Chiến sự Vàm Nao – Cổ Hũ (1834) dưới góc nhìn sinh thái

Lê Công Lý*

Tóm tắt

Sông Vàm Nao – Cổ Hũ ví như ‘Quỷ Môn quan’, yết hầu của hệ thống Mekong, nên cuộc chiến tại đây đương nhiên mang tính sinh tử. Cuộc chiến này chỉ diễn ra 20 ngày nhưng thể hiện được đầy đủ trí tuệ và bản lĩnh của thủy quân Việt trước quân Xiêm xâm lược đông gấp hàng chục lần. Trong đó chủ yếu là kĩ năng lợi dụng thủy triều và sức gió để lấy yếu chống mạnh.

Từ khóa: Vàm Nao, Cổ Hũ, nhà Nguyễn, Xiêm.

Abstract

THE BATTLE OF VAM NAO – CO HU (1834) FROM AN ECOLOGICAL ARROACH

Vam Nao - Co Hu river is like the ‘Demon Gate’ and the throat of the Mekong system, so the batle here is the vital fighting. This batle only lasted 20 days but fully demonstrated the intelligence and bravery of the Vietnam navy against the invading Siam force that was dozens of times crowded more. In which, there is mainly the skill of taking advantage of tides and wind to use the weak fight against the strong.

Keywords: Vam Nao, Co Hu, Nguyen dynasty, Siam.

NỘI DUNG

1. Lịch sử sông Vàm Nao đến giữa thế kỉ XIX


Hình 1: Sông Vàm Nao trong hệ thống Mekong, 2023. Lê Công Lý kí chú.

Sông Tiền và sông Hậu tuy chảy gần như song song nhau và cách nhau chỉ vài chục cây số nhưng trong gần suốt lịch sử hàng ngàn năm chỉ xuất hiện các con rạch nhỏ nối chúng với nhau, trong đó đáng kể nhất là rạch Vàm Nao và rạch Lấp Vò. Mãi đến năm 1844, nhà Nguyễn cho đào kênh Vĩnh An (kênh Long An/ kênh Tân Châu), nối sông Tiền với sông Hậu, đầu trên (phía sông Tiền) rộng 6 trượng (20m), đầu dưới (phía sông Hậu) rộng 3 trượng[1] (10m).

Sách Gia Định thành thông chí (1820?) [2] ghi nhận rạch Vàm Nao chỉ rộng 8 tầm [3] (20m), rạch Lấp Vò (Cường Thành giang) chỉ rộng 12 tầm [4] (30m).

Trở lên trên là các kênh rạch lớn nối sông Tiền và sông Hậu. Để thoát nước từ sông Hậu ra biển Tây, đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn đã cho đào kênh Thoại Hà (1817, rộng 8 tầm/ 20m[5]) và kênh Vĩnh Tế (1819 – 1824, rộng 7 trượng[6]/ 23,1m).

Các kênh nói trên đã chi phối một phần đáng kể lưu lượng của sông Hậu ra biển Tây. Điều đáng nói là, khác với biển Đông, biển Tây hoạt động theo chế độ nhật triều với biên độ triều thấp, triều cường yếu hơn nên có khả năng thu hút cao đối với lưu lượng của sông Hậu. Và sự thu hút này cũng gián tiếp ảnh hưởng đến sông Tiền thông qua các kênh rạch nối sông Tiền với sông Hậu như: rạch Vàm Nao, kênh Vĩnh An, rạch Lấp Vò…

Trong số đó, rạch Vàm Nao do ở vị trí đặc biệt:

  1. Có đường đi ngắn nhất từ sông Tiền qua sông Hậu (6km so với 20km đối với kênh Vĩnh An và kênh Lấp Vò), do đó sách Gia Định thành thông chí gọi là Tấn Giao 汛洨 (đúng ra là Vàm Giao 汎洨).

