, General Nguyen Van Thieu and the Vietnamese Chairmanof the Vietnamese Joint General Satff, General Tran Van Minh (“Little Minh”) todiscuss the details of the deployment of the 9th MEB) 12

-      Ngày hôm sau, 2-3, Đại sứTaylor báo cáo về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ các diễntiến kế tiếp của việc chuẩn bị vụđổ bộ lữ đoàn TQLC Hoa Kỳ (vụ TướngWestmoreland đi gặp các Tướng Thiệu và Minh và bayra Đà Nẳng để gặp Tướng Thi nhưchúng ta đã thấy bên trên); cũng chính trong công điệnnày Đại sứ Taylor đã đề nghị hai điềusau đây: 1) Một thời khóa biểu cụ thể cho việcđổ bộ lữ đoàn TQLC Hoa Kỳ như sau: a) Nếumọi công tác ngày hôm nay (tức là ngày 2-3) của TướngWestmoreland diễn ra tốt đẹp thì hôm sau (tức làngày 3-3) ông sẽ đi gặp Thủ Tướng Quát cùng 2Tướng Thiệu và Minh một lần nữa đểtổng kết, nắm chắc là tất cả mọingười đều hiểu rõ về công việc sắpxảy ra cũng như đồng thuận về ngày giờcủa việc đổ bộ và việc công bố mộtthông cáo báo chí; b) thông cáo báo chí sẽ công bố vào lúc 5 giờchiều giờ địa phương ngày 3-3; và c) cuộcđổ bộ của lữ đoàn TQLC Hoa Kỳ sẽbắt đầu vào sáng sớm ngày 4-3. Thời gian từlúc công bố thông cáo báo chí đến lúc bắt đầucuộc đổ bộ vừa đủ cho chính quyềnVNCH giải thích với dân chúng, đặc biệt là dânchúng Đà Nẵng, và không kịp để Việt Cộngcó thể tổ chức biểu tình phản đối.  2) Một thông cáo báo chí với nộidung như sau: “Sau cuộc tham khảo giữa hai Chính phủNam Việt Nam và Hoa Kỳ về việc tăng cườngcác biện pháp cần thiết để hỗ trợ ViệtNam chống lại cuộc tấn công từ Hà Nội, theoyêu cầu của Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Hoa Kỳđã đồng ý trú đóng hai tiểu đoàn TQLC trong khuvực Đà Nẵng để tăng cường an ninhchung cho căn cứ không quân Đà Nẵng.  Các đơn vị TQLC Hoa Kỳ sẽtrú đóng tại Đà Nẵng cho đến khi có thểđược thay thế bởi các lực lượngquân sự của Nam Việt Nam.” (…Assuming that all goes well in the conferences today, I would seek awrap-up meeting tomorrow with Quat along with Thieu and Minh.  The purpose of this meeting would be toassure complete understanding by all parties of what is about to take place andobtain agreement as to timing of landing and issuance of a pressstatement.  On the latter two points, wewould propose a press statement at 1700 local March 3 and initiation of the Marine landing atabout daylight March 4.  This spacing ofthe announcement and the landing is for the purpose of restricting the timeavailable to the VC to organize any demonstrations against the landing andstill to allow some time for an explanation to the Vietnamese public,particularly in Danang, of what is about to take place…. With regard to a jointpress release, the following is submitted for approval: “After consultation betweenthe Governments of South Vietnam and the United States on additional measuresnecessary to support the Vietnamese resistance to aggression from Hanoi, theUnited States Government has agreed to the request of the Government of Vietnamto station two United States Marine Corps battalion landing teams in the Danandarea with the mission of strengthening the general security of the Danang airbase complex.  The Marine units willremain in Danang until such time as they can be relieved by South Vietnamesemilitary forces.”) 13

