Lê Công Lý[*]
Trong lịch sử hành chính Nam Kỳ, vùng đất Sóc Trăng và Trà Vinh tuy thống thuộc chủ quyền vào nhà nước Đại Việt khá sớm (1757), nhưng mãi đến thời vua Thiệu Trị mới cử quan lại người Việt đến trấn nhậm. Do đó, quá trình chính thống hóa các địa danh ở đây diễn ra tương đối muộn, và đến nay vẫn chưa kết thúc, nhất là trong tình hình hiện nay nhà nước đang sắp xếp lại bộ máy hành chính, dẫn đến các địa danh hành chính sẽ có nhiều thay đổi.
Địa danh là một loại hình di sản văn hóa, do đó, tìm hiểu, phân tích, lý giải các đặc điểm, cơ chế hình thành của địa danh cũng chính là công việc nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa.
1. Lịch sử hành chính
Theo Đại Nam thực lục tiền biên (Quyển X), “Năm Đinh Sửu (1757), Nặc Nguyên nước Chân Lạp chết. Người chú họ là Nặc Nhuận tạm coi việc nước. Biên thần tâu xin nhân đó lập Nhuận để tỏ ân nghĩa, cho vững biên cương. Chúa bắt phải hiến hai phủ Trà Vinh, Ba Thắc, rồi sau mới y cho”[1]. Như vậy, năm 1757 đánh dấu thời điểm vùng đất Trà Vinh thuộc chủ quyền Đại Việt.
Do đất Trà Vinh lúc này người Việt và Khmer ở lẫn lộn, mà phong tục lại khác nhau, nên chúa Nguyễn Phúc Khoát cho quan Khmer là Ốc-nha Suất làm chức An phủ Trà Vinh. Mãi đến năm 1787, chúa Nguyễn Ánh mới chiêu tập lính Khmer ở xứ Trà Vinh và Mân Thít cho Thạch Duồng (tên Việt là Nguyễn Văn Tồn) lập đồn Xiêm Binh để trấn giữ, đến năm Gia Long thứ 9 (1810) đổi gọi là đồn Oai Viễn.
Đến năm Minh Mạng thứ VI (1825) lập phủ Lạc Hóa cai quản huyện Trà Vinh. Lúc này huyện Trà Vinh thuộc trấn Vĩnh Thanh, thống quản bởi Gia Định thành.
Đến năm Minh Mạng thứ XIII (1832), vua cải cách bộ máy hành chính đất Gia Định, chia 5 trấn thành 6 tỉnh. Lúc này, huyện Trà Vinh thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long, bên dưới gồm 5 tổng[2]:
- Tổng Trà Bình gồm 8 thôn (An Mỹ, Long Trị, Hậu Mỹ, Ngãi Hưng, Hòa Hữu Vĩnh Toàn, Long An, Vĩnh Trường).
- Tổng Trà Nhiêu gồm 4 xã (Tầm Phương, Điệp Thạch Thanh Lệ Hương Phụ) và 14 thôn (Ba Tiêu, Tân Ngãi, Hòa Âm, Hòa Lạc, Thanh Trì, Thanh Tuyền, Mỹ Cần, Thư Lâm, Mỹ Luân, Tiêu Phụ, Sa Bình, Tri Tân, Sơn Tự, Vân Đôi).
- Tổng Trà Phú gồm 3 xã (Cổ Tháp, Đôn Hóa, Hương Thảo) và 6 thôn (Bình La, Đại Thụ, Lai Vi, Lượng Sa, Mã Tiền, Nguyệt Quật).
- Tổng Vinh Lợi gồm 5 xã (Bích Trì, Đa Hòa, Quy Nông, Thủy Trừng, Trường Câu) và 15 thôn (Bình Tân, Cẩm Đôi, Đa Cần, Đa Cốc, Hòa Mục, Kim Câu, Kỳ Phong, Lạc Ngãi, Mai Hương, Mông Thụ, Phì Nhiêu, Sơn Lang, Thận Mật, Trạch Lương, Ỷ La).
- Tổng Vinh Trị gồm 8 thôn (Hòa Thạnh, Long Phú, Long Phước, Long Toàn, Phước Hòa, Phước Long, Thạnh Hòa, Trường Lộc).
Đến ngày 15/6/1867, thực dân Pháp cưỡng đoạt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Phủ Lạc Hóa trở thành Hạt Thanh tra (Inspection) Lạc Hóa, lỵ sở tại An Thiêm, gồm 2 huyện Tuân Ngãi và huyện Trà Vinh.
- Ngày 15/7/1867, đổi Hạt Thanh tra Lạc Hóa thành Hạt Thanh tra Trà Vinh, đồng thời lỵ sở đặt tại Trà Vinh. Như vậy, đây chính là mốc đánh dấu thời điểm ra đời địa danh hành chính cấp Hạt (tương đương Tỉnh) mang tên Trà Vinh.
