Địa danh Thủ Dầu Một qua thư tịch: Mấy nghi vấn và đề xuất

Lê Công Lý[*]

Thủ Dầu Một hiện nay là tên thành phố tỉnh lị tỉnh Bình Dương.

Địa danh Thủ Dầu Một xưa nay đã được nhiều người nghiên cứu. Nhìn chung có 3 giả thuyết về từ nguyên địa danh này: i, “Thủ Dầu Miệt” là “đồn binh ở miệt rừng dầu”; ii, “Thủ Dầu Một” = “Thổ Long Mộc 土龍木”[1] và iii, “Thủ Dầu Một” = “đồn binh nơi có cây dầu đơn độc”.

Nhìn chung, giả thuyết i và ii đều hiểu Thủ = đồn binh. Riêng giả thuyết 3 được chấp nhận rộng rãi hơn hẳn. Do cách trung tâm Sài Gòn chỉ khoảng 30 km nên địa danh Thủ Dầu Một đã sớm được ghi vào thư tịch nhà Nguyễn và các tài liệu của Pháp sau đó.

1. Qua thư tịch

Thư tịch sớm nhất ghi chép về địa danh Thủ Dầu Một được biết đến là sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1808). Sách này, Quyển 2, dinh Trấn Biên, mục Đường bộ từ trạm Mô Xoài đến bến đò Đồng Cháy chép địa danh Dầu Một thị 油蔑市; đến Quyển 7 chép tên Thủ Dầu Một thị 守油蔑市. Như vậy, đây là lần đầu tiên địa danh Thủ Dầu Một (có chữ Thủ) xuất hiện trong thư tịch (Hình 1 và 2, trang 12).

Cần nói cho rõ, trong 4 chữ 守油蔑市, có 3 chữ Thủ 守, Dầu 油 và thị 市 xưa nay được đọc thống nhất. Riêng chữ 蔑 có rất nhiều cách đọc: theo chữ Hán đọc là miệt (khinh thường) nhưng theo chữ Nôm có thể đọc là: mét, miết, mốt, một, mệt, mít, vạt.

Trong sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí có ghi rất nhiều địa danh Nôm, nên 2 chữ 油蔑 này có thể đọc theo chữ Hán là Dầu Miệt, nhưng cũng có thể đọc theo âm Nôm là Dầu Mét, Dầu Miết, Dầu Mít, Dầu Mốt, Dầu Một. Như vậy, địa danh Thủ Dầu Một quen nói xưa nay chính là cách đọc theo chữ Nôm. Mà chữ Nôm vốn không thống nhất về cách đọc. Đó chính là nguồn gốc của sự bất nhất trong cách giải thích từ nguyên địa danh này.

Ngoài ra, cùng cần nói rõ, địa danh (Thủ) Dầu Một được nhắc đến trong sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí rất khiêm tốn: chỉ 2 lần; trong khi địa danh (Thủ) Băng Bột được nhắc đến 5 lần: “2.240 tầm, bên bờ bắc có vườn trầu cau, dân cư thưa thớt, đến đồn đạo Băng Bột[2], đồn ở bờ phía bắc, tục gọi là chợ Thủ Dầu Một” (Quyển 7, tờ 46b). Như vậy, (Thủ) Băng Bột 冰渤 được xem là tên gọi chính thức, còn (Thủ) Dầu Một chỉ là tên gọi dân gian của cùng một địa danh.


Hình 1: Địa danh Dầu Một 油蔑 trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí. Quyển 2.


Hình 2: Địa danh Thủ Dầu Một 守油蔑 trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí. Quyển 7. Tờ 46b.

Đến sách Gia Định thành thông chí (1820?) cũng nhắc đến địa danh Dầu Một đồn 油 蔑 屯 chỉ một lần duy nhất (Sơn xuyên chí, trấn Định Tường, mục Tam Giồng/ Ba Giồng).

Sang Đại Nam thực lục, bộ sách đồ sộ nhất của nhà Nguyễn (với khoảng 10.000 trang bản dịch) địa danh (Thủ) Dầu Một được nhắc đến 5 lần nhưng với tự dạng khác nhau: Đại Nam thực lục tiền biên, Quyển 12, chữ Hán, tập 1, tr. 186 viết Dầu Một 油蔑 (2 lần); nhưng Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tứ kỉ, Quyển 24 lại viết THÚ Dầu Một 戍油沒 (2 lần) và Quyển 26[3] viết THÚ Dầu Một 戍油沒 (1 lần) (Hình 3, trang 14).