-      Theo kế hoạch do Đại sứ Taylor đềnghị vừa trình bày thì việc đổ bộ lữđoàn TQLC Hoa Kỳ phải diễn ra vào sáng sớm ngày4-3 nhưng trên thực tế việc đổ bộ xảyra vào sáng sớm ngày 8-3.  Tạisao có sự thay đổi như thế?  Lý do là vì trong buổi họp ngày1-3 giữa Đại sứ Taylor và 2 Tướng Thiệuvà Minh, 2 vị tướng Việt Nam, mặc dù không phảnđối đề nghị đưa quân tác chiến củaMỹ vào, nhưng có yêu cầu là việc đưa quân Mỹvào nên được thực hiện một cách càng ít lộliễu càng tốt (…The two Vietnamese officers posed noobjections to the proposed commitment of American combat troops.  They did, however, express concern about thereaction of the Vietnamese population and requested that the American forces bebrought into Da Nang “in the most inconspicuous way feasible.”) 14 Chính vì yêu cầu này nên ngày 3-3Thứ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ John T. McNaughtonđã có gửi công điện cho Đại sứ Taylorđề nghị nên không vận Lữ Đoàn 173 NhảyDù của Lục Quân Hoa Kỳ từ Okinawa thay vì đổbộ lữ đoàn TQLC như đã dự tính.  Lý do: không vận một lữđoàn khinh binh nhảy dù vào phi trường Đà Nẵngsẽ “êm ả” hơn rất nhiều so với việcđổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng của mộtlữ đoàn TQLC với chiến xa, xe lội nướcvà các vũ khí nặng khác cùng với sự hiện hiệncủa cả một tiểu hạm đội các tàu đổbộ.  Tướng Westmorelandvà Đại sứ Taylor không đồng ý.  Đô Đốc Sharp, CINCPAC,cũng phản đối và yêu cầu giữ nguyên kếhoạch đổ bộ lữ đoàn TQLC đã chuẩnbị. Ngày 7-3, JCS chuẩn nhận khuyến cáo củaĐô Đốc Sharp và gởi công điện chỉ thịđổ bộ ngay lữ đoàn TQLC.  Cuộc đổ bộ bắtđầu vào 9 giờ sang ngày hôm sau, 8-3-1965. (…Evidently,this “inconspicuous way” statement had some effect on U.S. officials inWashington.  On 3 March, AmbassadorTaylor received a message from Assistant Secretary of Defense John T.McNaughton stating that it was desirable to deploy the Army’s 173d AirborneBrigade by air from Okinawa instead of the 9th MEB.  Some Washington planners obviously believedthat the light infantry of an airborne brigade landing at Da Nang airfieldwould be a “quieter arrival” than the more formidable appearance of a Marinebrigade with its tanks, amphibian tractors, and other heavy weapons arriving inan armada of amphibious ships.  GeneralWestmoreland, supported by the American Ambassador, immediately objected to theproposed change….Admiral Sharp, Commander in Chief, Pacific, cabled the JCS: “…Irecommend the MEB be landed at Da Nang as previously planned.”  The objections to the MEB landing wereoverruled and on 7 March 1965 (6 March 1965, Washington time) the JCS sent thelong-awaited signal to land the 9th MEB at once with two of itsthree BLTs.”) 15   

Như chúng ta vừa duyệt lại toànbộ diễn tiến của việc đổ bộ lữđoàn TQLC Hoa Kỳ vào Đà Nẵng, chúng ta đã có thểthấy rõ là hoàn toàn không có việc “Washington quyết định nhanh và Đại sứTaylor cũng có phần bị bất ngờ” nhưtrong cuốn hồi ký của tác giả Bùi Diễm khi ôngthuật lại câu trả lời của Thủ TướngPhan Huy Quát vào buổi sáng ngày 8-3-1965. Mọi việc đãdiễn ra một cách trật tự, có kế hoạch rõràng với sự tham gia rất tích cực của Đạisứ Taylor và còn có phần nào chậm hơn dự tính củaĐại sứ Taylor.  Nhưđã trình bày bên trên, chúng ta tin rằng tác giả Bùi Diễmkhông có động cơ nào khiến cho ông phải che giấu,không nói sự thật.  Vềphần Thủ Tướng Phan Huy Quát thì cũng không có lýdo gì khiến ông phải che giấu, không nói sự thậtvới người cộng tác gần gũi và thân tín nhứtcủa ông là tác giả Bùi Diễm, lúc đó đang giữchức vụ Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướngtrong Nội các của ông.  Chúngta có thể tin rằng câu trả lời của ThủTướng Phan Huy Quát cho câu hỏi của ông BộTrưởng Phủ Thủ Tướng Bùi Diễm là ôngnói thật, đúng như ông nghĩ và tin.  Như vậy sự thật lànhư thế nào?