- Lúc này hạt thanh tra Trà Vinh có 13 tổng gồm: tổng Bình Trị (11 xã thôn), tổng Trà Bình (9 xã thôn), tổng Trà Nhiêu (17 xã thôn), tổng Trà Phú (10 xã thôn), tổng Vinh Lợi (24 xã thôn), tổng Vinh Trị (17 xã thôn), tổng Ngãi Hòa (17 xã thôn), tổng Ngãi Long (14 xã thôn), tổng Thành Trị (11 xã thôn), tổng Long Ngãi (27 xã thôn), tổng Long Vang (12 xã thôn), tổng Tuân Giáo (20 xã thôn), tổng Tuân Lễ (16 xã thôn).
- Ngày 05/6/1871, do có 7 hạt Thanh tra bị giải thể (25 hạt còn 18 hạt), nên hạt Thanh tra Trà Vinh nhận thêm 2 tổng Ngãi Hòa và Ngãi Long của hạt Bắc Trang (giải thể) và 2 tổng Bình Khánh và Bình Hóa của hạt Vĩnh Long. Sau đó có thêm một số thay đổi nhỏ về diên cách địa lý hành chính.
- Ngày 05/01/1876, Pháp đổi các hạt Thanh tra thành hạt Tham biện (Arrondissement), các xã thôn đều đổi gọi là làng (village). Hạt Tham biện Trà Vinh tồn tại đến ngày 01/01/1900 thì đổi gọi là Tỉnh (province) Trà Vinh.
Theo thống kê năm 1910, tỉnh Trà Vinh có 20 tổng:
- Tổng Bình Hóa: các làng Bình Hội, Mỹ Hương, Nguyệt Đức, Nguyệt Lãng, Nguyệt Trường, Phương Trà, Cẩm Huê (Cẩm Hoa), Lư Tú[3].
- Tổng Bình Khánh Thượng: các làng Ninh Bình, An Trường, Mỹ Trường, Hiệp Nghĩa, Hiệp Hòa, Ninh Chánh, An Thạnh, Trường Định.
- Tổng Bình Khánh Hạ: các làng Đức Hiệp, Đức Hòa, Đức Mỹ, Đức Nhuận, Long Thạnh, Nguyệt Thạnh, Long Thuận, Phú Hưng, Thanh Hiệp.
- Tổng Bình Phước: các làng Phú Khánh, Khánh Lộc, Long Đại, Long Hòa, Tân Hạnh, Hòa Hữu, Phú Thạnh, Phước Hải, Tân Bình, Hưng Nhượng, Long Thới.
- Tổng Bình Trị Thượng: các làng Hạnh Mỹ, Vang Thập, Mai Hương, Minh Thuận, Mỹ Cẩm, Kim Vức[4], Vang Cửu, Phú Thứ.
- Tổng Bình Trị Hạ: các làng Huyền Đức, Long Hạnh, Long Hậu, Long Thế, Mỹ Đức, Mỹ Quý, Thành Đức.
- Tổng Ngãi Hòa Thượng: các làng Thanh Xuyên, Đại Dư, Hàm Giang, Nhuệ Tứ, Lưu Cừ, Mộc Anh, Liên Hữu[5], Sơn Mông, Cổ Lũy.
- Tổng Ngãi Hòa Trung: các làng Nhuệ Nhứt, Nhuệ Nhì, Đôn Hậu, Lâm Quới, Long Trường, Nghi Gia, Thường Tụ[6], Đăng Lâm, Sa Châu.
- Tổng Ngãi Long Thượng: các làng Đại An, Đại Cần, Đại Mông, Huyền Bác, Huyền Thạnh, Hiếu Tử, Ninh Hòa, Phú Thọ, Tân An, Tân Trung, Tiểu Cần.
- Tổng Ngãi Long Trung: các làng Hòa Trinh, Hùng Điểu, Hưng Nhơn, Ngưu Sơn, Quảng Dã[7], Tập Ngãi, Tập Tráng, Từ Ô, Tập Phước, Chánh Hội.
- Tổng Thành Hóa Thượng: các làng An Long, An Nghiệp, An Thới, Long Vĩnh, Cù Hanh, Ngãi Lục, Ngãi Thập.
- Tổng Thành Hóa Trung: các làng An Cư, Trinh Phụ, Long Định, Đại Trường, Ninh Thới, Tam Hòa, Tân Thành, Nhơn Hòa.
- Tổng Trà Bình: các làng Vĩnh Trường, Đa Phước, Hòa Hảo, Long Bình, An Mỹ, Ngãi Hưng, Vĩnh Yên, Long Trị.
- Tổng Trà Phú: các làng Bình La, Lai Vi, Đôn Hóa, Hương Thảo, Cổ Tháp, Lương Sa, Mã Tiền, Nguyệt Quật[8], Phú Lân, Phú Lộc.
- Tổng Trà Nhiêu Thượng: các làng Diệp Thạch, Hòa Bình, Tân Ngại, Minh Đức, Hòa Quới, Tầm Phương, Mỹ Cần, Thanh Lệ, Tri Tân, Sa Bình, Phước Thạnh.
