Đạicương về Lục Tỉnh
[(LụcTỉnh là tên cũ của vùng Đồng Nai CửuLong. Năm 1831 Vua Minh Mạngđổi tên các “trấn” thành “tỉnh” và địa danh“Nam Kỳ Lục Tỉnh” từ đó mà có. Địa danh nầy bao gồmphần đất từ phía Nam của Bình Thuận chođến hết vùng Cà Mau. Lục Tỉnh hay Sáu Tỉnh lúc đó gồm Biên Hòa,Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giangvà Hà Tiên.
Khi Pháp chiếm tất cả LụcTỉnh và sau nhiều năm bình định xong, năm 1899Toàn Quyền Paul Doumer ký sắc lệnh chia “LụcTỉnh” thành 20 tỉnh (Phú Điền), và ít lâu sau táchCấp (vũng Tàu) ra khỏi Bà Rịa thành một tỉnhriêng. Tình trạng 21 tỉnhcủa Miền Đồng Nai Cửu Long kéo dài chođến hết năm 1975. Lúc chúng tôi học đến lớp nhất, (1950) đã thuộc lòng tên 21 tỉnh nầy, (và bây giờvẫn còn nhớ mồn một) qua 3 câu sau đây:
Gia - Châu - Hà - Rạch - Trà - Sa - Bến
Long- Tân - Sóc - Thủ - Tây - Biên - Mỹ
Bà- Chợ - Vĩnh - Gò - Cần - Bạc - Cấp
(GiaĐịnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Trà Vinh, SaĐéc, Bến Tre, Long Xuyên, TânAn, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Biên Hòa, Mỹ Tho, Bà Rịa, Chợ Lớn, VĩnhLong, Gò Công, Cần Thơ, BạcLiêu, và Cấp (Vũng Tàu ngàynay, xưa có tên Pháp là Cap Saint Jacques).
Lẽ dĩ nhiên sau khi Pháp rút khỏi VN vào1955, và dưới thời VN Cộng Hòa, cũng như sau 1975, ranh giới của một số tỉnh, vàmột số địa danh đã có nhiều thay đổi.)]
Cô gáiGò Công và ông vua “du học sinh”
Chàng nói tiếng Tây như ngườiPháp. Nàng nói tiếng Pháp ynhư “đầm” Paris (Pháp: dame = đàn bà). Chàng là “đệ nhất công dân”của VN được triều đình gởi sang Pháphọc. Nàng con nhà giàu có,miền Lục Tỉnh, có ruộng lúa “cò bay thẳng cánh,chó chạy cong đuôi”, giàu “nứt đố, đổvách” cũng du học bậc trung học ở xứTây.
Khi mới làm quen với nàng, chàng đã than“nghèo”:
Cây khô tưới nước vẫn khô
Convua nhưng đến xứ mô vẫn nghèo
(câu đúng là “Vận nghèo đi đếnxứ mô vẫn nghèo”).
Chàng nói thật lòng đấy, vì tuy làtriều đình gởi đi, nhưng “phụ cấp hàngtháng” rất là tương đối, giới hạn, sovới Nàng thì … thật thua xa.
Nàng không để ý đến chuyệngiàu nghèo, nhưng cũng biết nói chơi cho vui:
Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tếĐồng Nai
Nướcsông trong, sao lại chảy hoài,
Thươngngười xứ lạ lạc loài đến đây.
Nàng thỏ thẻ tiếp theo, gợi ýmời mọc, khuyến khích:
Nhà Bè nước chảy chia đôi
“Ai” về Gia Định cùng tôi thìvề.
(có nơi chép: Nhà Bè nước chảy chia hai, Ai về GiaĐịnh Đồng Nai thì về)
Khi gặp Nàng lần đầu, Chàng“bonjour” (chào) nàng bằng cách bắt tay theo kiểu Pháp. Chàng biết “nịnh đầm”bằng câu ca dao miền Lục Tỉnh:
Tay Bậu vừa trắng vừa tròn
Quavề nằm ngủ, mỏi mòn đợi trong
Bậuvề ở xứ Gò Công
Quavề Thành Nội nhớ mong tháng ngày.
Hai câu đầu còn được ghi:
Tay em vừa trắng vừa tròn
Emcho ai mượn nằm mòn một bên
Ngoài ra hai câu sau (nói về Gò Công và ThànhNội) chắc là do bạn già của tôi bịa ra, tôichưa bao giờ nghe tới lần nào, tôi có gạnhỏi “va” thì “va” (va là anh ta,ông ta) nói nhớ sao đọc vậy, muốn xài thì xài,không xài cứ bỏ. Nhưngvần điệu, nội dung đều hay làm sao bỏđược.)
Nghe vậy Nàng thật lòng cảmđộng. Nhưng . . . làmsao tin được chàng trai xa lạ và lại thuộcdòng “vương giả cao sang” nầy. Để thử lòng chàng, nàngbảo nhỏ giọngthẳng thắn, đặc sệt miền “LụcTỉnh” : “Toa phải thề Moa mới’ tin” (Pháp: Toi = anh,moi = tôi, em, chữ gọi nhau cách thân mật) . Chàng mạnh miệng thềrằng: “Nếu Moa mà có nóiláo với Toa thì cho Moa:
Trèo lên ngọn ớt, ớt gãy nhánh,
Moarớt xuống ngọn hành
Hànhđâm Moa lủng ruột cho đành dạ Toa.”