Dựa trên nội dung của công điệnmà Đại sứ Taylor gửi về cho Bộ NgoạiGiao, đề ngày 2-3-1965, đã nêu bên trên, trong đó ôngđề nghị một thời khóa biểu cho việcđổ bộ cũng như dự thảo cho một bảngthông cáo báo chí, chúng ta có thể nhận ra hai điềunhư sau:

-      Ông dự định gặp lạiThủ Tướng Quát và hai Tướng Thiệu và Minh vàongày hôm sau, tức là ngày 3-3-1965, để tổng kếttình hình, và đề nghị công bố bảng thông cáo báochí vào lúc 5 giờ chiều cùng ngày và lữ đoàn TQLC sẽđổ bộ vào sáng sớm ngày hôm sau nữa, tức làngày 4-3-1965.

-      Trong dự thảo của bảngthông cáo báo chí mà ông đề nghị Bộ Ngoai Giao xétđể chấp thuận, ông ghi là việc đổ quânvào Đà Nẵng này là do yêu cầu của Chính phủ ViệtNam.

Cuộc họp với Thủ TướngQuát mà Đại sứ Taylor dự định đã khôngdiễn ra được vì ngay ngày hôm đó, ngày 3-3, ông nhậnđược công điện của Thứ TrưởngQuốc Phòng McNaughton đề nghị thay thế lữđoàn TQLC bằng Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù.  Ông và Tướng Westmoreland đềukhông đồng ý với đề nghị thay đổinày và cả 2 ông phải phản ứng ngay như chúng tađã thấy bên trên.  Phảimất mấy ngày thì việc này mới giải quyếtxong ớ cấp cao và ngày 7-3 JCS mới có thể gửicông điện bật đèn xanh cho cuộc đổ bộ,chậm hơn thời điểm mà ông đề nghịmất 3 ngày.  Công điện củaJCS ghi rõ là phài thực hiện cuộc đổ bộ ngay lập tức (at once).  Tuy nhiên khi Chuẩn TườngKarch, Tư Lệnh 9th MEB, nhận đượccông điện nầy là giữa khuya nên cuộc đổbộ đã không thể thực hiện ngay lập tức được như lệnhtrong công điện mà phải chờ đến sáng hôm sau,tức là ngày 8-3.  Rất có thểlà Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn cũng nhậnđược công điện này vào giữa khuya củangày 7-3 nên Đại sứ Taylor chỉ có thể báo tin choThủ Tướng Quát vào sáng sớm ngày 8-3 như tác giảBùi Diễm đã thuật lại trong cuốn hồi ký củaông.

Việc đưa lữ đoàn TQLC HoaKỳ này vào Đà Nẵng đã được thực hiệnnhư sau:

-      Đổ bộ Tiểu Đoàn 3của 9th MEB, mà Tiểu Đoàn Trưởng làTrung Tá Charles E. McPartlin, Jr., lên bãi Red Beach 2 (code-name dành cho bãibiển Mỹ Khê của Đà Nẵng), phía Bắc củaphi trường Đà Nẵng và phía Tây của thành phốĐà Nẵng, bắt đầu từ lúc 9 sáng ngày 8-3-1965

-      Không vận Tiểu Đoàn 1 của9th MEB, mà Tiểu Đoàn Trưởng là Trung TáHerbert J. Bain, từ Okinawa (Nhật Bản) đến phitrường Đà Nẵng, bắt đầu từ 1 giờtrưa ngày 8-3-1965


Bản đồ khu vực Đà Nẵng.