- Tổng Trà Nhiêu Hạ: các làng Ba Tiêu, Phú Mỹ, Hương Phụ, Phú Nhiêu, Hòa Lạc, Thanh Nguyên, Thanh Trì, Vang Lục[9].
- Tổng Vinh Lợi Thượng[10]: các làng Bình Tân[11], Kim Câu, Chàng Mật[12], Đa Cần, Bích Trì, Hòa Lục[13], Đa Hòa, Kỳ La, Lương Hòa, Quy Nông, Trì Phong[14].
- Tổng Vinh Lợi Hạ[15]: các làng Cẩm Hương, Lạc Hòa, Lạc Ngãi, Trường Thạnh, Lạc Thạnh, Lạc Thiện, Sơn Lang, Sơn Thọ, Lạc Sơn, Thủy Trừng[16], Thủy Thuận, Trường Câu[17], Trường Thọ.
- Tổng Vinh Trị Thượng[18]: các làng Hòa Thạnh, Hội Hữu, Long Hữu, Long Phước, Long Khánh, Thạnh Phước (làng này lập mới cùng với tổng), Thạnh Hòa, Phước Lộc, Trường Lộc, Phú Long.
- Tổng Vinh Trị Hạ[19]: các làng Phước Hòa, Phước Long, Phú Thạch.
Những năm sau đó có một số điều chỉnh nhỏ về diên cách các làng tổng. Đến năm 1916, tỉnh Trà Vinh bắt đầu chia đặt các quận trực thuộc gồm:
Quận Châu Thành:
- Tổng Bình Phước: các làng Phú Khánh, Khánh Lộc, Long Đại, Long Hòa, Tân Hạnh, Hòa Hữu, Phú Thạnh, Phước Hải, Tân Bình, Hưng Thạnh, Long Thới.
- Tổng Trà Phú: các làng Bình La, Đôn Hóa, Hương Thảo, Cổ Tháp, Lương Sa, Mã Tiền, Nguyệt Quật, Phú Lân, Phú Lộc.
- Tổng Trà Nhiêu Thượng: các làng Diệp Thạch, Hòa Bình, Tân Ngại, Minh Đức, Bình Quới, Tầm Phương, Tân Ngại, Thanh Lệ, Tri Tân, Sa Bình.
Quận Bắc Trang:
- Tổng Ngãi Hòa Thượng: các làng An Long, Nghiệp Anh, Ngãi Thập, Lưu Cừ, Sơn Hanh, Ngãi Lục.
- Tổng Thành Hóa Thượng: các làng An Thới, Long Vĩnh, Đại Dư, Hàm Giang, Cổ Nhuế.
- Tổng Thành Hóa Trung: các làng An Nhơn, Trinh Phụ, Long Định, Đại Trường, Ninh Thới, An Nhơn, Tân Thành.
- Tổng Ngãi Hòa Trung: các làng Nhuệ Nhứt, Đôn Hậu, Lâm Quới, Long Trường, Nghi Châu, Nhuệ Nhì, Thường Tụ, Đăng Lâm.
- Tổng Ngãi Long Trung: các làng Hùng Điểu, Phước Hưng, Ngưu Sơn, Quảng Dã, Tập Ngãi, Tập Tráng, Từ Hòa, Chánh Hội.
Quận Bang Đa:
- Tổng Trà Bình: các làng Vĩnh Trường, Đa Phước, Hòa Hảo, Long Bình, An Mỹ, Ngãi Hưng, Vĩnh Yên Trị.
- Tổng Trà Nhiêu Hạ: các làng Phú Mỹ, Hương Phụ, Phú Nhiêu, Hòa Lạc, Thanh Nguyên, Thanh Trì, Đa Lộc.
- Tổng Vinh Trị Hạ: các làng Phước Hòa, Phước Long, Phú Thạch.
- Tổng Vinh Lợi Thượng: các làng Bình Tân, Kim Câu, Hòa Lục, Đa Hòa, Lương Hòa, Quy Nông, Thuận Hòa, Thuận Thành.
Quận Càng Long:
- Tổng Bình Khánh Thượng: các làng Ninh Bình, An Trường, Mỹ Trường, Hiệp Phú, Ninh Chánh, An Thạnh, Trường Định.
- Tổng Bình Khánh Hạ: các làng Phú Phong, Đức Hòa, Đức Hiệp, Đức Nhuận, Long Thạnh, Nguyệt Thạnh, Long Thuận, Phú Hưng, Thanh Hiệp.
- Tổng Ngãi Long Thượng: các làng Đại Mông, Huyền Bác, Huyền Thạnh, Phú Hội, Huyền An, Tiểu Cần.
- Tổng Bình Hóa: các làng Bình Hội, Mỹ Hương, Nguyệt Lãng, Phương Trà, Cẩm Huê, Lư Tú.
Quận Ô Lạc:
- Tổng Bình Trị Thượng: các làng Cẩm Hương, Mai Hương, Minh Thuận, Mỹ Cẩm, Kim Vức, Vang Cửu, Mỹ Thập, Phú Thứ.