Như vậy, trong cùng một bộ sách Đại Nam thực lục do cùng một cơ quan biên soạn (Quốc sử quán triều Nguyễn) mà Tiền biên viết Dầu Một 油蔑, Chính biên lại viết THÚ Dầu Một 戍油沒. Hai chữ 蔑và 沒tuy (có thể) đọc giống nhau là ‘một’, nhưng tự dạng (và nghĩa) hoàn toàn khác nhau. Điều đáng lưu ý là Đại Nam thực lục chỉ ghi nhận địa danh Dầu Một THÚ Dầu Một chứ không ghi nhận địa danh Thủ Dầu Một. Riêng Quyển 26 viết THÚ Dầu Một chứ không phải THỦ Dầu Một.

Việc lặp lại chữ THÚ Dầu Một 戍油沒 đến 3 lần thật khó giải thích là do sắp sai chữ Hán, nếu không phải sự cố ý của cơ quan biên soạn.


Hình 3: Địa danh THÚ Dầu Một trong Đại Nam thực lục chính biên. Đệ tứ kỉ. Quyển 26.

Điều đáng lưu ý nữa là, ngay trong cùng một bộ sách của cùng một dịch giả Nguyễn Ngọc Tỉnh (Tổ Phiên dịch, Viện Sử học), đối với cùng một địa danh mà ở Tiền biên được đọc là 油 蔑 Dầu Mít[4], ở Chính biên lại được đọc là (Thủ[5]) 油 沒 Dầu Một[6]. Đối với các chuyên gia trong ngành (Sử học và Hán Nôm) mà còn bất nhất như thế, thì sự bất nhất trong dân gian là điều dễ hiểu.

Đến Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Biên Hòa, mục Chợ quán, chép: “Phú Cường thị 富强巿 tục danh Dầu Một thị 油蔑巿”[7]. Điều này, cùng với các thư tịch trước đó, góp phần cho biết Thủ Dầu Một không phải địa danh chính thức lúc bấy giờ mà chỉ là tục danh, tức tên dân gian.

Đến năm 1863, G. Aubaret cho ra mắt bản dịch Pháp ngữ của tác phẩm Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức với tên gọi mới là Gia-Dinh-Thung-Chi (Paris, Imprimerie Impérial, 1863), trong đó 3 chữ 油蔑屯 trong Gia Định thành thông chí (quyển 2) được phiên qua chữ quốc ngữ là “fort Diau-môt, tức Thủ-diau- môt (p.200)[8].

Năm 1869, thực dân Pháp thành lập Inspection de Thudaumot (Hạt Thanh tra Thudaumot). Đây là mốc thời gian đánh dấu Thủ Dầu Một chính thức trở thành địa danh hành chính.

Cùng thời điểm này nhưng sách Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí (1872) của Duy Minh Thị lại không chép gì về địa danh Thủ Dầu Một. Tuy nhiên, về sau ở mục sông Thủy Bột sách này mới được chua thêm ngoài lề: “今設守油蔑參辦所 Kim thiết Thủ Dầu Một tham biện sở”[9] (Nay đặt hạt Tham biện Thủ Dầu Một).

Năm 1875, trong Tiểu giáo trình Địa lí Nam Kỳ, Trương Vĩnh Ký bắt đầu ghi địa danh Thủ Dầu Một bằng chữ Quốc ngữ abc (không có chữ Hán Nôm kèm theo). Đây có thể coi như lần đầu tiên địa danh này xuất hiện bằng chữ Quốc ngữ abc. Nhờ đó, một mặt địa danh này bắt đầu được ghi chép chuẩn hóa chính xác, nhưng mặt khác nhiều lớp nghĩa từ nguyên, thậm chí kí âm địa phương của địa danh này có thể bị khai tử kể từ đó, gây khó khăn cho người đời sau muốn truy tầm âm nguyên và ngữ nguyên của địa danh này. Bởi lẽ kí âm bằng chữ Quốc ngữ abc có sau và do người ngoài địa phương thực hiện nên có thể không chính xác.