Haicâu thề “xạo” được truyền miệng là:
Trèolên ngọn ớt, rớt xuống ngọn hành
Hànhđâm lủng ruột cho đành dạ em;
Hoặc:
Hành đâm anh lủng ruột, sao em đànhlàm ngơ)
Chàng tiếp theo ngay: “Qua nói chơi choBậu vui. Thật ra Qua rất thương Bậu, Quahứa là sẽ thủy chung suốt đời:
Bao giờ Long Thọ* hết vôi
ĐồngNai hết nước anh thời quên em**.”
(*Theo Họcgiả Trần Gia Phụng, Long Thọ là một nơichuyên sản xuất vôi, ở gần Huế. ** TheoTiến sĩ Phan Tấn Tài (PTT), hầu hết các câu cadao trong vùng ĐN-CL đều dùng “chừng nào” thay vì “baogiờ” ). Các câu sau đâytương tợ câu trên:
Chừng nào (Bao giờ) cạn lạchĐồng Nai
Nátchùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền.
Hoặc:
Chừng nào đá nát vàng phai
Cửulong hết nước mới sai lời nguyền.
Hay là:
Chừng nào trời nọ bể hai
Bôngvông* màu trắng mới phai lời thề.
(* Vông: Mộtloại cây ở đồng bằng Đồng Nai –Cửu Long, có bông màu đỏ sậm.)
Thêm vào còn có vài câu thề khác:
Chừng nào hếtcỏ Tháp Mười
Cửu Long hết nước Anh thời quên em.
Hoặc:
Chừng nào chiếc xáng* nọ bung vành
Tàutây kia liệt máy, anh mới đành rời xa em.
(Xáng: loạitàu được kiến trúc rất chắc chắn, dùngvét lòng sông cho sâu để tàu bè lưu thông không bị mắccạn.
Nàng nghe vậy càng cảm động hơn, Tuy nhiên Nàng còn lo lắng một vấn đề kháccó thể làm trở ngại cho việc hôn nhơn: Nàng theoCông giáo, Chàng thuộc hoàng phái với nhiều thành tíchcấm đạo, và đôi khi tổ tiên Chàng con ra lệnhtàn sát người theo đạo nữa. Nàng lolắng tỏ bày:
Một bên đạo, một bên đời
Côngcha nghĩa mẹ tội trời ai mang.
Chàng đưa đề nghị rõ ràng:
Ví dầu Bậu có thương Qua
A-menphận thiếp, quốc gia chuyện Chàng.
(Bốn câu bêntrên không phải câu hát ru em hay ca dao, mà chỉ là một giaithoại, nghe kể lại rằng Vua Bảo Đạiđã nói với Nàng tại“dinh nghỉ mát” Vũng Tàu, lúc đó hai người chỉmới quen nhau, sự thật ra sao nào ai biếtđược?)
Chàng đã thương Nàng lắm rồi,nhưng vẫn ngay ngáy lo âu:
Đèn treo cột đáy, nướcchảy cột đèn run
Anh thương em thảm thiết vô cùng
BiếtCha với Mẹ có bằng lòng hay không?
Tuy nói vậy, chớ Chàng và Nàng đãquyết lòng cùng nhau xây đắp tương lai, sốngcuộc đời lứa đôi hòa thuận. Chàngmượn câu hò miền Lục Tỉnh để diễntả:
Đèn nào cao cho bằng đèn ChâuĐốc*
Giónào độc cho bằng gió Gò Công
Vợchồng son một lòngước mong
Thuậnvợ chồng ta cùng tát Biển Đông
Thế là sau đó Chàng, vua BảoĐại, vị vua cuối cùng của triềuNguyễn, và cũng là vị vua cuối cùng của thểchế quân chủ ở VN, đã cưới Nàng, tênNguyễn Hữu Thị Lan, một cô gái gốc Gò Công,(cũng có nơi nói Nàng người gốc Tân An, cũngkhông sai vì ngày xưa có một thời Gò Công là mộtphần của Tân An) làm vợ.
Quyền, tiền và sự kiện cùngcăn bản học vấn đã được tác duyên.Và một câu ca dao củamiền Huế đã được ai đó biếnđổi một chút cho hợp tình hợp cảnh:
Gió đưa cành trúc là đà
Tiếngchuông Thiên Mụ, canh gà Gò công
Chàng tuy không có nhiều thực quyền khilàm vua, nhưng có đủ can đảm làm trái lạimột trong năm “điều cấm” nổi danhđược truyền miệng từ thời vua MinhMạng: Sau khi trở thànhrể quí của Gò Công, Chàng phong nàng làm “Nam PhươngHoàng Hậu”.