- Tổng Bình Trị Hạ: các làng Long Hậu, Mỹ Đức, Mỹ Quý, Thành Đức, Hiệp Đức .
- Tổng Vinh Lợi Hạ: các làng Lạc Hòa, Lạc Ngãi, Trường Thạnh, Lạc Thạnh, Lạc Thiện, Sơn Lang, Sơn Thọ, Lạc Sơn, Thủy Thuận, Trường Câu, Trường Thọ.
- Tổng Vinh Trị Thượng: các làng Hựu Hòa, Hội Hữu, Long Phước, Long Khánh, Hiệp Thạnh, Phước Lộc, Trường Lộc, Phú Long.
Sau nhiều thay đổi về diên cách và địa danh hành chính, đến ngày 01/10/1942, bộ máy hành chính tỉnh Trà Vinh như sau:
Quận Châu Thành:
- Tổng Ngãi Thành: các làng Hưng Hòa, Tập Ngãi, Tiểu Cần, Tân Hòa, Long Thới.
- Tổng Trà Bình: các làng Phước Hảo, Hưng Mỹ, Long Hòa.
- Tổng Trà Phú: các làng Thạnh Mĩ, Lương Hòa, Nguyệt Hóa, Song Lộc.
- Tổng Trà Nhiêu: các làng Đa Lộc, Long Đức, Hòa Thuận.
Quận Càng Long:
- Tổng Bình Khánh: các làng Đại Phước, Phương Thạnh, Bình Phú, Đức Mĩ, Nhị Long.
- Tổng Bình Khánh Thượng: các làng An Trường, Huyền Hội, Mĩ Cẩm, Tân An.
Quận Trà Cú:
- Tổng Ngãi Hòa Thượng: các làng An Quảng Hữu, Lưu Nghiệp Anh, Ngãi Xuyên, Tập Sơn.
- Tổng Ngãi Hòa Trung: các làng Long Hiệp, Phước Hưng, Đôn Châu.
- Tổng Thành Hóa Thượng: các làng An Thới, Đại Giang, Long Vĩnh.
Quận Cầu Ngang:
- Tổng Bình Trị: các làng Hiệp Mĩ, Mĩ Long, Mĩ Hòa, Mĩ Kim.
- Tổng Vinh Lợi: các làng Hiệp Hòa, Long Sơn, Nhị Trường, Ngũ Lạc.
- Tổng Vinh Trị: các làng Hiệp Thạnh, Long Hữu, Long Toàn, Trường Long Hòa [20].
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, diên cách và địa danh hành chính thuộc tỉnh Trà Vinh có một số thay đổi nhỏ không đáng kể.
Đến ngày 22/10/1956, Tổng thống Việt Nam cộng hòa ra sắc lệnh thành lập tỉnh Vĩnh Bình gồm cơ bản địa bàn của tỉnh Trà Vinh trước đó, tỉnh lỵ đổi tên là Phú Vinh. Lúc này tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh cũ) có 9 quận là Trà Ôn, Vũng Liêm, Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Đến ngày 14/1/1967 theo sắc lệnh số 06/SL/ĐUHC chính quyền Đệ Nhị cộng hoà, tách hai quận Vũng Liêm và Trà Ôn ra khỏi tỉnh Vĩnh Bình để nhập vào tỉnh Vĩnh Long, do đó tỉnh Vĩnh Bình cho đến năm 1975 chỉ còn lại 7 quận: Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn.
Sau 30/4/1975, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhập 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh (Vĩnh Bình) thành tỉnh Cửu Long và tồn tại đến năm 1992 thì tách hoàn lại như cũ. Khi tách ra, tỉnh Trà Vinh có diện tích 2363,03 km², dân số 961.638 người, bao gồm thị xã Trà Vinh và 7 huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú.
Ngày 15/2/2016, thành phố Trà Vinh được công nhận là đô thị loại II.
Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Trà Vinh, thị xã Duyên Hải và các huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú[21].
2. Địa danh Trà Vinh và quá trình tiếp biến văn hóa
Như trên đã dẫn, vùng đất Trà Vinh đã được chúa Nguyễn Phúc Khoát thâu thuộc vào lãnh thổ Đại Việt từ năm Đinh Sửu (1757). Hiện nay, vùng đất này có tên gọi chính thức là Trà Vinh 茶榮. Địa danh này đã được ghi rõ ràng vào sử sách chính thống của nhà Nguyễn kể từ thời Minh Mạng (1820-1840).
Nhưng vấn đề ở chỗ, Trà Vinh 茶榮 là tên gọi Hán hóa của địa danh bản địa vốn có từ trước đó rất lâu. Và thực ra trước thời Minh Mạng, vùng đất này có tên gọi là gì và quá trình Hán hóa địa danh đó diễn ra theo cơ chế như thế nào?
Mặc dù trong sách Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn, bản lưu trữ tại thư viện Viện khảo cổ Sài Gòn có ghi tên thủ Trà Vinh 茶榮[22], nhưng có lẽ bản này đã bị sửa chữa thêm bớt nhiều nên đã xa nguyên bản đáng kể[23].