  2. Gần biển Tây hơn kênh Vĩnh An và kênh Lấp Vò.

Do vị trí đặc biệt đó mà rạch Vàm Nao đóng vai trò phân lưu quan trọng nhất trong việc chia nước từ sông Tiền sang sông Hậu để thoát ra biển Tây. Do mực nước sông Hậu thấp hơn sông Tiền nên áp lực dòng chảy điều tiết qua sông Vàm Nao rất lớn, dòng nước chảy rất xiết dẫn đến sụp lở đôi bờ theo thời gian. Điều này được ghi nhận qua nhiều sách vở, trong đó có bài thơ “Đi thuyền qua núi Sập” (1848) của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa:

Núi Sập sấm rền vang tiếng muỗi,
Vàm Nao nước chảy đứt đuôi xà
[7].

Kết quả là, kể từ năm 1838, sông Vàm Nao đã có bề rộng khoảng phân nửa bề rộng sông Hậu, tức khoảng 100m[8].

Hình 2: Sông Vàm Nao trong AnNam đại quốc họa đồ, 1838. Lê Công Lý kí chú.

Hình 3: Sông Vàm Nao (trái) và sông Cổ Hũ (phải) trong bản đồ Cochinchine 1858. Lê Công Lý kí chú.

Do sông Vàm Nao là đoạn giáp nước (giao thuỷ) nên trên sông thường có các xoáy nước lớn rất nguy hiểm, ghe tàu đến đó phải hết sức cẩn thận. Đặc biệt, sông Vàm Nao thường nổi sóng lưỡi búa vô cùng nguy hiểm cho ghe thuyền. Theo Nguyên Hùng, đây là kiểu sóng chụp cả bốn bề của chiếc ghe nên tài công không thể xoay trở được. Tại vàm sông này về phía sông Hậu có miễu thờ bà Thuỷ, mỗi lần tàu chạy ngang ngã 3 Vàm Nao đều phải súp-lê (hú còi) chào bà Thuỷ. Nhiều chủ ghe phải tới miễu Bà cúng vái cầu khẩn để mong tai qua nạn khỏi[9].

Do đó, hình ảnh con đò đưa khách sang sông Vàm Nao thật kiên cường, bản lĩnh:

         Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Vàm Nao
. (Ca dao)

Mặc dù sông Vàm Nao chảy xiết nguy hiểm như vậy nhưng vì là đường thuỷ ngắn nhất nối sông Tiền và sông Hậu nên ghe thuyền vẫn phải lưu thông, vì thế triều Nguyễn có đặt một phần thủ 分守ở bờ bắc sông này (Vàm Nao), sát ngã ba với sông Hậu để giữ an ninh và thu thuế đường sông, gọi là 橫汛守Hoành Tấn thủ.

Đồng thời, để thể hiện ước vọng bình yên trên đoạn sông này, nhà Nguyễn đổi tên Vàm Nao/ Vàm Giao thành Thuận Giang 順江, Thuận Cảng 順港 [10] (cảng 港nghĩa là đường thủy đi tắt cho ghe thuyền tiện lưu thông). Từ đó, đồn thủ tại đây cũng gọi là Thuận Tấn 順汛.

Tóm lại, có thể tóm tắt lịch sử chuyển dòng và phát triển của sông Vàm Nao từ đầu thế kỉ XIX đến nay như sau:

Bảng 1: Tóm tắt lịch sử chuyển dòng và phát triển của sông Vàm Nao từ đầu thế kỉ XIX đến nay

Năm ghi nhận

Hướng dòng chảy

Bề rộng

1808 [11]

Bắc – Nam

8 tầm (20,48m)

1838 [12]

Bắc Đông Bắc – Nam Tây Nam

½ sông Hậu

1858 [13]

Đông Bắc –Tây Nam

½ sông Hậu

2023

Đông Bắc –Tây Nam

700m

Với vai trò nối sông Tiền sông Hậu và qua đó gián tiếp liên thông giữa biển Đông và biển Tây ngay ở nội địa, sông Vàm Nao thực sự chính là dòng “sông giữa” mang nhiều đặc tính trung gian, chuyển tiếp và điều tiết của nhiều vùng địa lí khác nhau. Chính vì vậy mà hệ sinh vật (chủ yếu là cá) trên sông Vàm Nao cũng rất phong phú, đa dạng, có sức thu hút đặc biệt. Phần lớn các nguồn lực tinh lọc của hệ thống sông Mekong hầu như đều tập trung tại khúc sông ngắn này.