Trên thực tế, từ cuối tháng2-1965, lữ đoàn TQLC này đã nhận được lệnhchuẩn bị và tập dượt cho cuộc đổbộ này.  Bản thân ChuẩnTướng Karch, Tư Lệnh lữ đoàn và bộ thammưu của ông, đã đến Sài gòn vào ngày 25-2 đểgặp Tướng Westmoreland, Tư Lệnh MACV, và hai ngàysau đó, tức là ngày 27-2, đã ra Đà Nẳng đểgặp Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I củaQLVNCH, để bàn về cuộc đổ bộ.  (“GeneralKarch and members of his staff once more visited General Westmoreland on 25February to discuss plans for a Marine landing at Da Nang.  The MEB commander left Saigon two days laterfor Da Nang where he coordinated his plans with the South Vietnamese I CorpsCommander, Major General Nguyen Chanh Thi, the virtual warlord of SouthVietnam’s five northern provinces.”) 16

Căn cứ trên các chứng cớ vừakể trên, chúng ta có thể khẳng định điềusau đây: Hoa Kỳ đã hoàn toàn đơn phương quyếtđịnh về việc đổ bộ lữ đoànTQLC này vào Đà Nẵng và sau đó mới thông báo cho ThủTướng Phan Huy Quát.  Dođó, việc Đại sứ Taylor ghi vào trong bản dựthảo của thông cáo báo chí cái câu “việc đổ quân vào Dà Nẵng này là do yêu cầucủa Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa” là hoàn toànkhông đúng sự thật lịch sử.

 

Thay Lời Kết

           Việc Lữ Đoàn 9thMEB của TQLC Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵngngày 8-3-1965 là một sự kiện về chính trị và quânsự rất quan trong trong lịch sử của ChiếnTranh Việt Nam vì nó đánh dấu việc Hoa Kỳ quyếtđịnh đưa quân bộ chiến (ground combat troops)vào Việt Nam, thật sự bắt đầu việc leothang trong cuộc chiến này. Việc này hoàn toàn do Hoa Kỳ đơn phươngquyết định rồi mới thông báo cho Chính phủVNCH do Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng.  Thủ Tướng Quát, chắcchắn do cách thông báo của Đại sứ Hoa KỳMaxwell Taylor, chỉ nhìn sự việc này như một sựkiện thuần túy quân sự nhằm hỗ trợ cho mộtchính sách quân sự đã được hai chính phủ Mỹ-Việtthông qua từ trước: đó là Chiến dịch RollingThunder của Hoa Kỳ nhằm oanh tạc liên tục MiềnBắc bằng phi cơ xuất phát từ các hàng không mẫuhạm ngoài khơi Biển Đông và các căn cứ khôngquân trong nội địa mà phi trường Đà Nẵnglà căn cứ quan trọng nhứt.  Thông cáo báo chí chung của hai chínhphủ Việt-Mỹ cho biết nhiệm vụ duy nhứtcủa lữ đoàn TQLC chỉ là để tăng cườngviệc bảo vệ an ninh cho phi trường Đà Nẵng.  Ba tháng sau, Chính phủ Phan Huy Quát từnhiệm, và Nội các Chiến tranh do Thiếu TướngNguyễn Cao Kỳ lãnh đạo ra đời.  Hoa Kỳ ồ ạt đổquân bộ chiến vào VNCH. Đến cuối năm 1965, tổng số quân củaHoa Kỳ tại VNCH đã lên đến trên 184,000 người.17    

 

Ghi Chú:

1.    Bùi Diễm with David Chanoff.  In thejaws of history ; foreword by Jane Hamilton-Merritt.  Bloomington: Indiana University Press,1999.  Tr. 131.