Thực ra, trong sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của quan Thượng thư bộ Binh đương triều Lê Quang Định, Quyển 7 – Ghi chép về dinh Vĩnh Trấn đã có ghi chép về rạch Chà Vang 𣗪𣞁 và cù lao Chà Vang 𣗪𣞁[24]. Kế đến, cũng vào triều Gia Long, quan Hiệp trấn Gia Định thành Trịnh Hoài Đức trong sách địa chí về bản hạt mang tên Gia Định thành thông chí, Quyển 2 – Sơn xuyên chí: trấn Vĩnh Thanh cũng có ghi chép về sông Chà Vang: Chà Vang giang 𣗪𣞁江.
Hình 1: Địa danh rạch Chà Vang 𣗪𣞁 trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí. Nguồn: Lê Quang Định, Sđd , tr.1014.
Hình 2: Địa danh Chà Vang giang 𣗪𣞁江 trong Gia Định thành thông chí. Nguồn: Trịnh Hoài Đức (1820?, tái bản 2005), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, tr.135 (phần nguyên bản).
Như vậy, từ 2 văn bản gốc đương thời nói trên, có thể biết từ thời Gia Long trở về trước, sử sách nhà Nguyễn vẫn còn ghi địa danh vùng đất này theo âm bản địa là Chà Vang𣗪𣞁, trong đó:
- Chà 𣗪: cành nhánh cây đã đốn hạ (dùng để cho các loài dây leo bám trong trồng trọt hoặc thả xuống sông rạch để dẫn dụ cá);
- Vang 𣞁: “Thứ cây có gai, người ta hay trồng mà làm rào, rễ nó làm màu nhuộm đỏ” (Đại Nam quấc âm tự vị, 1896).
Tuy nhiên, đến đời Minh Mạng, do nhu cầu củng cố chế độ quân chủ tập quyền nên cùng với nhiều cải cách hành chính, các địa danh hành chính khắp cả nước cũng bị Hán hóa để tiện có tên gọi thống nhất và ghi được bằng chữ Hán – văn tự chính thống đương thời.
Do đó, đến Địa bạ Minh Mạng (1836) đã thấy tên huyện Trà Vinh 茶榮 gồm 5 tổng thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long[25]. Đồng thời, các sách sau đó như Đại Nam thực lục tiền biên (1821-1909)[26], Đại Nam nhất thống chí (1865-1906)[27], Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí (1872) [28] cũng ghi các địa danh hành chính bằng chữ Hán như phủ Trà Vinh 茶榮, rồi huyện Trà Vinh 茶榮.
Hình 3: Địa danh Trà Vinh phủ 𣗪𣞁府 trong Đại Nam thực lục tiền biên. Nguồn: Quốc sử quán triều Nguyễn (1821–1909, tái bản 1972). Đại Nam thực lục. Tập 1. Quyển 10 (bản chữ Hán), The Oriental Institute, Keio University, Tokyo, Japan, tr. 148.
Hình 4: Trà Vinh huyện 茶榮縣 trong Đại Nam nhất thống dư đồ (1861). Nguồn: Viễn Đông bác cổ học viện,1953.
Ngoài ra, các sắc phong của nhà Nguyễn ban cho các đình thần trên địa bàn Trà Vinh cũng được ghi rõ địa danh hành chính là Trà Vinh huyện 茶榮縣 (như sắc Tự Đức) và Trà Vinh tỉnh 茶榮省 (như sắc Khải Định).
Về phía chính quyền thực dân Pháp, địa danh Trà Vinh 茶榮 Hán hóa cũng được thống nhất sử dụng trong các văn bản hành chính, chẳng hạn Nam Kỳ lục tỉnh báo (tháng 9/1872): 茶榮所兼理北莊蜀轄又兼理原屬永隆平慶平和二縂[29] Trà Vinh sở kiêm lý Bắc Trang thuộc hạt, hựu kiêm lý nguyên thuộc Vĩnh Long Bình Khánh, Bình Hòa nhị tổng (Lỵ sở Trà Vinh kiêm lý phần đất thuộc hạt [Tham biện] Bắc Trang, lại kiêm lý 2 tổng Bình Khánh và Bình Hòa nguyên thuộc hạt [Tham biện] Vĩnh Long).
Ngoài ra, trong Nam Kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu mục lục [NKĐHTTDHMLa>] (1892) của Tòa Thống đốc Nam Kỳ cũng ghi: 茶榮轄二十縂一百九十九村 Trà Vinh hạt nhị thập tổng, nhất bách cửu thập cửu thôn (Hạt Trà Vinh gồm 12 tổng, 199 thôn)[30].
Trong cuốn Monographie de la province de Trà Vinh (1903) cũng ghi nhận tên tỉnh Trà Vinh 茶榮 có tên cũ là Trà Văn 茶聞.
