Kỉ niệm 200 năm (1824 – 2024) khánh thành kinh Vĩnh Tế:
Đi tìm nguồn gốc địa danh Vĩnh Tế

Lê Công Lý

1. Ngộ nhận xưa nay về nguồn gốc địa danh Vĩnh Tế

Trong thư tịch nhà Nguyễn, trước đời Gia Long không thấy ghi nhận địa danh Vĩnh Tế. Đến cuối năm 1819, vua Gia Long mới phê duyệt dự án đào kinh này và ban tên là Vĩnh Tế hà[1]. Lúc này, khu vực dọc kinh Vĩnh Tế còn hoang vu, chưa lập thôn ấp. Mãi đến năm 1836, khi kinh Vĩnh Tế khánh thành đã 12 năm (1824), tiến hành lập địa bạ mới ghi nhận các thôn ấp của người Việt mới lập dọc bờ Nam kinh Vĩnh Tế, thuộc tổng Châu Phú, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Tuy nhiên, do còn mới sơ khai nên địa bạ toàn tổng Châu Phú có 29 thôn (trong đó mất địa bạ 4 thôn) nhưng chỉ ghi nhận được 19 sở ruộng, tổng cộng chỉ hơn 77 mẫu (tương đương khoảng 35ha). Riêng thôn Vĩnh Tế chỉ ghi nhận được duy nhất một sở thổ 5 mẫu 5 sào (tương đương khoảng 2,7ha). Đặc biệt, trong số 29 thôn này có tới 17 thôn có tên bắt đầu bằng chữ Vĩnh( Vĩnh Nguơn, Vĩnh Trung, Vĩnh Bảo, v.v.[2]). Do đó, có thể đoán các thôn này được đặt tên theo tên kinh Vĩnh Tế, nghĩa là ra đời sau khi khánh thành con kinh này (1824).

Ngoài ra, cho đến khoảng năm 1820 là năm Trịnh Hoài Đức hoàn thành bộ sách Gia Định thành thông chí, mặc dù sách có ghi chép về Vĩnh Tế hà , nhưng lại không có ghi chép về núi Sam/ Vĩnh Tế sơn. Mãi đến năm 1828, Thoại Ngọc hầu cho dựng bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi kí thì mới chính thức có tên Vĩnh Tế sơn, tức tên chữ của núi Sam. Tuy nhiên, từ đó đến nay cũng hiếm thấy ai gọi tên núi Vĩnh Tế, mà chỉ gọi là núi Sam. Chẳng hạn, ngay trong địa bạ thôn Vĩnh Tế cũng ghi 本村地分[日山]處 Bổn thôn địa phận Sam Sơn xứ (Địa phận bổn thôn ở xứ Núi Sam).

Ngoài ra, dọc vàm kinh Vĩnh Tế đương thời còn được thiết lập đồn bảo, gọi là đồn Vĩnh Tế. Đó là chưa nói đến sự việc vào năm Minh Mạng thứ 18 (1837), nhà Nguyễn khánh thành Cửu đỉnh - biểu tượng cơ đồ bền vững của triều đại nhà Nguyễn, trong đó, Vĩnh Tế hà 永濟河vinh dự được khắc tên lên Cao đỉnh (đỉnh tượng cho vua Gia Long - vị vua đầu triều Nguyễn).


Hình 1: Vĩnh Tế hà 永濟河 được khắc trên Cao đỉnh ở kinh đô Huế, 1837. Ảnh: Phạm Hoàng Quân.

Tóm lại, địa danh Vĩnh Tế trong thập niên 20, 30 của thế kỉ XIX cực kì nổi tiếng và có sức ảnh hưởng không chỉ ở địa phương mà cả ở kinh đô Huế. Do đó, việc tìm hiểu nguồn gốc của địa danh này là hết sức cần thiết.