Có lẽ nhờ đã được “Quốc ngữ abc hóa” như vậy nên đến tập Nam Kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu mục lục (1892) của Tòa Thống đốc Nam Kỳ thì Thủ Dầu Một được ghi bằng chữ Nôm là 守油𠬠[10]. Đây có thể coi là việc “chuẩn hóa” địa danh này về chữ Nôm, giúp có cách đọc chính xác và thống nhất so với những cách kí âm bằng chữ Nôm trước đó[11].

Thật vậy, kể từ đó, địa danh Thủ Dầu Một được ghi trong các tài liệu hành chính của Pháp đều được viết là 守油𠬠 hoặc 守油沒[12].

Bảng 1: Lược sử sự xuất hiện địa danh Thủ Dầu Một trên thư tịch

Tên thư tịch Niên đại Chữ viết Âm đọc
Hoàng Việt nhất thống dư địa chí 1808 (守)油蔑; 冰渤 (Thủ) Dầu Một/ Mét, Miết, Mốt, Một, Mệt, Mít, Vạt; Băng Bột
Các tài liệu của người Hoa ? 土龍木 Thổ Long Mộc
Gia Định thành thông chí 1820 油蔑 Dầu Một/ Mét, Miết, Mốt, Một, Mệt, Mít, Vạt
Đại Nam thực lục 1821–1909 油蔑;
戍油沒
Dầu Một/ Mét, Miết, Mốt, Một, Mệt, Mít, Vạt; THÚ Dầu Một
Đại Nam nhất thống chí 1865–1882 油蔑 Dầu Một/ Mét, Miết, Mốt, Một, Mệt, Mít, Vạt
Các tài liệu hành chính của thực dân Pháp 1869 Inspection de Thu-daumot Hạt thanh tra Thủ Dầu Một
Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí 1872 油蔑 Dầu Một/ Mét, Miết, Mốt, Một, Mệt, Mít, Vạt
Tiểu giáo trình Địa lí Nam Kỳ 1875 Thủ Dầu Một
Nam Kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu mục lục 1892 守油𠬠 Thủ Dầu Một
Danh sách tổng, thôn, làng tỉnh Thủ Dầu Một 1928 守油𠬠守油沒 Thủ Dầu Một

Tóm lại, sử sách nhà Nguyễn chỉ có Hoàng Việt nhất thống dư địa chí nhắc tên Thủ Dầu Một đầy đủ (có chữ Thủ) chỉ 1 lần duy nhất, các tài liệu sau đó chỉ viết Dầu Một 油蔑. Riêng Đại Nam thực lục chính biên tuy có nhắc đến đầy đủ 3 chữ nhưng lại là THÚ Dầu Một 戍油沒 chứ không phải Thủ Dầu Một. Mãi đến thời Pháp thuộc địa danh Thủ Dầu Một đầy đủ (có chữ Thủ) mới phổ biến. Do đó, có thể nói rằng, dịa danh Thủ Dầu Một được sử dụng phổ biến là do thực dân Pháp chứ không phải do người Việt, càng không phải do nhà Nguyễn. Riêng hai chữ 油蔑 được ghi trong nhiều thư tịch trước đó có nhiều cách đọc không thống nhất. Phải đến thời thực dân Pháp, nhờ được ghi bằng chữ Quốc ngữ abc và chữ Nôm 油𠬠/油沒 mà địa danh này mới được đọc thống nhất là (Thủ) Dầu Một.

Nói cách khác, sự định hình địa danh Thủ Dầu Một với âm đọc như vậy là do thực dân Pháp. Chính vì vậy, ngày nay cần phải luôn ghi nhớ điều này để tránh việc dùng âm đọc hôm nay để giải thích âm đọc xưa, hay tệ hại hơn nữa là việc dùng thứ văn tự của hôm nay để giải thích địa danh xưa. Bởi vì như thế rất chủ quan, chẳng khác nào dùng cái bóng của mình để đo chiều cao của đỉnh núi!

Nhưng khổ nỗi, bây giờ nếu không dùng âm đọc của hôm nay thì người nghe không biết đang nói về địa danh nào; còn nếu dùng âm đọc của hôm nay (Thủ Dầu Một) thì lại bị kẹt vào chính chữ và nghĩa của các tên ước định (nominated) đó.

