Tín ngưỡng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức ở Nam bộ

Ths. Lê Công Lý*

1. Đặt vấn đề

Nam Bộ là vùng đất do chúa Nguyễn khai phá, đồng thời cũng là đất trung hưng của nhà Nguyễn với rất nhiều vị khai quốc công thần và trung hưng công thần. Người dân Nam Bộ càng tri ân chúa Nguyễn bao nhiêu thì càng mến mộ các vị khai quốc công thần và trung hưng công thần bấy nhiêu.

Các giai thoại về các chúa Nguyễn, đặc biệt là Nguyễn Ánh, từ rất sớm đã lưu truyền trong dân gian. Đến đầu thế kỉ XX, trước làn sóng văn hóa phương Tây ồ ạt tràn vào đất Nam Bộ, nhiều tầng lớp nhân dân vốn đang sẵn lòng hoài cổ nên càng thêm hoài niệm về thời “Đàng Cựu”. Năm 1925 – 1926, Tân Dân Tử cho ra mắt bộ tiểu thuyết Giọt máu chung tình gồm ba quyển, 28 hồi. Sau đó, bộ tiểu thuyết này nhanh chóng được chuyển thể thành tuồng cải lương Giọt lệ chung tình và bài ca vọng cổ “Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà” vô cùng nổi tiếng. Đến năm 1929, Tân Dân Tử lại kết hợp tài liệu lịch sử và giai thoại dân gian cho ra mắt ba bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ về chúa Nguyễn Ánh và các vị trung hưng công thần, làm say đắm bao thế hệ độc giả Nam Bộ: Gia Long tẩu quốc (1929), Hoàng tử Cảnh như Tây (không đề năm) và Gia Long phục quốc (1932).

Trong số các trung hưng công thần của chúa Nguyễn Ánh, Nguyễn Huỳnh Đức chưa hẳn có công lớn nhất, nhưng là người được đặc ân cao nhất: được vua Gia Long ban họ Nguyễn và hai người con trai được công chúa hạ giá kết duyên. Không rõ dựa vào sử liệu nào, Đào Văn Hội (1951) còn cho rằng Lê Văn Duyệt sơ thời từng nhận Nguyễn Huỳnh Đức làm nghĩa phụ (tr.26).

Như vậy, sinh thời, Nguyễn Huỳnh Đức là vị trung hưng công thần có vị thế tột bậc trong triều: “Tiền hữu lưỡng tướng quân; Bắc Nam tam tổng trấn”, thông gia với vua Gia Long và nghĩa phụ của Tả quân Lê Văn Duyệt. Đặc biệt, tấm lòng trung nghĩa của ông đối với chúa Nguyễn Ánh có thể ví với nhân vật Quan Vũ thời Tam quốc đối với Lưu Bị, nên ông được xem là “Quan Công của Việt Nam”.

Chính vì vậy mà xưa nay Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được người dân địa phương và cả Nam Bộ kính ngưỡng, thể hiện qua việc tín ngưỡng ở làng xã và trong phái Tiên thiên thuộc đạo Cao Đài.

2. Tín ngưỡng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức tại Khánh Hậu và các làng xã khác ở Nam Bộ

Nguyễn Huỳnh Đức sinh năm 1748, là thế hệ thứ hai của tộc họ Huỳnh định cư tại thôn Tường Khánh (nay là P. Khánh Hậu, TP. Tân An, tỉnh Long An). Mặc dù thân phụ ông là Huỳnh Lương thuộc thế hệ khai khẩn – khai cơ vùng đất này, nhưng hiện nay không tìm thấy dấu ấn gì của tộc họ này tại đình Khánh Hậu ngoài mộ phần của song thân của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức. Tuy nhiên, vì tư dinh của quan Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức (dân gian gọi là dinh Ông Tiền) tọa lạc tại giồng Cai Én[1] này nên người dân còn gọi giồng đất này là Giồng Dinh và chợ Khánh Hậu cũng gọi là chợ Dinh. Trước 1975 tại Khánh Hậu cũng có trường tiểu học mang tên Nguyễn Huỳnh Đức. Hiện nay, Nguyễn Huỳnh Đức được đặt tên cho con đường từ Quốc lộ 1 vào lăng ông ở Khánh Hậu[2]. Đồng thời, khu vực trung tâm giồng Cai Én nơi lăng ông tọa lạc hiện nay gọi là Khu phố Giồng Dinh, gắn với tư dinh của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức.

Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức mất năm 1819, giai đoạn thôn ấp Nam Bộ đã được khai phá trước đó hơn một thế kỉ và thể chế văn hóa của thôn làng (đàn, miếu, đền, từđình, chùa, miễu, võ) đã đi vào ổn định, nên hiếm có đình thờ ông, kể cả đình Tường Khánh (nay là đình Khánh Hậu), nơi chôn nhau cắt rốn và qua đời của ông. Mặc dù vậy, người dân Khánh Hậu vẫn xem ông như vị thần bảo hộ của làng xã mình. Trong công trình The study of a Vietnamese rural community – sociology, Gerald C. Hickey (1960) nhận định: “Although Marshal Ducisnot officially known as one of the guardian spirits of Khanh Hau, the villagers nevertheless view him as such. His house is a village shrine, and celebrations marking the anniversary of his death attract people from all hamlets of the village and provincial officials as well” (chuyển ngữ: Mặc dù Nguyên soái Đức không chính thức được biết đến như là một vị thần bảo hộ của Khánh Hậu, nhưng dân làng vẫn xem ông như vị thần bảo hộ. Nhà thờ ông chính là đền thờ của cả làng, và ngày giỗ ông thu hút người dân toàn xóm ấp của làng cũng như các quan chức ở tỉnh) và dòng họ Nguyễn Huỳnh Đức được xem là cố cựu nhất tại làng Khánh Hậu (p.69). Trước 1975, vào mỗi dịp cúng Kỳ yên đình Khánh Hậu đều có nghi thức rước các sắc phong của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức về đình để dân làng cùng hiến lễ. Đám rước rất long trọng, gồm có cờ phướn, hương án, học trò lễ và biểu ngữ “Thành tâm đảnh lễ”. Hai bên trường, người dân bày thêm các hương án nhỏ để dâng lễ cúng đức Tiền quân. Đặc biệt, sau nghi thức Ế mao huyết, phần thịt thăn của con lợn hiến sinh được dành kiếng riêng cho đền thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức (p.76,77,79). Việc kiếng thịt này chính là phong tục bày tỏ lòng biết ơn của dân làng đối với những gia tộc có đại công đối với làng.

Mặc dù vậy, tìm hiểu hầu khắp các đình làng Nam Bộ, chúng tôi chỉ tìm thấy Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được thờ tại các đình làng sau:

  1. Đình Cẩm An, ấp Cẩm An, xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh thờ thần Huỳnh Công Đức (cúng 16/2 âm lịch);

  2. Đình Long Hải, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu [3] thờ Quận công Nguyễn Huỳnh Đức (cúng 12/11 âm lịch);

  3. Đình Mĩ Trung, ấp Mĩ Trường, xã Mĩ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức (cúng 17/3 âm lịch);

  4. Đình Ưu Long, Q.8, TP.HM thờ Tiền quân Kiến Xương quận công (cúng 18/2 âm lịch).

Như vậy, số lượng đình thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được biết đến không nhiều (4 đình[4]), mỗi đình có quy mô không lớn. Trong đó, chỉ có đình Long Hải có sắc Bảo Đại thập nhất niên (1936) phong Quận công Nguyễn Huỳnh Đức làm thần làng này. Đây là sắc phong muộn, khi Nam Bộ đã hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp, nên mặc nhiên có sức ảnh hưởng không nhiều.

Ngoài ra, ngày cúng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức tại các đình nói trên cũng không thống nhất, đồng thời ông được tôn xưng bằng các danh hiệu khác nhau tùy từng đình, cho thấy rõ tính dân gian, tự phát của tín ngưỡng này.

Mặt khác, do Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được kính ngưỡng ở hầu khắp Nam Bộ nên theo học giả Vương Hồng Sển (1974), có nhiều địa danh bị nói trại đi do kiêng húy ngài. Chẳng hạn: Thành Đức thành ra Thiềng Đước (Long Hồ, Vĩnh Long), Hảo Đức thành ra Hảo Đước (Châu Thành, Tây Ninh), Thượng Đức thành ra Thượng Đước (thôn cũ nay thuộc xã Thạnh Đức, Bến Lức, Long An), Phục Đức thành ra Phục Đước (xã Tân Kiên, Bình Chánh, TP.HCM),...(tr.152).