Năm điều mà các vua nhà Nguyễn,kể cả vua Minh Mạng, không được làm là: phongHoàng hậu, lập Thái tử, phong Vương tước, phong Tể Tướng,và phong Trạng nguyên. ((Theo học giả Trần GiaPhụng, những “điều cấm” đóđược gọi chánh thức trong sử sách là lệ“ngũ bất lập” (năm điều không lập). Và vì vua không có ký văn kiện hayra chiếu chỉ gì cả nên sử gọi “lệ”nầy của nhà Nguyễn là “quy ước bất thànhvăn” )).
Tôi ham mộ mối tình vương giảnhiều khó khăn nầy. Tôithán phục Chàng và Nàng đã tìm được giải phápổn thỏa để tiến tới cuộc hôn nhân,một cuộc hôn nhơn tốt đẹp, ít nhất làtừ lúc cưới nhau năm 1934 (Bảo Thái) chođến khi thoái vị vào tháng 8, 1945.
Trong trong thời gian nầy Nàng và Chàng sinhđược năm con, hai hoàng tử (đầu lòng vàút) và ba công chúa (Bảo Long, Phương Mai, PhươngLiên, Phương Dung và Bảo Thắng.)
Vì ham mộ tôi mới mượn tên Chàng vàNàng đểâ đọc giùm tôi mấy câu hát dân gianvừa thu chép được.
Cô gái Gò Công đã nhận lãnh tướcvị cao nhất mà Vương triều nhà Nguyễn dànhcho Nàng. Còn chàng thì sao?
Chàng ở vào cái sự thế mà đờigọi là “chuột sa hũ nếp”. Không biết cha mẹ Nàng cho Nàngbao nhiêu làm của “hồi môn”. Nhưng điều mà người ngoài biếtđược là cậu ruột nàng, ông Lê Phát An, đãtặng nàng món quà cưới một triệu đồngĐông Dương (bạc mặt). Con số nầy là con sốkhổng lồ của thời 1934.
[(Theo họcgiả Vương Hồng Xển, vào thời điểmđó “tờ giấy xăng (Pháp : Cent là 100 = tiềngiấy 100 đồng) có người trọn đờichưa từng thấy, và giàu bạc muôn, tức trong nhà cóđược mười ngàn, là đã giàu bạc nứtđố đổ vách.” Phải chăng nhờ vào sự kiện đó mà chàng“enjoyed” (hưởng thụ) cuộc sống làm vua khôngquyền, nhưng vẫn thoải mái đi săn bắn vàdu lịch nhiều hơn là làm các việc liên hệđến vận mệnh dân tộc?)]
Phải chăng vì Gò Công có gió độc,nên nghề làm vua của Chàng phải trải qua nhiềulận đận lao đao trong mấy chục nămcuối của đời Chàng?
Và cuộc đời của Nàng sau biếncố 1945 cũng có nhiều u buồn do vậnnước hay vẫn do gióđộc Gò Công?
Sau khi Chàng thoái vị và được“mời” ra Hà Nội làm Cố Vấn” cho Hồ Chí Minh,Chàng lại đem lòng thương một cô gái BắcNinh. Giữa chàng và Nàng cónhiều lục đục. Hình như khoảng cuối thập niên 1940 hoặctrong vài năm đầu của thập niên 1950, Nàng (cựu Hoàng Hậu) cùng các con qua cư ngụ bên Pháp.
Nàng đã lìa đời vào ngày 24 tháng 9năm 1963, lúc Nàng mới 49 tuổi sau cơn bịnh“ngặt nghèo, bất thần tại nhà ở nông trạiLa Perche, thuộc xã Chabrignac, tỉnh Bive de Gaillarde vàđược mai táng hôm sau” (Nguyễn Phú Thứ). Làm saođọc được hồi ký của Nàng thì may ra cónhiều tia sáng hơn cho cuộc tình vương giảnầy, vì cuốn sách do chàng viết còn chưa có nhữngđiều về cuộc sống của Nàng mà chúng tamuốn am tường hơn, nhứt là những năm sau khi Chàng đã thoái vị.
Tàiliệu tham khảo
A.Những Emails
- Phan Tấn Tài (2005). “Emails gởi Nguyễn hữu Phước” vềmột số tài liệu liên quan đến các câu ca dao trong bài“Đồng Nai Cửu Long:Những câu ca dao”
B. Tàiliệu truyền khẩu:
- Một số câu ca dao do các “bạn già” cung cấp.
C. Sách và Đặc San
- Bảo Thái, (1999). Một thời hoàng tộc, (tập II), Nxb KinhĐô, Texas, USA
- Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ(1970). Việt Nam Tự Điển. Khai Trí xb., Saigon, VN
- Nguyễn Hữu Phước, (2004). “Từ vua trong tiếng Việt”, TiếngViệt đa dạng,
Southeast Asian Culture and Education Foundation,California, USA.
- Nguyễn Phú Thứ (2003). Tìm hiểu vua BảoĐại. Tác giả XB, Lyon, Paris
- Vương Hồng Sển (1995). Hơn nửa đời hư. Văn Nghệ Xb. California, USA