2. Tại sao địa danh Thủ Dầu Một định hình muộn?

Như trên đã nói, địa danh Dầu Một 油蔑/ Băng Bột 冰渤 được ghi nhận khá sớm, nhưng địa danh Thủ Dầu Một lại được ‘cố định hóa’ khá muộn, kể từ khi thực dân Pháp thống trị.

Lí do vì Thủ Dầu Một là địa danh 3 âm tiết, trong khi truyền thống đặt định địa danh ở Nam Bộ là 2 âm tiết.

Thật vậy, khảo sát danh sách thôn làng ngày xưa ở Nam Kỳ đều 2 âm tiết[13]. Những địa danh bắt đầu bằng chữ Thủ cũng hầu hết 2 âm tiết như: Thủ Đức, Thủ Đoàn, Thủ Thừa, Thủ Thiêm, Thủ Triệu[14]… Chính do truyền thống song tiết đó mà thể thơ phổ biến nhất Việt Nam chính là thể lục bát với truyền thống là nhịp chẵn. Hầu hết ca dao Việt Nam đều là thể thơ lục bát. Tác phẩm kiệt xuất nhất của văn học Việt Nam là Truyện Kiều, cũng được sáng tác bằng thể thơ lục bát.

Trong truyền thống đó, địa danh 3 âm tiết như Thủ Dầu Một hiển nhiên trái với thói quen ngôn ngữ của tiếng Việt, đặc biệt là ở Nam Bộ.

Do đó, ngay cả khi chính quyền thực dân dùng quyền lực thiết lập tên gọi chính thức Thủ Dầu Một thì ban đầu người dân vẫn có khuynh hướng duy trì tên gọi 2 âm tiết. Thật vậy, ngay trong tác phẩm Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong, nhà Nho hồ hỡi hợp tác với tân trào nhưng vẫn giữ tên Dầu Một:

        Dầu Một phong thổ tốt thay,
Gốc xưa chỗ thủ coi rày gỗ cây.
        Đổi dời qua đến đời Tây,
Quan quân dinh dãy, xếp bày nghiêm trang[15].

Đồng thời, ngôn ngữ dân gian vẫn quen gọi vùng này là Chợ Thủ, nên Chợ Thủ đi vào ca dao còn Thủ Dầu Một thì không:

        - Xăm xăm trong Thủ đi ra,
Áo đen nút bạc xinh đà quá xinh.

        - Chiều chiều mượn ngựa ông Đô,
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về.
        Đưa về chợ Thủ bán hũ, bán ve,
Bán bộ đồ chè, bán cối đâm tiêu.

        - Ở chợ Thủ xuống Mĩ Tho buôn bán,
Gia Định - Sài Gòn không phải quê quán của anh.

Tuy ở Nam Bộ có nhiều địa danh Thủ/ Chợ Thủ, nhưng do từ cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, vùng đất Thủ Dầu Một đã nổi tiếng với các mặt hàng gốm được bán khắp Lục tỉnh, nên ở Nam Bộ từ Chợ Thủ thường được hiểu là vùng đất Thủ Dầu Một.

3. Mấy nghi vấn và đề xuất

Một địa danh Việt mà lại được thiết lập do thực dân đến từ nước ngoài, ban đầu được ghi bằng chữ Latin, nên tự nhiên sẽ thiếu thân thuộc và khó hiểu đối với người Việt. Do đó mà cho đến nay, nỗ lực giải nghĩa địa danh Thủ Dầu Một đều gặp khó khăn, dẫn đến tính thuyết phục không cao.

Thật vậy, cách giải thích địa danh Thủ Dầu Một được chấp nhận nhiều nhất là: Thủ = đồn binh; Dầu = cây dầu rái; Một = 1. Thủ Dầu Một = [chỗ] đồn binh có cây dầu đứng một mình.

Tuy nhiên, cách giải thích này vẫn có nhiều điểm phi lí:

  1. Vị trí này xưa nay có rất nhiều cây dầu thì làm gì có cây dầu nào đứng một mình. Địa bạ Minh Mạng, tổng Bình Chánh Trung, huyện Bình An ghi chép có đến 4 xứ có tên gắn với cây dầu: thôn An Nhứt Thuyền ở xứ Đặc Du (Dầu Đặc), thôn Chánh An ở xứ Cây Dầu, thôn Phú Lợi Tây ở xứ Huỳnh Du (Dầu Vàng) và thôn Phú Thuận ở xứ Vũng Dầu[16]. Dầu mọc thành xứ như vậy thì khó có cây dầu nào đơn độc.