Xưa nay, hầu hết các tài liệu nghiên cứu về nguồn gốc địa danh Vĩnh Tế đều chỉ dựa vào suy đoán cá nhân thiếu căn cứ, cho rằng tên gọi kinh Vĩnh Tế được lấy từ tên của bà Châu Thị Tế, phu nhân của Thoại Ngọc hầu, trong đó tiêu biểu là bài khảo cứu “Nguyễn Văn Thoại với sự đào Thoại Hà và kinh Vĩnh Tế” của Ca Văn Thỉnh[3] và chuyên khảo Thoại Ngọc hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang (1971) của Nguyễn Văn Hầu[4]. Ngoài ra, trong cuốn Danh nhân nước nhà (1951), Đào Văn Hội cũng cùng quan điểm như trên[5]. Riêng công trình chuyên khảo gần đây là Thoại Ngọc hầu qua những tài liệu mới (2017) của Trần Hoàng Vũ[6] lại không đề cập đến vấn đề quan trọng này.

Nếu có việc bà Châu Thị Tế được lấy tên riêng của mình để đặt cho hàng loạt địa danh quan trọng và biểu dương lên chiếc đỉnh lớn nhất, tiêu biểu của vương triều Nguyễn thì quả thật đây chính là người phụ nữ nổi tiếng nhất Việt Nam từ xưa tới nay. Nhưng liệu trong giai đoạn đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam như thời Minh Mạng, nhà vua có thể chấp nhận đề cao tột đỉnh vai trò của một người phụ nữ không hề có chức tước[7] gì như bà Châu Thị Tế hay không? Hay đây chỉ là sự ngộ nhận của chính phu quân của bà, tức Thoại Ngọc hầu, rồi sau này lại được suy diễn thêm bởi nhiều lớp hậu bối?

Điều đáng nói là, cho tới nay, sử sách nhà Nguyễn ghi nhận việc vua Gia Long ban tên Vĩnh Tế hàcho kinh đào nối Châu Đốc – Hà Tiên thì có nhiều (chẳng hạn Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ), nhưng chưa ai tìm thấy tài liệu nào của triều đình ghi nhận việc lấy tên người phụ nữ đó đặt tên cho kinh hay tên núi, ngoại trừ nội dung bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi kí do chính chồng bà là Thoại Ngọc hầu tự chế lập[8] chứ hông phải ngự chế (vua thực hiện). Đồng thời, việc dựng bia Vĩnh tế sơn đó cũng không thấy ghi trong sử sách nhà Nguyễn[9].

Mà nếu căn cứ vào nội dung bia Vĩnh Tế sơn đi nữa, thì cũng chỉ ghi nhận công lao bà Châu Thị Tế đã đảm đang nội trợ cho chồng, nhờ vậy mà được vua ban tên bà để đặt tên chữ cho núi Sam, chứ không hề liên quan gì đến việc đào kinh Vĩnh Tế .

Vả lại, tên Vĩnh Tế hà có từ 1819, mà tới 1828 Thoại Ngọc hầu mới chế bia ca ngợi vợ. Nếu quả thật được hoàng ân quốc điển lớn lao như vậy, thì người thân đương làm quan lớn như Thoại Ngọc hầu ắt có đủ điều kiện để khắc bia lưu niệm tức thì để tỏ rõ ân điển của triều đình, chứ khó có chuyện để muộn màng đến 9 năm sau như vậy.

2. Có hay không danh xưng Châu Thị Vĩnh Tế?

Mộ bia bà Châu Thị Tế hiện tồn tại chân núi Sam ghi rõ:

皇越
顯妣命婦朱氏諱濟號閒靜夫人之墓
生於丙戌年四月昧日時
卒於丙戌年十月十五日午時

Hoàng Việt
Hiển tỉ mạng phụ Châu Thị húy Tế, hiệu Nhàn Tịnh phu nhân chi mộ.
Sinh ư Bính Tuất niên[1766], tứ nguyệt, muội nhật thời.
Tốt ư Bính Tuất niên[1826], thập nguyệt, thập ngũ nhật, ngọ thời.


Hình 2: Mộ bia bà Châu Thị Tế tại chân núi Sam. Ảnh: Lê Công Lý.