Do đó, có thể nói, từ đầu thế kỷ XX đến nay, đặc biệt cùng với việc chữ Quốc ngữ từng bước trở thành chữ viết chính thức ở Việt Nam, thì địa danh Trà Vinh coi như đã được chuẩn hóa và Việt hóa hoàn toàn: Địa danh Trà Vinh có vỏ ngữ âm và cấu trúc ngữ pháp tương tự như hàng loạt địa danh khác trong khắp cả nước như: Trà Bình, Trà Bồng, Trà Bương, Trà Câu, Trà Cổ, Trà Khúc, Trà Kiệu, Trà Lân, Trà Lọt, Trà Nóc, Trà Văn, Trà Vong.
Ngược về lịch sử, theo Trương Vĩnh Ký – nhà bác ngữ sống trong thế kỷ XIX – thì địa danh Trà Vinh có nguồn gốc từ Preah Trapeng (Tượng Phật gặp trong ao)[31], gắn với câu chuyện pho tượng Phật trôi dạt vào bờ ao, được tìm thấy và xây ngôi chùa tại chỗ để thờ, đặt tên là chùa Bodhisalareaj (chùa Ông Mẹt), nay tọa lạc tại Phường 1, Tp. Trà Vinh. Ngôi chùa này nằm tại trung tâm hành chính đất Trà Vinh từ xưa đến nay, đồng thời được người Khmer gọi là Wat Kompong (Chùa Bến) cho thấy vị trí giao thương quan trọng của nó.
Xét về ngữ âm học thuần túy, giữa Tra-peng và Trà Vang quả thật có nhiều điểm tương đồng dẫn đến khả năng chuyển đổi cho nhau: P và V cùng vị trí cấu âm (môi) và cùng vô thanh, chỉ khác nhau về phương thức cấu âm (P tắc còn V xát).
Đồng thời, trong lịch sử, tiếng Việt cũng đã có tiền lệ phiên âm địa danh Phnom-peng thành Nam Vang/ Nam Vinh. Cho nên từ Trapeng chuyển thành Trà Vang/Trà Vinh cũng khá dễ hiểu.
Chỉ có điều, như đã dẫn ngay từ đầu, sử sách nhà Nguyễn ngay từ giai đoạn đầu tiên tiếp xúc và thâu thuộc vùng đất này đã không gọi là Trà Vang/Trà Vinh mà gọi là Chà Vang 𣗪𣞁 với hai chữ Nôm là Chà 𣗪 và Vang 𣞁 đều có bộ Mộc 木 chỉ loài cây thân gỗ bản địa khá phổ biến, có thân và rễ màu đỏ, dùng làm thuốc nhuộm và dược liệu.
Do đó, trong tiếng Việt, từ Vang cũng dùng để chỉ màu đỏ hoặc màu vàng sậm. Chẳng hạn rượu vang (chỉ loại rượu có màu đỏ), hay các câu tục ngữ: “Chưa đánh được người mặt đỏ như vang, đánh được người mặt vàng như nghệ”[32], “Lúa vang vang thì vàng con mắt”[33]. Thậm chí, trong Đại tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính cũng dùng chữ (phù hiệu + 荣 Vinh) để ghi âm vàng (màu vàng).
Riêng về các địa danh có yếu tố Vang (như Phú Vang ở Huế, Hòa Vang ở Đà Nẵng), trong thư tịch nhà Nguyễn cũng ghi bằng chữ Vinh (Phú Vang 富榮, Hòa Vang 和榮)…
Đặc biệt, trong trường hợp đặt định các địa danh ở Trà Vinh khi chính quyền nhà Nguyễn vừa mới thâu thuộc, việc xuất hiện hệ thống 10 thôn có tên theo công thức Vang + số từ [34] càng cho thấy rõ khả năng tiếp biến và sáng tạo từ của người Việt mà đằng sau đó chính là tiếp nhận nền văn hóa mới và sáng tạo lại trên chính cái nền văn hóa đó để cho ra bản sắc văn hóa của riêng mình.
Tuy nhiên, mặc cho nhà Nguyễn có chính sách đồng hóa, nhưng người dân địa phương chủ trương hòa đồng văn hóa nên vẫn tự giác duy trì địa danh dân gian cũ (tục danh) song song với địa danh hành chính Hán hóa. Chẳng hạn, trong danh sách địa danh hành chính quận Ô-lắc, tỉnh Trà Vinh năm 1923 vẫn tồn tại ấp Vinh Cửu 榮九 (Vang Cửu), và được ghi kèm tục danh Chà-và 𣗪吧, thuộc làng Vinh Kim.
Hình 5: Ấp Vinh Cửu 榮九, tục danh là Chà-và 𣗪吧, thuộc làng Vinh Kim, quận Ô-lắc, tỉnh Trà Vinh năm 1923. Nguồn: Viện Thông tin Khoa học xã hội, kí hiệu HU. 5250.
3. Tạm kết
Tóm lại, có thể mô hình hóa cơ chế hình thành các địa danh ở Trà Vinh như sau:
Hình 6: Mô hình cơ chế hình thành các địa danh ở Trà Vinh.Nguồn: Lê Công Lý.