  2. Nhiều địa danh ‘Danh từ + số’ thường được viết chẳng hạn ‘Ngã 5’, Ngã 7’... nhưng lại không thấy ai viết ‘Thủ Dầu 1’ cho ngắn gọn cả, kể cả trong tài liệu của Pháp lẫn Việt. Điều đó chứng tỏ người ta không coi ‘Một’ nầy là từ chỉ số lượng.

Trong địa danh Thủ Dầu Một, hai từ Thủ Dầu dễ được thống nhất vì vốn dễ hiểu. Riêng từ Một khó hiểu hơn nên có nhiều nghi vấn.

Theo chúng tôi, từ Một này cần được đặt trong tương quan với các từ Mộc (trong địa danh Thổ Long Mộc) và Bột (trong địa danh Thủ Băng Bột). Bởi lẽ: Trong tiếng Việt có nhiều từ có phụ âm đầu m- b- có thể thay thế cho nhau[17]. Riêng ở Nam Bộ có nhiều địa danh có 2 biến thể phụ âm đầu M-/ B- như: Sông Man Tra/ Bang Tra (Mỏ Cày), Nha Mân/ Nha Bân 芽斌[18]. Đồng thời, địa danh Campot ở Campuchia cũng được phiên âm phổ biến sang tiếng Việt là Cần Bột/ Cần Vọt. Do đó, biến thể Bột/ Một ở hai địa danh Thủ Băng Bột Thủ Dầu Một cũng không ngoại lệ.

Đồng thời, trong tiếng Việt cũng có nhiều từ có khuôn vần -ôc/ -oc/ -ôt có thể thay thế cho nhau: cột chèo/ cộc chèo; bột phát/ bộc phát… Riêng các địa danh Mộc Bài, Mộc Hóa vẫn thường được dân địa phương nói thành Một Bài, Một Hóa.


Hình 4: Trích bản đồ Walker Map of Southeast Asia - 1828 của Crawfurd[19].

Nói cách khác, 3 địa danh cùng một địa chỉ là Thủ Băng Bột, Thổ Long Mộc Thủ Dầu Một cần được xem là 3 biến thể ngữ âm của cùng một địa danh nguyên thủy và là 3 đầu mối để có thể tiếp tục đi tìm nguồn gốc của địa danh này. Nghĩa là, theo chúng tôi, cần xác định biến thể của địa danh này là Thủ Dầu Bột/ Mộc/ Một. Trong đó, nếu xác định tiêu thể của địa danh này là Thủ Dầu Mộc 守油木 (Thủ Cây Dầu) thì thật dễ hiểu, chẳng những đúng với điều kiện tự nhiên, hệ thực vật ở đây mà còn dễ giải thích ý nghĩa hơn tất cả những cách còn lại.

Hơn nữa, chúng tôi vừa tìm thấy bản đồ Walker Map of Southeast Asia (1828) do Crawfurd (nhà quản lí thuộc địa người Scotland) vẽ chi tiết, trong đó địa danh Thủ Dầu Một đương thời được ghi là Tho-dieu-Moe, rất gần với Thủ Dầu Mộc. Đây là lần đầu tiên địa danh này được ghi bằng chữ Latin và không chịu ảnh hưởng của Pháp, nên chính là nguồn tham khảo quan trọng nếu muốn thoát khỏi ảnh hưởng độc tôn của Pháp trong việc ấn định Latin hóa hầu hết địa danh ở Việt Nam.

Địa danh chính là nơi kết tụ nhiều tầng văn hóa, nên nghiên cứu văn hóa qua địa danh là một con đường thú vị mà cũng đầy khó khăn trở ngại, cần được đầu tư, kế thừa và phát triển.

Lê Công Lý

─────────────

[*] Tiền Giang.

[1] Việt Hán từ điển tối tân (1989). Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 821.

[2] Riêng địa danh này có sách đọc là Băng Bột 冰渤, Thủy Bột 水渤, có sách đọc là Thủy Vọt mà đúng ra phải là Thủy Bọt 水渤, sẽ bàn chỗ khác.

[3] Quốc sử quán triều Nguyễn (1821-1909, tái bản 1972). Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tứ kỉ. Quyển 26 (bản chữ Hán). Tập 16. The Oriental Institute. Keio University. Tokyo. Japan, tr. 6243.