Trong Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nam Chi Bùi Thanh Kiên (2016) cho rằng “Đước: một cách phát âm của người Nam Bộ khi đọc chữ Đức, có lẽ vì kiêng tên của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức, công thần của vua Gia Long”. Chính vì quá kính nể oai linh của vị hổ tướng này nên dân gian mới lưu truyền nhiều câu chuyện hiển linh của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức, chẳng hạn: chuyện Tổng đốc Trần Bá Lộc bị vật té khi dám nằm lên bộ ván độc của ngài:

Ông Nguyễn Huỳnh Tân, cháu năm đời của ngài Tiền quân thuật với chúng tôi rằng, từ lúc chánh khí về thần tới nay, chẳng có ai dám ngồi trên bộ ván của ngài hết.

Hồi năm 1880, nghĩa quân của ông. Ông nổi lên chống Pháp tại Lương Phú (Mĩ Tho) bây giờ. Tổng đốc Trần Bá Lộc đắc lịnh tiễu trừ, ghé làng Khánh Hậu, vào miếu đường Tiền quân, bắt nhân dân vùng đó tra khảo. Lộc là người Thiên Chúa giáo, không tin quỉ thần, cứ leo đại lên bộ ván ấy ngồi chễm chệ.

Giữa lúc đám cháu chít ngài Tiền quân bước ra lom khom cúi lạy chào quan thì Trần Bá Lộc đang ngồi trên ván bỗng té nhào xuống đất bất tỉnh nhân sự. Bọn lính hầu bèn khiêng ông để nằm trên bộ ván kế đó. Chặp sau, Lộc tỉnh dậy như thức giấc chiêm bao, thuật lại với mọi người như vầy: “Ta đương ngồi trên ván thình lình có một bọn năm sáu tên lính hầu của quan Tiền quân vâng lịnh ngài đến bắt ta đem đi chém, ta vùng vẫy với bọn lính hầu nên té tuốt xuống đất”.

Ông lại nói tiếp: “Từ hồi nào tới giờ, một tay ta đánh nam dẹp bắc, giết người như chém cỏ, chẳng biết nể một ai, mà đến đây lần nầy là lần thứ nhứt, ta phải kiêng sợ bộ ván anh linh của quan Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức như vậy”. (Đào Văn Hội, 1951, tr. 30-31);

Hay thầy pháp bị té khi dám ngồi kiệu ngang cổng lăng của ngài...v.v.. (Nguyễn Huỳnh Khai, Nguyễn Huỳnh Ngọc, 1963, tr.33-36).

Song song với việc Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được tôn kính, các hậu duệ nam của ông cũng được dân làng Khánh Hậu trọng vọng, mặc định được xếp vào giới quý tộc trong làng (Gerald C. Hickey, 1960, p.118) và được đề cử một số chức vụ trong làng. Chẳng hạn, trước 1975 có ông Nguyễn Huỳnh Tân (đời thứ 5) làm chức Hương quan, ông Nguyễn Huỳnh Trân (đời thứ 6) làm Xã trưởng.

3. Tín ngưỡng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức trong đạo Cao Đài - phái Tiên thiên

Do tọa lạc tại giồng Cai Én, giồng đất đầu tiên trong hệ thống Ba Giồng tính từ phía Sài Gòn, nên làng Khánh Hậu có lịch sử định cư lâu đời của người Việt. Đầu thế kỉ XX, trong bối cảnh văn hóa phương Tây ồ ạt tràn vào Nam Bộ thì ý thức bảo tồn văn hóa truyền thống dân tộc của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là trí thức, cũng trỗi dậy mạnh mẽ. Nhu cầu hòa hợp văn hóa Đông Tây trước để không bị hòa tan chính là động lực căn bản để các trí thức Tây học lúc bấy giờ thành lập đạo Cao Đài.

Đại diện cho truyền thống văn hóa Việt Nam trong đạo Cao Đài là Thanh Sơn chân nhân/ Thanh Sơn đạo sĩ, tức Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài ra, còn nhiều vị danh nhân và anh hùng dân tộc khác của Việt Nam cũng đã từng giáng cơ dạy đạo trong các chi phái Cao Đài.

Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức vốn là một danh nhân lừng lẫy trong lịch sử Việt Nam trung đại, lại xuất thân từ giồng Cai Én thuộc vùng địa linh Ba Giồng, nên cũng từng giáng cơ dạy đạo.

Từ năm 1930, Giáo hữu Nguyễn Hữu Chính tách khỏi Tòa thánh Tây Ninh để lập phái Cao Đài Tiên Thiên. Đến năm 1933, ông lập được 72 tịnh đàn ở khắp Nam Bộ, trong đó có Phủ Minh đường (Phủ Thờ) đặt tại Nguyễn Huỳnh tông miếu, tức đền thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức ở Khánh Hậu, dưới sự điều hành của ông Nguyễn Huỳnh Tân, hậu duệ đời thứ năm của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức.

Theo Minh giáo thánh truyền, năm 1936, Ngọc hoàng Thượng đế giáng đàn tại thánh tịnh Hắc Long Môn (Bạc Liêu) ban cho thi bài giới thiệu và tóm lược hoạt động của từng thánh tịnh trong số 72 thánh tịnh của phái Tiên Thiên. Trong đó, thánh tịnh Phủ Thờ được giới thiệu như sau:

Phủ thờ ra chẳng qua cổ miếu,
Nhơn chí thành một điệu trung thần.
Bán khai phục quốc tân dân,
Sửa giềng minh đức phải cần trau tria

(Toà thánh Châu Minh, 2015, tr. 92 – 93)

Đến năm 1949, Phủ Minh đường đã đông đủ tín đồ tu tập, nên ông Chánh sự Võ Văn Chiêu cùng ông Nguyễn Huỳnh Tân (thủ tự Nguyễn Huỳnh tông miếu [5]) thuê đất để cất Tam Thanh bửu điện/Cao Minh Quang kế bên Nguyễn Huỳnh tông miếu. Phía sau chánh điện là nhà khách, có bàn thờ chính giữa thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức (Gerald C. Hickey, 1960, p.215).

Như vậy, nếu như Phủ Minh đường đặt tại Nguyễn Huỳnh tông miếu chính là tiền thân của Tam Thanh bửu điện hiện nay, thì cũng phải thừa nhận vai trò đỡ đầu của Nguyễn Huỳnh tông miếu mà không ai khác chính nhờ uy tín của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đối với thánh tịnh này, mà trên con dấu của Phủ Minh đường trước 1975 có ghi “Tiên Thiên đại đạo. Phủ Minh đường Quan Võ Tiền quân” chính là bằng chứng.

Bởi vậy, Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức thỉnh thoảng giáng cơ dạy đạo trong phái Tiên thiên, khi tại thánh tịnh Cái Khế (Cần Thơ), lúc tại Tam Thanh bửu điện (Khánh Hậu), thường thông qua các bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật và song thất lục bát. Ý nghĩa lời dạy của ngài rất uyên áo, thường dùng lối chơi chữ như đồng âm, quán thủ, chiết tự, ẩn dụ, v.v. Chẳng hạn, trong bài thơ Huỳnh Đức đế quân giáng cơ giáo huấn ông Nguyễn Huỳnh Tân (cháu đời thứ năm) vào năm 1929, mở đầu bằng cách chơi chữ chiết tự như sau:

翰林武院轉山通
二十一田入庫同
德貫乾坤銘宇宙
義伕日月振南東。。。

Hàn lâm võ viện chuyển sơn thông,
Nhị thập nhứt điền nhập khố đồng.
Đức quán kiền khôn minh vũ trụ,
Nghĩa phò nhựt nguyệt chấn Nam Đông…

Để hiểu những câu này cần phải chiết tự chữ Nho như sau:

  1. Câu 1: Chữ viện 院 có bộ miên 宀 gần giống chữ sơn 山, nên chữ viện 院 bỏ chữ sơn 山 (‘chuyển sơn thông’), ý nói bỏ bộ miên 宀 đi thì thành chữ Nguyễn 阮. Vậy câu đầu ám chỉ chữ Nguyễn 阮.

  2. Câu 2: Chữ nhị thập 廿 thêm chữ nhứt 一, chữ điền 田 và chữ nhập 入 (ám chỉ chữ bát 八, vì tự dạng gần giống) thì thành chữ Huỳnh 黃.