Sông Vàm Nao chảy theo hướng đông bắc – tây nam, đủ thấy bản chất của nó là một nhánh thoát nước của sông Tiền. Hiện nay sông này chỉ dài khoảng 6km với bề rộng khoảng 700m. Tuy nhiên, hiện trạng đó là kết quả của hiện tượng nắn dòng của sông Tiền mà chủ yếu là sự xói lở bờ nam sông Vàm Nao. Các bản đồ có niên đại giữa thế kỉ XIX cho thấy sông Vàm Nao chếch về hướng bắc nhiều hơn và độ dài khoảng 10km, độ rộng khoảng phân nửa sông Hậu, tức khoảng 100m.

Đương thời sông Vàm Nao chính là đường thủy thuận tiện nhất liên thông giữa sông Tiền và sông Hậu phía thượng lưu.

2. Chiến sự Vàm Nao – Cổ Hũ (1833 – 1834) dưới góc nhìn sinh thái

Cuối năm Minh Mạng thứ 14 (Quý Tị 1833), quân Xiêm nhân cơ hội ngàn năm có một[14], đem khoảng 5 vạn quân thủy bộ, chia làm 2 đạo sang xâm lược Nam Kì. Sau khi chiếm Phnom-pênh (lúc đó dưới quyền cai quản của nhà Nguyễn), bộ binh Xiêm phối hợp cùng thủy quân đánh chiếm Châu Đốc rồi theo sông Hậu xuôi xuống Vàm Nao.

Do biết được Vàm Nao chính là ‘chìa khóa’ của hệ thống sông Me-kong và cả miền Tây nên đại quân Xiêm lập đồn lũy tại đây: bờ Đông sông Hậu và cả hai bờ Nam (đồn Tả) và Bắc (đồn Hữu[15]) trên sông Vàm Nao. Đây là vị trí đắc địa, có thể khống chế toàn bộ hệ thống sông Tiền và sông Hậu, khi thắng thì có thể tiến chiếm Mĩ Tho rồi đến đầu não Sài Gòn; khi thua thì có thể rút nhanh theo sông Hậu và kinh Vĩnh Tế để thoát ra biển Tây an toàn. Hơn nữa, địa điểm này cũng thuận tiện để viện binh Xiêm tiếp ứng từ phía biển Tây.

Về phía Việt, tuy lực lượng chỉ có vài ngàn quân, nhưng cũng nhanh chóng đem quân áng ngữ nơi hiểm yếu là Thủ Chiến Sai, bên bờ Tả sông Cổ Hũ (tên đoạn sông Tiền nằm giữa cù lao Tây và cù lao Giêng), đồng thời lập hai đồn Tả và Hữu hai bên bờ sông Cổ Hũ để làm thế nương tựa. Song song đó, tại doi đất cực Nam của cù lao Tây, tức ngay ngã ba sông, đầu đoạn sông Cổ Hũ, cho đặt phong hỏa đài để kịp thời báo động địch tình, dân gian gọi là Doi Lửa.

Đoạn sông Cổ Hũ này là đoạn co thắt kế bên đoạn phình to trên sông Tiền, nên cũng đóng vai trò giống như ‘chiếc phễu’, tạo điều kiện cho việc kiểm soát đường thủy vô cùng hiệu quả[16]. Như vậy, sông Vàm Nao nối liền với đoạn sông Cổ Hũ rõ ràng giữ vai trò quan yếu, yết hầu trên hệ thống Me-kong, nên được cả hai bên chọn làm nơi quyết chiến[17].

Cuộc chiến 20 ngày đêm tại Vàm Nao – Cổ Hũ chủ yếu là thủy chiến dựa vào sức nước, sức gió và và sở trường điều động binh thuyền. Đáng lưu ý là cả quân Việt lẫn Xiêm đều có sở trường thủy chiến nên cuộc chiến vô cùng cam go mà thế yếu rõ ràng nghiêng vế phía Việt:

  1. Nhà Nguyễn đang buộc phải phân tán lực lượng: vừa bao vây hạ thành Phiên An, tiêu diệt nội phản ở bên trong, vừa đối phó ngoại xâm;

  2. Nhà Nguyễn cùng lúc phải đối phó thêm 3 mũi tấn công khác từ đất liền cũng của quân Xiêm: Quảng Trị, Nghệ An và Tây Ninh;

  3. Ở sông Tiền và sông Hậu, quân Xiêm đang chiếm thượng lưu nên có ưu thế hơn;

  4. Cuộc chiến diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị Tết truyền thống Việt Nam, nên việc tập trung mọi nguồn lực gặp khó khăn hơn[18].