[4] Quốc sử quán triều Nguyễn (1821-1909, tái bản 2004). Đại Nam thực lục tiền biên. Tập 1. H.: Nxb. Giáo Dục, tr. 186.

[5] Nguyên bản viết chữ 戍 Thú, vậy mà lại dịch thành Thủ.

[6] Quốc sử quán triều Nguyễn (1821-1909, tái bản 2005). Đại Nam thực lục chính biên. Tập 7. H.: Nxb. Giáo Dục, tr. 769.

[7] Đại Nam nhất thống chí - Lục tỉnh Nam Việt (chữ Hán). Tập Thượng. Tờ 35b, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản (1973). Sài Gòn.

[8] Cám ơn NNC. Cao Văn Nghiệp đã chỉ giúp tư liệu này!

[9] Duy Minh Thị (1872, tái bản 2018). Nam Kỳ Lục tỉnh địa dư chí. Thượng Tân Thị dịch. Huế.: Nxb. Thuận Hóa, tr. 167.

[10] Tòa Thống đốc Nam Kỳ (1892, tái bản 2017). Nam Kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu mục lục. Nguyễn Đình Tư dịch. Nxb. Tổng hợp TP.HCM, tr. 207.

[11] Bởi vì nếu ghi bằng chữ 没 thì có thể đọc là Một hoặc Mít; nếu ghi bằng chữ 蔑 thì có thể đọc là Miệt, mét, miết, mốt, một, mệt, mít, vạt. Còn nếu ghi bằng chữ 𠬠 thì chỉ có 1 âm đọc duy nhất là Một mà thôi.

[12] Danh sách tổng, thôn, làng tỉnh Thủ Dầu Một (1928). Viện Thông tin Khoa học xã hội, kí hiệu HU5181, HU5331.

[13] Ở Nam Kỳ xưa cũng có một số tên thôn làng gồm 3 âm tiết, nhưng hầu hết các tên 3 âm tiết đó không phải vốn có mà do phát sinh bởi sáp nhập nhiều thôn làng lại với yêu cầu đặt tên thôn làng mới phải lấy 1 chữ trong tên của các thôn làng cũ rồi hợp lại thành tên mới. Thí dụ 3 làng Thân Nhơn, Cửu Viễn và Ngãi Hữu hợp thành làng Thân Cửu Nghĩa. Hoặc cũng có trường hợp thôn làng mới tách ra từ thôn làng cũ với yêu cầu trong tên thôn làng mới phải có tên thôn làng cũ. Trường hợp này, tên thôn làng mới thường là tên thôn làng cũ cộng thêm các chữ: Thượng, Trung; Hạ, Nhứt, Nhì; Đông, Tây, Nam, Bắc... Thí dụ: Đức Lập Thượng, Đức Lập Hạ; Tân Sơn Nhứt, Tân Sơn Nhì; Tân Hội Đông, Tân Hội Tây;

[14] Riêng tên gọi Thủ Chiến Sai (huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) chỉ tồn tại trong sách vở, còn dân gian vẫn gọi Chợ Thủ.

[15] Nguyễn Liên Phong (1909, tái bản 2014). Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca. Cao Tự Thanh - Trương Ngọc Tường chỉnh lí, chú thích và giới thiệu. Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 89.

[16] Nguyễn Đình Đầu (1994). Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - tỉnh Biên Hòa. Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

[17] Thí dụ: bàn/ mâm; báng vốn/ mắng vốn; bạo/ mạo; bập/ mấp; bột bình tinh/ bột mì tinh; bồ côi/ mồ côi; bồ hòn/ mồ hòn; bù hóng/ mù hóng; bụi/ mụi; buồn/ muốn; buồn/ (sầu) muộn; bệu bạo/ mếu máo; bùn/ mùn; bồ tạt/ mù tạt; bò om/ mò om (rau); bu/ mụ; bổ/ mổ; bọng/ mọng (nước); bù trất/ mù trất, v.v.

[18] C.f. Lê Công Lý (2018). “Nha Mân hay Nha Bân”. Tạp chí Xưa & Nay. Số 501. Tháng 11/2018, tr. 52-54.

[19] Cám ơn NNC. Cao Văn Nghiệp đã chỉ giúp tư liệu này!