Điều đó cho thấy rõ, mặc dù bà mất lúc chồng là Thoại Ngọc hầu đương chức Án thủ Châu Đốc đồn kiêm quản quân vụ trấn Hà Tiên, quyền cao chức trọng, nhưng bà cũng không hề được triều đình ban tước gì, cũng không hề được biên chép trong mục Liệt nữ, sách Đại Nam liệt truyện. Nhưng quan trọng hơn, mộ bia ghi rõ họ tên bà là Châu Thị Tế (không có chữ Vĩnh).

Mặc dù thân phụ bà tên Châu Vĩnh Huy, nhưng theo truyền thống Việt Nam, chỉ có con trai mới được đặt tên theo họ kép gồm họ + chữ lót (nếu có) của gia tộc. Ngay cả trong hoàng tộc nhà Nguyễn, cũng chỉ có các hoàng tử được đặt tên khai sinh theo họ kép Nguyễn Phước + tên riêng, còn “tên của hoàng nữ, tôn nữ thường được tùy tiện, không theo quy luật nào cả”[10].

Vả lại, nếu bà Tế có được đặc cách gọi tên theo họ kép của cha đi nữa thì tên bà phải là Châu Vĩnh Thị Tế (mộ bia có ghi rõ chữ Thị 氏), tương tự như tên của Thái hậu Từ Dụ (Phạm Thị Hằng) được ghi trong Đại Nam thực lục Phạm Đăng Thị[11] [Hằng] (đặt theo tên kép của cha là Phạm Đăng Hưng), hay tên khai sinh của Nam Phương hoàng hậu là Nguyễn Hữu Thị Lan (đặt theo họ kép của cha là Nguyễn Hữu Hào). Do đó, nếu nhà vua có tứ danh thì phải là Thị Tế sơn, Thị Tế hà(tương tự như Thị Nghè, Thị Vãi , v.v.) chứ không thể bỏ mất chữ Thị ở giữa được.

Hơn nữa, theo cách tứ danh đương thời (1818) của vua Gia Long (Thoại Sơn, Thoại Hà = tên riêng + Sơn/ ), thì giả sử tên bà Tế được dùng để tứ danh thì sẽ là Tế Sơn, Tế Hà chứ không thể nào là tên kép Vĩnh Tế sơn (1828?), Vĩnh Tế hà (1819) như vậy được. Quan niệm phong kiến không cho phép trọng nữ hơn nam thể hiện qua việc dùng tên kép đối với nữ trong khi lại dùng tên đơn với nam ngay trong cùng một thời điểm và cùng một đôi vợ chồng như vậy.

Đó là chưa nói đến việc, sách Đại Nam thực lục chỉ ghi chép việc vua Gia Long tứ danh Vĩnh Tế hà (không nói rõ lí do đặt tên, cũng không nói gì liên quan bà Châu Thị Tế), và ra lệnh dựng bia kỉ niệm Vĩnh Tế hà chứ không ghi chép việc vua tứ danh Vĩnh Tế sơn. Trong khi đó, thực tế lại trái ngược: Bia Vĩnh Tế hà xưa nay không ai biết tung tích mà chỉ biết bia Vĩnh Tế sơn. Nói cách khác, cho đến nay, hậu thế chỉ nghe nói việc nhà vua tứ danh Vĩnh Tế sơn thông qua bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi kí do Thoại Ngọc hầu dựng chứ không phải từ sử sách nhà Nguyễn. Thiết nghĩ đây chính là một nghi án lớn trong lịch sử địa phương này.

Một vấn đề lớn lao, hệ trọng như vậy mà xưa nay các học giả lại chỉ căn cứ phiến diện vào tấm bia do Thoại Ngọc hầu dựng để truyền tụng về ân điển cao cả của triều đình, bất chấp việc không hề có một văn bản chính thống nào của triều đình ghi nhận việc đó, thì quả thật đáng kinh ngạc!