  5. Do địa thế sông nước nên các cuộc tiến công của cả hai phe chủ yếu đều sử dụng thủy quân, do đó phải dựa vào thủy triều và sức gió để tiến thoái:

  6. Trên sông Cổ Hũ: Do quân Xiêm đang chiếm thượng lưu nên quân Việt phải lợi dụng lúc triều lên (nước lớn) còn quân Xiêm lợi dụng lúc triều xuống (nước ròng) để tiến công.

  7. Trên sông Vàm Nao: Khi triều xuống, nước sẽ rút về phía sông Hậu, trong khi đang ở phía sông Tiền, nên quân Việt phải lợi dụng lúc triều xuống để xuôi dòng tiến công.

Bảng 2: Tóm lược chiến sự Vàm Nao – Cổ Hũ (1834) và việc lợi dụng thủy triều[19]

Ngày âm lịch

Ngày dương lịch

Giờ

Thủy triều[20]

Phe chủ động

Địa điểm tác chiến

Kết quả

Ghi chú

Mùng 4 tháng chạp năm Quý Tị 13/01/1834 15g – 17g Đang xuống Việt Đồn Tả & Hữu đầu s.Vàm Nao Xiêm rút vào giữa s. Vàm Nao. Triều xuống, nước s. Vàm Nao chảy từ s.Tiền sang s.Hậu.
Mùng 5 tháng chạp 14/01/1834 1g – 3g Đang lên Việt S.Vàm Nao -
5g – 11g Cực đại Việt Việt chiếm được đồn Tả
13g – 15g Cực tiểu Việt Việt chiếm được đồn Hữu Triều xuống, nước s. Vàm Nao chảy từ s.Tiền sang s.Hậu.
Mùng 5 tháng chạp 14/01/1834 1g – 3g Đang lên Việt S.Vàm Nao -
5g – 11g Cực đại Việt Việt chiếm được đồn Tả
13g – 15g Cực tiểu Việt Việt chiếm được đồn Hữu Triều xuống, nước s. Vàm Nao chảy từ s.Tiền sang s.Hậu.
12 tháng chạp 21/01/1834 13g – 15g Cực tiểu Việt Đồn Tả & Hữu giữa s.Vàm Nao Việt chia quân lên bộ, đánh đồn Hữu, bị thua. Quân Việt ít, chia nhỏ nên thất lợi.
16 tháng chạp 25/01/1834 7g – 9g Đang xuống Xiêm Sông Cổ Hũ Xiêm thua, rút
21 tháng chạp 30/01/1834 3g – 11g Đang xuống Xiêm Sông Cổ Hũ Xiêm đánh hỏa công nhưng không tác dụng. Vì quân Việt đã phòng bị, rút thuyền chiến vào sát bờ.
23 tháng chạp 01/02/1834 Sáng sớm Đang xuống Xiêm Đồn Hữu sông Cổ Hũ (của Việt) Xiêm thua, rút Vì Việt biết trước, phục kích.
24 tháng chạp 02/02/1834 1g – 3g Đang lên Xiêm S.Vàm Nao Xiêm rút theo sông Hậu về Châu Đốc. Triều lên giúp thuyền chiến Xiêm theo s.Hậu xuôi về Châu Đốc.
Mùng 3 tết Giáp Ngọ 11/02/1834 Sáng sớm Cực đại Việt Thành Châu Đốc Thu lại thành Xiêm đã đốt hết kho tàng, rút lúc khuya.
5 tết Giáp Ngọ 13/02/1834 - - Việt Hà Tiên Thu lại thành

Bảng trên cho thấy, tuy quân Xiêm xâm lấn bất ngờ với lực lượng áp đảo trong khi quân nhà Nguyễn đang phải chia ra rất nhiều chiến trường nên lực lượng quá mỏng, nhưng với lòng quả cảm của người nắm chắc địa thế và đặc điểm thủy văn, quân Nguyễn đã nhanh chóng kéo quân đến chiến trường và chủ động tấn công (“Tiên phát chế nhân”), khiến quân Xiêm từ thế chủ động ban đầu, nhanh chóng trở nên bị động.