Trong hoàn cảnh lịch sử của nước Việt Nam thời Nguyễn, nhất là thời Minh Mạng, quá trình Hán hóa thực chất chính là quá trình chính thống hóa diễn ra về mặt nhà nước. Đồng thời, song song đó, ở cấp tổng và thôn vẫn tồn tại hiện tượng Việt hóa 50% địa danh Trapeng/Trà Vang thành các dạng nhưTrà Bình, Trà Nhiêu Hạ, Vinh Lợi Thượng, Vinh Trị Hạ… và Vang Cửu, Vang Thập, Vang Lộc… Nói “Việt hóa 50%” vì các dạng địa danh này tuy sử dụng từ tố Hán nhưng lại kết hợp theo ngữ pháp tiếng Việt. Chính điều này cho thấy khả năng sáng tạo từ cao độ của tiếng Việt trong một không gian văn hóa mới.
Điều đáng lưu ý là các địa danh Việt hóa 50% này chỉ áp dụng chủ yếu ở cấp thôn ấp và một số ít tổng, cho thấy khả năng bảo lưu tính tự trị của thôn làng.
Như vậy, ngay trong trường hợp lịch sử hình thành địa danh hành chính ở Trà Vinh cũng có thể thấy được quá trình người Việt thâu nhận và tiếp biến văn hóa bên ngoài theo từng bước dè dặt, đi từ địa phương hóa dần dần đến Việt hóa một phần rồi tiến tới chính thống hóa một phần và chính thống hóa triệt để.
Hiện nay, các địa danh nói trên đã ổn định trong hệ thống hành chính của Nhà nước và được ghi thống nhất bằng chữ Quốc ngữ nên có thể nói đã Việt hóa và toàn dân hóa hoàn toàn. Người dân cả nước ngày nay nghe các địa danh ở Trà Vinh không còn thấy xa lạ nữa, không thắc mắc gì nữa, ngoại trừ một số ít nhà nghiên cứu về địa danh có tham vọng đi tìm nghĩa từ nguyên/ lịch sử của nó.
Chỉ riêng quá trình tiếp biến địa danh hành chính từ Preah Tra-peng đến Chà Vang, Trà Vang rồi Trà Vinh như thế và các địa danh phái sinh từ đó cũng cho thấy rõ khả năng tiếp biến cao độ của văn hóa Việt Nam.
─────────────
CHÚ THÍCH:
[*] Tiền Giang
[1] Quốc sử quán triều Nguyễn (1821-1909, tái bản 2004). Đại Nam thực lục. Tập 1, H.: Nxb Giáo dục, tr.164.
[2] Nguyễn Đình Đầu (1994). Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: Vĩnh Long. Nxb.Tp. HCM, tr. 168-171.
[3] Trong Nam Kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu mục lục [NKĐHTTDHML] (1892) ghi là 鸕鷀 Lô Tư (Chim Cốc). Tòa Thống đốc Nam Kỳ (1892, tái bản 2017). Nam Kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu mục lục. Nguyễn Đình Tư dịch, Nxb. Tổng hợp Tp. HCM.
[4] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 金域 Kim Vực (Xứ của vàng).
[5] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 僚友 Liêu Hữu (Bạn đồng liêu).
[6] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 商聚 Thương Tụ (Nơi tụ họp buôn bán).
[7] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 廣蟹 Quảng Giải.
[8] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 月橘 Nguyệt Quất.
[9] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 榮祿 Vinh Lộc (Vang Lộc).
[10] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 永利上 Vĩnh Lợi Thượng.
[11] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 夏新 Hạ Tân.
[12] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 臻密 Trăn Mật.
[13] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 和睦 Hòa Mục.
[14] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 辭封 Từ Phong.
[15] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 永利下 Vĩnh Lợi Hạ.
[16] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 水張 Thủy Trương.
[17] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 澄溝 Trừng Câu (Ngòi nước trong).
[18] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 永治上 Vĩnh Trị Thượng.
[19] Trong NKĐHTTDHML (1892) ghi là 永治下 Vĩnh Trị Hạ.
[20] Tổng thuật theo Nguyễn Đình Tư (2017). Địa chí hành chính các tỉnh Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1858-1954) . Nxb. Tổng hợp Tp. HCM, tr. 590-618.
[21] https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%A0_Vinh. Truy cập ngày 04/02/2025.
[22] Dẫn theo Phạm Hoàng Quân trong lời chú dịch sách Gia Định thành thông chí (2018). Nxb. Tổng hợp Tp. HCM, tr. 227.
[23] Vả lại, Phủ biên tạp lục được biên soạn bởi Lê Quý Đôn, ông vốn là người Đàng Ngoài, vào Phú Xuân giữ chức Hiệp trấn, Tham tán quân cơ chỉ trong vòng 6 tháng và chưa từng bước chân vào đến Nam Kỳ mà chỉ ghi chép theo hồ sơ và lời kể thiếu đầy đủ của người khác.
[24] Lê Quang Định (1808, tái bản 2005). Hoàng Việt nhất thống dư địa chí . Phan Đăng dịch. Huế: Nxb. Thuận Hóa, tr. 327, 1014.
[25] Nguyễn Đình Đầu, Sđd, tr. 168.
[26] Quốc sử quán triều Nguyễn (1821–1909, tái bản 1972). Đại Nam thực lục.Tập 1. Quyển 10 (bản chữ Hán), The Oriental Institute, Keio University, Tokyo, Japan, tr. 148.
[27] Lục tỉnh Nam Việt.Tập Hạ. Sài Gòn: Nha Văn hóa, Bộ Quốc gia giáo dục, tr. 6.
[28] Duy Minh Thị (1872, tái bản 2018). Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí. Thượng Tân Thị dịch. Hồ Biểu Chánh giới thiệu. Trần Thành Trung bổ chú. Huế: Nxb. Thuận Hóa, tr. 215.
[29] Cao Tự Thanh (2022). Hai tờ báo chữ Hán ở Nam Kỳ đầu thời Pháp thuộc : 嘉定報、南圻六省報. H.: Nxb Khoa học xã hội, tr. 173.
[30] Tòa Thống đốc Nam Kỳ (1892, tái bản 2017). Nam Kỳ địa hạt tổng thôn danh hiệu mục lục. Sđd,tr. 120.
[31] Lê Hương (1969). Người Việt gốc Miên.Tác giả xuất bản, Sài Gòn, tr. 254.
[32] Nghĩa là: Khi giận mà chưa đánh được người khác thì sắc mặt đỏ (vì giận), khi đánh được người khác rồi thì sắc mặt người đánh chuyển sang màu vàng (vì lo sợ).
[33] Nghĩa là: Khi lúa chuyển sang màu vàng (sắp chín) thì chủ ruộng cũng đã hết gạo (Đói… vàng mắt!).
[34] Có thể hiểu, Vang ở đây vốn là từ tố Khmer (peng) đã được Việt hóa để tạo nên các từ mới có từ tố Vang này. Các thôn đó mang tên: Vang Nhất, Vang Nhị, Vang Tam, Vang Tứ, Vang Ngũ, Vang Lục, Vang Thất, Vang Bát, Vang Cửu, Vang Thập .
Các thôn này chỉ có tên từ thời Thiệu Trị, khi có chủ trương giải thể (dân sự hóa) các đồn điền, nên không có tên trong danh sách xã thôn trong Gia Định thành thông chí và Địa bạ Minh Mạng . Chính vì vậy mà ngày nay không biết được thực sự các thôn này được ghi bằng chữ viết và âm đọc như thế nào. Tuy nhiên, sách NKĐHTTDHML (1892) lại ghi Vạn Cửu澫九, Vạn Thập澫十, nên có thể xem như là các đơn vị dân cư cơ sở của những người làm chung nghề.
Trước đó, trong sách Gia Định thành thông chí (1820) cũng có ghi nhận đơn vị dân cư gọi là Vạn ở địa bàn khác, nhưng lại ghi bằng chữ Vạn 萬, chẳng hạn thôn Tân Vạn 新萬thuộc tổng Chánh Mĩ, huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa.
Như vậy, có thể nói, từ Vạn vốn có từ lâu trong tiếng Việt, nhưng khi đến Trà Vang/ Trà Vinh dù vẫn giữ nguyên nghĩa nhưng lại có thêm cách đọc mới là Vangcho phù hợp với tình hình phái sinh (Việt hóa) các địa danh khởi nguồn từ địa danh Chà Vang/ Trà Vang . Chính điều này cho thấy khả năng sáng tạo từ cao độ của tiếng Việt và khả năng tiếp biến cao độ của văn hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, trước áp lực hành chính mạnh mẽ từ phía triều đình, không phải toàn bộ các địa danh dân gian này được bảo lưu trọn vẹn. Chẳng hạn, vẫn theo NKĐHTTDHML (1892), thôn Vang Lục 𣞁六 (tổng Trà Nhiêu Hạ) bị Hán hóa thành ra Vinh Lộc 榮祿, đồng thời các tổng Vinh Lợi 榮利, Vinh Trị 榮治thời Minh Mạng bị Hán hóa thành Vĩnh Lợi Thượng 永利上, Vĩnh Lợi Hạ 永利下và Vĩnh Trị Thượng 永治上, Vĩnh Trị Hạ 永治下. (Mặc dù vậy nhưng người dân vẫn tự ý duy trì các địa danh cũ trước đó, chẳng hạn tên tổng Vinh Lợi Hạ 榮利下, huyện Ô-lắc, tỉnh Trà Vinh vẫn được sử dụng trong danh sách địa danh hành chính tỉnh Trà Vinh năm 1923).
Ngoài ra, trong danh sách địa danh hành chính tỉnh Trà Vinh năm 1923 cũng có trường hợp địa danh Vang Thất bị Hán hóa thành (ấp) Giang Thất江七, làng Đại Hòa, tổng Bình Phước. Điều này chứng tỏ quá trình và mức độ Hán hóa/ chính thống hóa các địa danh hành chính diễn ra không đồng đều và không nhất quán giữa các địa phương.