2.    Taylor, Maxwell D.  Swordsand plowshares.  New York: W.W.Norton, 1972.  Tr. 337-338.

3.    Westmoreland, William C.  Asoldier reports ; new foreword by the author.  New York: Da Capo Press, 1989.  Tr. 122.

4.    Westmoreland, sđd, tr. 123.

5.    Rolling Thunder là bí danh (code name) đặtcho chiến dịch của quân lực Hoa Kỳ nhằmoanh tạc liên tục Miền Bắc Việt Nam bằngphi cơ xuất phát từ các hàng không mẫu hạm ngoàikhơi Biển Đông và từ các căn cứ không quântrong đất liền mà căn cứ Đà Nẵng lá quantrọng nhứt.

6.    AlexJohnson and Ambassador Taylor call on Prime Minister Quat to discuss RollingThunder and the introduction of Marines into Danang, trongcơ sở dữ liệu DeclassifiedDocuments Reference System (DDRS). Tài liệu này là một công điện loại TốiMật (Top Secret) của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tạiSài Gòn gửi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đềngày 1-3-1965, giải mật ngày 5-6-1985, gồm 2 tr.

7.    AmbassadorTaylor proposes sequence of events for timing of landing of two Marines CorpsBattalions in the Danang area, trong cơ sở dữliệu DDRS.  Tài liệu này là một công điệnloại Tối Mật (Top Secret) của Tòa Đại sứHoa Kỳ tại Sài Gòn gửi về Bộ Ngoại Giao HoaKỳ, đề ngày 2-3-1956, giải mật ngày 6-5-1985, gồm2 tr.  Tướng DePuy đềcập đến trong công điện là Chuẩn TướngWilliam E. DePuy, lúc đó là J-3 (tức Trưởng Ban 3, HànhQuân) của MACV.  Ngườiđược ghi là General Thang có thể là tên bị viếtsai của Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang, Tư LệnhTQLC của QLVNCH.  MEB là chữviết tắt cho Marine Expeditionary Brigade.

8.    Bùi Diễm, sđd, tr. 132.

9.    Gibbons, William Conrad.  TheU.S. Government and the Vietnam War: executive and legislative roles andrelationships.  Part III: January – July1965.  Princeton, N.J.: PrincetonUniversity Press, 1989.  Tr. 122.

10.   Gibbons, sách vừa dẫn ngay bêntrên, tr. 123.

11.   Shulimson, Jack và Charles M. Johnson.  U.S.Marines in Vietnam: the landing and the buildup   1965. Washington, D.C.: U.S. Marines Corps, History and Musuems Division,1978.  Tr. 9.  (Tài liệu này hiện nay có thểđược truy dụng toàn văn trực tuyến tạiđịa chỉ Internet sau đây: https://ehistory.osu.edu/books/1965)

12.  Shulimson, sách vừa dẫn bên trên,cùng tr. 9. Ghi chú thêm của tác giả: Các ngày ghi trong tài liệunày sai biệt đi 1 ngày (chậm hơn 1 ngày) so với cácngày ghi trong các công điện của Tòa Đại sứHòa Kỳ tại Sài gòn gửi về Bộ Ngoại Giaotrích dẫn ở các ghi chú số 6 và số 7 bên trên; lỳdo có thể là tải liệu này sử dụng các ngày ờWashington vốn đi sau Sài gòn 1 ngày.

13.  AmbassadorTaylor proposes sequence of events…, tài liệu đã dẫnbên trên.

14.  Shulimson, sđd, tr. 9.

15.  Shulimson, sđd, tr. 9.

16.  Shulimson, sđd, tr. 9.

17.  Consố chính xác là 184, 314 ghi nhận trong 1965 in the Vietnam War (trongWikipedia), tài liệu điện tử trực tuyến cóthể truy cập tại địa chỉ sau đây:

https://en.wikipedia.org/wiki/1965_in_the_Vietnam_War