Ngoài khả năng lợi dụng thủy triều, quân Nguyễn còn lợi dụng được sức gió để lợi thế nghiêng về phía mình. Thật vậy, giai đoạn này gió mùa Đông Bắc đang thổi ròng, trong khi nhìn chung quân Việt đang ở phía Đông còn quân Xiêm đang ở phía Tây. Chính sức gió tạo thuận lợi cho thuyền buồm và đường đi của các loại đạn pháo cũng như tránh được khói súng và vật liệu cháy nổ cho quân Việt khi sử dụng hỏa công. Cuộc chiến này cả hai phe chủ yếu sử dụng hỏa lực của thủy quân, nên hướng gió có ảnh hưởng rất lớn, thậm chí quyết định thắng bại.

3. Kết luận

Do nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa hai chế độ thuỷ văn nên sông Vàm Nao trở thành sinh lộ của không chỉ các loài cá di trú mà của cả con người. Có thể nói, sông Vàm Nao giống như chiếc “chìa khoá” của sông Tiền và sông Hậu, là “yết hầu” của miền Tây. Và, với vai trò là “giao điểm” giữa hai nhánh lớn của sông Mekong như vậy, có thể nói sông Vàm Nao có thể ví như chiếc “chìa khoá” của cả Đồng bằng sông Cửu Long.

Đồng thời, đoạn sông Cổ Hũ thu gọn hai nhánh sông Tiền bao bọc cù lao Tây xuống và cả từ sông Vàm Nao sang, giống như lối vào rọ bắt buộc phải đi nếu muốn xuôi về hạ lưu sông Tiền để đi sâu vào nội địa miền Tây. Do đó, có thể nói, hai đoạn sông Vàm Nao và Cổ Hũ ví như “Quỷ Môn quan” đường thủy, là cửa ngõ sinh tử của cả miền Tây Nam Kì.

Cuộc chiến Vàm Nao – Cổ Hũ chỉ diễn ra 20 ngày, cho thấy rõ cả 2 phe đều nắm rất kĩ địa thế và đặc điểm thủy văn của hệ thống Me-kong, mà chủ yếu là hai đoạn sông Vàm Nao và Cổ Hũ. Chỉ có điều, phe nào biết sử dựng, ứng biến linh hoạt sẽ chiếm ưu thế.

Phe Việt Nam tuy lực lượng ít hơn Xiêm rất nhiều (1 chọi 15), nhưng nhờ sở trường thủy chiến, vận dụng hiệu quả thủy triều và sức gió nên đã chiến thắng thần tốc chỉ trong 20 ngày.

Đó không chỉ đơn thuần là chiến thắng của hỏa lực, mà chủ yếu nhờ vào hiểu biết sâu sắc về đặc điểm sinh thái sông nước, khí hậu, cộng với lòng quả cảm của dân Việt đồng lòng chống giặc ngoại xâm.

Chiến công Vàm Nao – Cổ Hũ do đó quả thật là kết tinh đỉnh cao trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam.

─────────────

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Bảo Định Giang (1988), Bùi Hữu Nghĩa – con người và tác phẩm, Nxb TP.HCM.

  2. Lê Công Lý (2016), “Tìm hiểu đặc điểm sinh thái sông Vàm Nao”, Văn hoá – Lịch sử An Giang , số 140, tr.13,14,18.

  3. Lê Quang Định (1808, tái bản 2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Phan Đăng dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế.