  3. Câu 3: Đức 德 là tên húy của đức Tiền quân.

Vậy 3 câu đầu chiết tự và chơi chữ ám chỉ: Nguyễn Huỳnh Đức.

Qua đó, tín đồ và hậu duệ được biết ngài đã được “thiên tước” là Huỳnh Đức đế quân. Hiện nay, tại Nguyễn Huỳnh tông miếu vẫn còn thờ bài vị của ngài như sau: 天敕黃德帝君越南郡公 Thiên sắc Huỳnh Đức đế quân Việt Nam quận công.

Tại Nguyễn Huỳnh tông miếu và đền thờ ngài hiện còn nhiều câu đối vốn là lời thơ giáng cơ của ngài để dạy đạo cho con cháu. Chẳng hạn:

德貫乾坤銘宇宙
義扶日月振南東

Đức quán càn khôn minh vũ trụ,
Nghĩa phònhật nguyệt chấn nam đông
.

Ngoài ra, ngay phía trước Thánh tịnh Tam Thanh bửu điện còn có miếu Thần hoàng của làng Khánh Hậu, thờ phụng theo hướng dẫn của cơ bút Cao Đài phái Tiên thiên. Bên trong miếu có thờ thần chủ:

皇越欽差掌奇文明候諡忠愨范府君之神主

Hoàng Việt Khâm sai Chưởng cơ Văn Minh hầu thụy Trung Khác Phạm phủ quân chi thần chủ.

Tương truyền đây chính là con rể của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức là Văn Minh hầu họ Phạm, có lăng mộ hiện còn tại Khánh Hậu [6], được đức Cao Đài phong làm Thần hoàng làng Khánh Hậu.Trong miếu có hộp gỗ sơn son thếp vàng, đựng hai tấm gỗ cũng sơn son thếp vàng, có nội dung:

前軍管前保一衛衛尉欽差掌奇文明候珞綿世澤堂

Tiền quân quản Tiền bảo nhứt vệ Vệ úy Khâm sai Chưởng cơ Văn Minh hầu lạc miên thế trạch đường
(Tư dinh của Văn Minh hầu, chức Khâm sai Chưởng cơ, nguyên là Vệ úy chỉ huy Tiền bảo thứ nhứt của Tiền quân được sáng chói đời đời như vòng chuỗi ngọc).

龍飛在己卯年建中春月初柒日後造立結完成私第

Long phi tại Kỉ Mão niên kiến trọng xuân nguyệt sơ thất nhựt hậu tạo lập kết hoàn thành tư đệ
(Tư dinh tái lập hoàn thành ngày 7 tháng 2 năm Kỉ Mão 1819).

Vị ‘Thần hoàng bổn cảnh’ Văn Minh hầu này đã giáng cơ dạy đạo rất nhiều tại Nguyễn Huỳnh tông miếu, Tam Thanh bửu điện và nhiều tịnh đàn khác của phái Tiên Thiên. Có cả bài thơ do Huỳnh Đức đế quân (tức Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức) và Thần hoàng bổn cảnh cùng giáng cơ dạy đạo tại Ngọc Vân đàn (Tân An) như sau:

Nguyễn vương phong tặng tước Công - Hầu[7].
Huỳnh rõ đệ huynh hữu sự cầu.
Đức tánh công bình đâu chẳng vị,
Giáng
phân cho trẻ rõ cơn sầu.
Bổn
thôn quý tế thường niệm tưởng,
Cảnh cũ huờn lai tước vị Hầu.
Thần
giúp đệ huynh tròn bổn phận,
Hoàng Thiên truyền nấy tối cơ mầu
[8].

(Nguyễn Huỳnh Khai, Nguyễn Huỳnh Ngọc, 1963, tr.57).

Sau đó là lời giáo hóa của ngài dành cho con cháu Huỳnh tộc, chẳng hạn:

Nguyễn dốc một lòng giúp đạo cao,
Huỳnh hoa lìa cội vẫn tươi màu.
Đức vì con trẻ thần cơ chuyển,
Giáng điển trợ đồng tỏ trước sau.