Càng kinh ngạc hơn nếu chúng ta biết, cũng chính trong tấm bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi kí đó, Thoại Ngọc hầu còn tiến xa thêm một bước dài thậm thượt khi cho rằng nhà vua cho lấy họ (tính) của bà Châu Thị Tế làm tên đất: “地名其姓山名其人寄而表焉歸而藏焉 Địa danh kì tính, sơn danh kì nhân, kí nhi biểu yên, quy nhi tàng yên” (Đất [Châu Đốc] được đặt tên từ họ [của bà Châu Thị Tế], núi [Vĩnh Tế] được đặt tên từ tên [của bà Châu Thị Tế ], sống thì biểu dương nơi đó, thác thì gửi vết tích nơi đó). Ý nói chữ Châu trong Châu Đốc là lấy họ của bà, bất chấp địa danh Châu Đốc đã có từ thời chúa Nguyễn (1757), trước năm bà Châu Thị Tế chào đời (1766)!

Tóm lại, các diễn giải về địa danh Vĩnh TếChâu Đốctrong các tài liệu nêu trên có thể tóm lược như sau:

Bảng 1: Lược thuật nguồn gốc ý nghĩa địa danh Vĩnh Tế và Châu Đốc trong các tư liệu gốc.
(Chú thích: + = Có đề cập;
= Không có đề cập).

“Địa danh Vĩnh Tế sơn lấy tên bà Châu Thị Tế” (1828)

“Địa danh Vĩnh Tế hà lấy tên bà Châu Thị Tế”

“Địa danh Châu Đốc lấy họ bà Châu Thị Tế” (1828)

Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế sơn bi kí (1828)

+ +

Gia Định thành thông chí (1820)

Đại Nam thực lục
(1821–1909)

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1843 – 1851)

3. Đi tìm nguồn gốc ý nghĩa địa danh Vĩnh Tế

Cuối đời Gia Long – đầu Minh Mạng, chế độ phong kiến nhà Nguyễn từng bước hoàn bị, nên bắt đầu triển khai nhiều công trình lớn, trong đó có việc đào kinh vừa nhằm mục đích tưới tiêu cho nông nghiệp, vừa phục vụ giao thông thủy và an ninh quốc phòng.

Các công trình đào kinh này thường được nhà vua đặt tên bằng các mĩ từ thể hiện ước vọng trị an bền vững, chẳng hạn: kinh Thoại Hà (1818), kinh An Thông Hà, kinh Bảo Định Hà (1819), kinh Vĩnh Tế hà (1819 – 1824), kinh Lợi Tế hà (kinh Thủ Đoàn, 1825), kinh Vĩnh An hà[12] (1843 – 1845)…

Trường hợp Vĩnh Tế hà, theo Duy Minh Thị trong sách Nam Kì lục tỉnh địa dư chí (1872) thì “河道大通國計邊籌人民共利因命名曰永濟河[13] Hà đạo đại thông, quốc kế biên trù, nhân dân cộng lợi, nhân mạng danh viết Vĩnh Tế hà (Đường sông mở thông rộng lớn, giúp việc quốc kế miền biên viễn, nhân dân cùng có lợi, do đó mà đặt tên là Vĩnh Tế hà).

Như vậy, Vĩnh Tế ở đây có nghĩa là sẽ đem lại nguồn lợi ích (tế) muôn đời (vĩnh).

Ngoài ra, nếu để ý sẽ thấy hầu hết các con kinh nói trên đều được triều đình đặt tên kèm theo chữ . Chữ 河Hà này trong Khang Hi tự điển giải thích là 河下也隨地下處而通流也 Hà hạ dã, tùy địa hạ xứ nhi thông lưu dã ( là dòng nước thông theo thế đất [từ trên ]xuống dưới). Xem lịch sử các kinh đào lớn bên Trung Quốc thường được gọi là 運河vận hà. Tân Hoa từ điển giải thích: 運河: 人工挖成的可以通航的河 Vận hà: Nhân công oạt thành đích khả dĩ thông hàng đích hà (Vận hà là dòng nước có thể thông thuyền do nhân công đào).

Xã hội Việt Nam đương thời cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là các điển tích xưa bên Trung Quốc thường được sử dụng lại trong tiếng Việt. Ngay cả trong Châu Đốc tân lộ kiều lương bi kí (1828) do Thoại Ngọc hầu lập cũng có nhắc tích xưa “Nhớ ông Tô Đông Pha xưa, lúc trấn nhậm Hàng Châu, gom góp rau cỏ đắp thành bờ đê suốt từ Hàng Châu tới Tây Hồ”[14] để liên hệ với công trình đắp đường từ đồn Châu Đốc tới chân núi Sam do ông chủ trương.

Từ điển Bách khoa (Trung Quốc) có ghi chép về Vĩnh Tế cừ. Đây là một đại vận hà được đào vào năm 608, đời nhà Tùy, dài hơn 2000 dặm, nối sông Hoàng Hà tại Lạc Dương ở phía nam thông lên Trác Quận ở phía bắc, thông ra biển Hoàng Hải[15]. (Đường đi của Vĩnh Tế cừ này tương tự như Vĩnh Tế hà từ Châu Đốc thông ra biển Hà Tiên).

Ngoài ra, sách Hà Cừ khảo của Trung Quốc có chép việc vào năm Vạn Lịch thứ 10 (nhà Minh) có cho đào Vĩnh Tế hà 永濟河dài 70 dặm, khởi từ phía nam thành phố Dao Loan, xuyên qua đập Long Giang…[16].

Xét chẳng hạn tên Cửu Long giang cũng vào đời Gia Long đã được ghi trong sách Gia Định thành thông chí và nêu rõ sông này khởi nguồn từ sông Cửu Long ở Vân Nam (Trung Quốc)[17]. Nói cách khác, tên gọi sông Cửu Long mà hiện nay người Việt dùng phổ biến chính bắt nguồn từ tên con sông cùng tên ở Trung Quốc. Từ tiền lệ đó, có thể suy đoán danh xưng Vĩnh Tế hà ở Châu Đốc có thể bắt nguồn từ Vĩnh Tế hà bên Trung Quốc.

Nói cách khác, ngoài việc thể hiện ước vọng con kinh này sẽ đem lại nguồn ích lợi muôn đời (vĩnh tế), tương tự như tên Lợi Tế hà, rất có thể vua Gia Long đã sử dụng điển tích Vĩnh Tế cừ thuộc công trình đại vận hà xưa của Trung Quốc để đặt tên cho con kinh mới này. Tuy đó cũng chỉ là suy đoán của chúng tôi, nhưng vẫn khả dĩ hơn giải thuyết cho rằng tên kinh này dùng để tri ân bà Châu Thị Tế như đã lưu truyền 200 năm nay.

─────────────

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Duy Minh Thị (1872, tái bản 2018), Nam Kì lục tỉnh địa dư chí, Thượng Tân Thị dịch, Hồ Biểu Chánh giới thiệu, Trần Thành Trung bổ chú, Nxb Thuận Hóa, Huế.

  2. Đào Văn Hội (1951), Danh nhân nước nhà, Nhà in Lý Công Quan, Sóc Trăng, 1951.

  3. Địa bạ Minh Mạng – tỉnh An Giang, 1836.

  4. Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc (1995), Nguyễn Phúc tộc thế phả, Nxb Thuận Hóa, Huế.

  5. Khang Hi tự điển, Thượng Hải Thương vụ ấn thư quán Tân tuyên đồng bản ấn, (không đề năm);

  6. Nguyễn Văn Hầu (1971, tái bản 1999), Thoại Ngọc hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nxb Trẻ, TP.HCM.

  7. Nhiều tác giả (2019), Nam Kì khảo lược, tập 1, Trần Thành Trung sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Thuận Hóa, Huế.

  8. Quốc sử quán triều Nguyễn (1821–1909, tái bản 2004), Đại Nam thực lục chính biên, tập 1, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  9. Tân Hoa từ điển, Thương vụ ấn thư quán từ thư nghiên cứu trung tâm tu đính, 2001.

  10. Trần Hoàng Vũ (2017), Thoại Ngọc hầu qua những tài liệu, Nxb Tổng hợp TP.HCM.

  11. Trịnh Hoài Đức (1820?, tái bản 2018), Gia Định thành thông chí, Phạm Hoàng Quân dịch, chú và khảo chứng, Nxb Tổng hợp TP.HCM.