  4. Nguyên Hùng (1995), Đệ nhất cù lao, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.

  5. Nguyễn Hữu Hiệp (2015), Nghề Bà Cậu – Văn hoá đánh bắt cá ở An Giang, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

  6. Nhiều tác giả (2013), Địa chí An Giang, UBND tỉnh An Giang xb.

  7. Nhiều tác giả (2023), Kỉ yếu hội thảo khoa học Lịch sử 190 năm chiến thắng quân Xiêm trên sông Vàm Nao – Cổ Hũ (1833 – 2023), Hội Khoa học lịch sử tỉnh An Giang - Huyện ủy& UBND huyện Chợ Mới tổ chức, TT.Chợ Mới, 14/4/2023.

  8. Nội các triều Nguyễn (1836, tái bản 2012), Khâm định tiễu bình Nam Kì nghịch phỉ phương lược chính biên, Đỗ Mộng Khương – Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

  9. Phan Anh Tuấn (2008), “Một số đặc trưng dòng chảy mùa kiệt và tỉ lệ phân lưu qua sông Vàm Nao qua phân tích tài liệu thuỷ văn”, trong Tuyển tập kết quả Khoa học và Công nghệ 2008, Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

  10. Quốc sử quán triều Nguyễn (1821–1909, tái bản 2004), Đại Nam thực lục chính biên, tập 4, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

  11. Quốc sử quán triều Nguyễn (1821–1909, tái bản 1972), Đại Nam thực lục chính biên , Đệ nhị kỉ, quyển 117 (bản chữ Hán), tập 9, The Oriental Institute, Keio University, Tokyo, Japan.

  12. Quốc sử quán triều Nguyễn (1865–1882, tái bản 1959), Đại Nam nhất thống chí , Lục tỉnh Nam Việt, Nha Văn hóa – Bộ Quốc gia Giáo dục xb, Sài Gòn (tỉnh An Giang).

  13. Trịnh Hoài Đức (1820?, tái bản 2005), Gia Định thành thông chí, Bản dịch của Lý Việt Dũng, Nxb Đồng Nai.

─────────────

CHÚ THÍCH:

* Tiền Giang. ĐT: 0909.533484. Email: lecongly83@gmail.com

[1] Quốc sử quán triều Nguyễn (1865–1882, tái bản 1959), Đại Nam nhất thống chí , Lục tỉnh Nam Việt, Nha Văn hóa – Bộ Quốc gia Giáo dục xb, Sài Gòn, tr.51 (tỉnh An Giang).

[2] Trịnh Hoài Đức (1820?, tái bản 2005), Gia Định thành thông chí , Bản dịch của Lý Việt Dũng, Nxb Đồng Nai.

[3] Sđd, tr.81.

[4] Sđd, tr.84.

[5] Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.84.

[6] Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, Sđd, tr56.

[7] Bảo Định Giang (1988), Bùi Hữu Nghĩa – con người và tác phẩm, Nxb TP.HCM, tr.113.

[8] Kể từ ghi nhận về bề rộng của rạch Vàm Nao (20m) trong sách Gia Định thành thông chí (1820?), trải qua 200 năm, đến nay con rạch này đã tự mở rộng gấp 35 lần, thành sông rộng đến 700m. Quá trình sạt lở tự nhiên đó hiện nay vẫn đang diễn ra mạnh mẽ với mức lên đến khoảng 10m/năm ở bờ nam (huyện Chợ Mới).

[9] Nguyên Hùng (1995), Đệ nhất cù lao, Nxb Văn nghệ, TP.HCM, tr.30.

[10] Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp, tên gọi Thuận Giang, Thuận Cảng thực tế chỉ được dùng để chỉ khúc trên (phía sông Tiền) của sông Vàm Nao. Còn khúc dưới (phía sông Hậu) dân gian vẫn gọi là Vàm Nao (ngã ba Vàm Nao, chợ Vàm Nao, bến đò Vàm Nao).

[11] Theo Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1808) và Gia Định thành thông chí (1820?).

[12] Theo An Nam đại quốc họa đồ, 1838.

[13] Theo bản đồ Cochinchine, 1858.

[14] Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm đất Gia Định (gồm cả Nam Bộ ngày nay). Thất bại trước sự phản công của triều đình, Lê Văn Khôi rút vào cố thủ trong thành Phiên An ở Sài Gòn gần 3 năm (1833 – 1835) rồi viết thư cầu viện quân Xiêm.