Theo Minh giáo thánh truyền, Huỳnh Đức đế quân tức Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức có rất nhiều lần giáng cơ, nhưng phần lớn ông chỉ làm nhiệm vụ báo đàn và chứng đàn chứ ít khi ban thánh giáo. Quyển Lịch sử gia phả Huỳnh tộc – Kiến Xương quận công Nguyễn Huỳnh Đức 1748 – 1819 chỉ ghi nhận ba lần giáng cơ của ngài vào các năm 1928, 1932 và 1938 để bảo ban con cháu trong nhà như là một kiểu gia huấn nhuốm màu tôn giáo Cao Đài. Chính vì tính chất gia huấn đó nên ngài chỉ giáng đàn ban thánh giáo tại các thánh tịnh nơi có các nhánh hậu duệ của mình như Phủ Minh đường/ Phủ Thờ, Ngọc Vân đàn (Tân An); thánh tịnh Cái Khế (Cần Thơ).

Đặc biệt, trong nhiều lần giáng cơ tại nhiều tịnh đàn khác nhau vào những năm của thập niên 30, thế kỷ XX, Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức thường tập trung bảo ban, hướng dẫn cụ thể cho người cháu đời thứ năm là ông Nguyễn Huỳnh Tân trong việc tu thân hành đạo và trùng tu Nguyễn Huỳnh tông miếu cũng như mộ phần của các thế hệ trước[9] (Nguyễn Huỳnh Khai, Nguyễn Huỳnh Ngọc, 1963, tr.61).

Do đó, ở đây cũng cho thấy rõ ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ danh nhân dân tộc và tín ngưỡng gia tiên trong đạo Cao Đài, phái Tiên Thiên. Đồng thời, việc Huỳnh Đức đế quân chỉ giáng đàn trong phái Tiên Thiên, phái mang tính bình dân đại chúng nhất trong số 12 chi phái Cao Đài, cũng cho thấy phong cách bình dân của ngài, dẫu sinh thời ngài từng là đệ nhất công thần của triều đình. Hay nói cách khác, tín ngưỡng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đã và đang sống trước hết trong lòng của tầng lớp bình dân Nam Bộ.

4. Thay lời kết

Dòng họ Nguyễn Huỳnh tại Khánh Hậu khởi đi từ ông Huỳnh Lương (thân phụ của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức) vốn làm chức Cai đội (chỉ huy 50 lính), tham gia khai phá và lập nghiệp tại giồng Cai Én. Đến đời Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức, nhờ huân công cao nên được ban quốc tính và truy tặng đến đời cha và ông cùng nhiều ân sủng khác của triều đình. Tuy nhiên, do Nam Bộ sớm rơi vào tay thực dân Pháp (40 năm sau ngày mất của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức) nên việc thờ phụng ông sau đó không còn mang tính chính thống của triều Nguyễn nữa mà chỉ chủ yếu mang tính chất gia tộc và dân gian.

Mặc dù ông là bậc trung hưng công thần công thần của nhà Nguyễn, nhưng tài ba thao lược và đặc biệt là tấm lòng trung thành, thủy chung như một của ông đã đi vào lòng dân và có sức sống trong dân gian. Hai trăm năm trôi qua, với bao cuộc chiến tranh binh lửa, nhưng Nguyễn Huỳnh tông miếu và đền thờ cũng như lăng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức vẫn được gìn giữ nguyên vẹn, thậm chí còn trở thành nơi tị nạn chiến tranh cho đồng bào tản cư. Điều gì khiến lăng mộ và đền thờ ông có khả năng ‘miễn dịch’ với chiến tranh tàn phá như vậy, nếu không phải là tín ngưỡng tôn thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức trong lòng dân?

Như vậy, gia tộc Nguyễn Huỳnh ở Khánh Hậu khởi đi từ di dân miền Trung vào Nam khai hoang lập nghiệp, gặp cơn quốc biến đã sinh ra bậc đại tướng tung hoành bốn cõi, nhưng rồi cuối cùng cũng phải quay về sống trong lòng dân, tuy bình dị nhưng vững bền như sức sống của dân gian.

Có điều đáng băn khoăn là, sức ảnh hưởng của đình làng hiện nay đang ngày càng mờ nhạt, nên tầm ảnh hưởng của tín ngưỡng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được thờ trong đình cũng giảm sút theo. Cộng với sinh hoạt cơ bút hiện nay không còn, kinh sách phái Tiên Thiên hạn chế, nên thánh giáo của Huỳnh Đức đế quân hiện nay ít ai biết đến. Ngoài ra, kênh giáo dục truyền thống trong cuộc sống hiện đại có nhiều hạn chế, đứt gãy truyền thống văn hoá mà trong đó tín ngưỡng Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức cũng cùng chung số phận.

* Tác giả chân thành cám ơn đến ông Nguyễn Huỳnh Triều, hậu duệ đời thứ 7 của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức, đã cung cấp tư liệu cho bài viết này. Ảnh tư liệu: Lê Công Lý.


Hình 1: Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức được thờ giữa chánh điện đình Mĩ Trung, (xã Mĩ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang).


Hình 2: Tiền quân Kiến Xương quận công được thờ giữa chánh điện đình Ưu Long, (Quận 8, TP.Hồ Chí Minh).


Hình 3: Thần vị ‘Thiên sắc Huỳnh Đức đế quân Việt Nam quận công’ tại Nguyễn Huỳnh tông miếu...

─────────────

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đào Văn Hội.(1951). Danh nhân nước nhà. Sài Gòn.

  2. Gerald C. Hickey.(1960). The study of a Vietnamese rural community – sociology, Michigan state university – Vietnam advisory group, p.135.

  3. Hội Khảo cứu phong tục Đông Dương (1938). Bản khaiThần tích - Thần sắc, làng Long Hải, tổng An Phú Thượng, quận Long Điền, tỉnh Bà Rịa, kí hiệu: TTTS.17957; Bản khai Thần tích - Thần sắc, làng Bình Hòa, quận Mộc Hóa, tỉnh Tân An, kí hiệu: TTTS 18219, TTTS 18220, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.

  4. Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên, Toà thánh Châu Minh (2015). Minh giáo thánh truyền – thi văn diệu lí.Hà Nội: Tôn giáo.

  5. Lê Quang Định.(1806, tái bản 2005). Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (Bản dịch của Phan Đăng). Huế: Thuận Hóa.

  6. Nam Chi Bùi Thanh Kiên.(2016). Từ điển phương ngữ Nam Bộ. Hà Nội: Hội nhà văn.

  7. Nguyễn Huỳnh Khai, Nguyễn Huỳnh Ngọc.(1963). Lịch sử gia phả Huỳnh tộc – Kiến Xương quận công Nguyễn Huỳnh Đức 1748 – 1819. Bản in Ronéo.

  8. Vương Hồng Sển.(1974, tái bản 1997), Hơn nửa đời hư. Hà Nội: Văn hóa Thông tin.

─────────────

* Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.

[1] Đây là giồng đất nhỏ, nên cũng có thể gọi là . Tên gọi giồng/ gò này được ghi không thống nhất: Cai Én, Cái Én, Cánh Én, Cai Yến, v.v. Sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1808) của Lê Quang 2. Định ghi là 該[燕鳥]墥 Cai Én đổng (Quyển 2, tờ 69b), tức gò Cai Én.

[2] Hiện nay tại TP.Mĩ Tho, tỉnh Tiền Giang cũng có con đường mang tên Nguyễn Huỳnh Đức.

[3] Sắc Bảo Đại thập nhất niên (1936) phong Quận công Nguyễn Huỳnh Đức làm thần làng Long Hải, tổng An Phú Thượng, quận Long Điền, tỉnh Bà Rịa.

[4] Ngoài ra, cũng có thể kể đến đình làng Bình Hòa, tổng Thanh Hòa Hạ, quận Mộc Hóa, tỉnh Tân An (nay thuộc huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An), là nơi thờ Phò mã Nguyễn Huỳnh Thành, con trai trưởng của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức.

[5] Lúc này đền thờ Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức chưa cất riêng biệt như hiện nay mà còn tại Nguyễn Huỳnh tông miếu.

[6] Hiện không thấy mộ bia, còn chữ Hán trên bình phong đã mòn, không đọc được.

[7] CôngKiến Xương quận công Nguyễn Huỳnh Đức, HầuVệ úy Văn Minh hầu, tức Thần hoàng bổn cảnh.

[8] Trích Thánh giáo ngày 10/10 năm Nhâm Thân 1932 tại Phủ Minh đường, tức Nguyễn Huỳnh tông miếu.

[9] Trích Thánh giáo ngày Rằm tháng 9 năm Nhâm Thân 1932 tại Ngọc Vân Đàn (Chợ Lớn).