─────────────

CHÚ THÍCH:

[1] “Tháng 9,[…]vét đào đường sông Châu Đốc thông đến Hà Tiên. Cho tên là sông Vĩnh Tế” . Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhất kỉ, Quyển 60, Bản dịch của Viện Sử học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.978.

[2] C.f. Địa bạ tỉnh An Giang (chữ Hán), Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Hà Nội.

[3] “May sao tên Châu Thị Tế còn hân hạnh được sống mãi với kinh Vĩnh Tế và thời gian” , Đại Việt tập chí, số 28&29 năm 1943. In lại trong Nam Kì khảo lược , tập 1, Trần Thành Trung sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2019, tr.81.

[4] “Nhà vua xem thấy bên bờ kinh mới đào có núi Sam y như bên bờ kinh trước kia[Thoại Hà]có núi Sập, lại xét thấy Thoại Ngọc hầu phu nhân, dòng họ Châu Vĩnh, nhũ danh Thị Tế, vốn là người đàn bà đức độ, từng tận lực giúp chồng trên đường công bộc, cho nên ban đặt tên kinh là Vĩnh Tế hà và tên núi bên bờ kinh là Vĩnh Tế sơn” . Sđd, Nxb Trẻ tái bản 1999, tr.194.

[5] “Hai chữ Vĩnh tế là tên Thoại Ngọc hầu phu nhân. (Bà tên Thị Tế, họ Châu Vĩnh; họ nầy hiện nay ở Cù lao Dài. Kinh Vĩnh Tế ở Châu Đốc, chữ Châu là họ của bà”. Sđd, Nhà in Lý Công Quan, Sóc Trăng, 1951, tr.60.

[6] Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2017.

[7] Theo logic thông thường, một người được biểu dương tột độ như vậy hẳn nhiên sẽ được nhà vua ban tước phẩm tương ứng, đàng này lại không.

[8] Mặc dù bia có nhan đề Phụng đặc tứ danh… (Vâng lệnh vua đặc cách ban tên…), nhưng cho đến nay chưa ai tìm ra văn bản chính thống nào của triều đình có nội dung này.

[9] Trong khi đó, Đại Nam thực lục có ghi nhận khi khánh thành Vĩnh Tế hà, vua Minh Mạng cho ban lệnh dựng bia lưu niệm ở vàm kinh, nhưng đến nay chưa có ai phát hiện bia này.

[10] Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc (1995), Nguyễn Phúc tộc thế phả , Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.420.

[11] Đại Nam thực lục, Đệ tứ kỉ, Quyển 1 (bản chữ Hán).

[12] Kinh này còn có các tên khác là kinh Long An Hà, kinh Tân Châu…

[13] Duy Minh Thị (1872, tái bản 2018), Nam Kì lục tỉnh địa dư chí , Thượng Tân Thị dịch, Hồ Biểu Chánh giới thiệu, Trần Thành Trung bổ chú, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.228.

[14] Lưu Hồng Sơn dịch.

[15] https://baike.baidu.com/item/%E6%B0%B8%E6%B5%8E%E6%B8%A0/4413443. Truy cập ngày 20/9/2024.

[16] 《河渠考》:万历十年,督漕凌云翼以运船由清江浦出口多艰险,乃自浦西开永济河七十里,起城南窑湾,历龙江闸,至杨家涧,出武家墩,折而东合通济闸出口,更置闸三,以备清江浦之险。未几闭塞”。https://www.cidianwang.com/lishi/diming/6/48196qk.htm. Truy cập ngày 20/9/2024.

[17] “Mĩ Tho Giang: Ở trước mặt trấn lị, là sông lớn trong trấn, bắt nguồn từ sông Cửu Long ở nội địa tỉnh Vân Nam (Trung Hoa), dòng chảy cuồn cuộn, từ phía bắc qua phía tây, quá các nước Lào, đến sông Nam Vang nước Cao Miên thì chia làm 2 sông Tiền và Hậu Giang, chảy xuống hướng đông”. Sơn xuyên chí, trấn Định Tường, Sđd, tr.84.