[15] Lưu ý: Tả, Hữu ở đây tính theo chiều tiến của quân Việt. Do đó, ở sông Cổ Hũ thì Tả, Hữu tương ứng với bờ Tây và bờ Đông, còn ở sông Vàm Nao thì Tả, Hữu tương ứng với bờ Nam và bờ Bắc.

[16] Đoạn sông này trong Đại Nam quấc âm tự vị (1895) của Huình Tịnh Paulus gọi là sông Cổ Hũ 古[土亏], nhưng Đại Nam thực lục chính biên (Đệ nhị kỉ, Quyển 117) Hán hóa thành Cổ Hỗ giang古[氵互]江.

[17] Gần đây có hiện tượng lấn cấn trong việc xác định chiến sự 1834 diễn ra tại rạch Cổ Hũ hay sông Cổ Hũ. Sự lấn cấn này là do sự trùng tên giữa con rạch nhỏ chảy xuyên xã Long Điền A, Long Điền B (huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) rồi đổ ra sông Tiền tại Chợ Thủ và đoạn sông Cổ Hũ thuộc sông Tiền. Sự trùng tên giữa sông lớn và rạch nhỏ trong trường hợp rạch nhỏ đổ ra sông lớn như vậy cũng thường thấy như: sông Mĩ Tho (một nhánh của sông Tiền, còn gọi là sông Cửa Tiểu) và rạch Mĩ Tho, sông Bến Lức (một đoạn sông Vàm Cỏ Đông) và rạch Bến Lức, sông Vũng Cù (một đoạn sông Vàm Cỏ Tây) và rạch Vũng Cù (Bảo Định), v.v.

Tuy nhiên, rạch Cổ Hũ (= rạch Tú Điền/ rạch Trà Thôn) 200 năm nay vẫn không đổi về độ lớn, vẫn cỡ như ghi nhận trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1808) và Gia Định thành thông chí(1820): rộng 4 tầm (#10m), sâu 3 thước (#1,2m), quá nhỏ hẹp như vậy thì tất cả chiến thuyền đều không thể lưu thông. Huống hồ gì Đại Nam thực lục chính biên miêu tả: “Trước kia bọn Giảng từ Thuận Cảng lui đóng ở sông Cổ Hỗ, đặt đồn ở hai bên bờ làm thế ỷ giốc. Sau đó vài ngày, Tướng quân Tống Phước Lương lại đến. Giặc Xiêm dẫn hơn 100 binh thuyền từ Thuận Cảng xuống, dàn ngang giữa dòng sông [L.C.L. nhấn mạnh], cầm cự chu sư của ta”. Quốc sử quán triều Nguyễn (1821–1909, tái bản 2004), Đại Nam thực lục chính biên , tập 4, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, tr6.

Nếu ở con rạch rộng chỉ 10m thì không thể có cảnh tượng 100 thuyền chiến dàn hàng ngang như vậy được.

Do đó, Cỗ Hũ ở đây phải là sông Cổ Hũ, tức đoạn sông Tiền rộng cỡ 1km, nằm phía nam cù lao Tây, phía bắc cù lao Giêng trên sông Tiền.

Cũng chính vì rạch Tú Điền quá nhỏ hẹp như vậy nên đương thời, Địa bạ thôn Tú Điền (1836) thuộc tổng An Toàn, huyện Đông Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang không nhắc gì đến con rạch này mà chỉ đề cập đến sông lớn ở phía Bắc thôn, tức đoạn sông Cổ Hũ thuộc sông Tiền.

[18] Nước Xiêm ăn tết truyền thống không cùng lúc với Việt Nam mà theo Phật lịch, tương ứng giữa tháng 4 dương lịch.

[19] Theo Nội các triều Nguyễn (1836, tái bản 2012), Khâm định tiễu bình Nam Kì nghịch phỉ phương lược chính biên , Đỗ Mộng Khương – Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr.1234 – 1328.

[20] Tham khảo lịch thủy triều tại cửa biển Định An trên trang https://thegioimoicau.com/lich-thuy-trieu/18/01/2024. Chẳng hạn, lịch thủy triều ngày 18/01/2024: