“Bậu” là tiếng dân dã, tiếng thân yêu của vùng tây nam bộ chúng tôi. Mỗi lần nghe ai nói, hoặc gặp trong thơ văn là lòng tôi cảm thấy bồi hồi. Tiếng “Bậu” nầy hinh như bây giờ trong nước ít ai dùng, ít ai nhắc đến! Tại sao? Vì quê mùa? Tôi xin được tìm hiểu và giới thiệu đến các bạn vài bài thơ có liên quan đến chữ “Bậu” thân yêu nầy.
ĐỊNH NGHĨA CHỮ BẬU
1. Chữ BẬU trong sách vở
Trong các sách vở khi định nghĩa “Bậu”:
- Bậu chỉ người nói chuyện với mình khác phái, có ý thương mến, thân mật(2)
- Bậu chữ được dùng như tiếng “em”, tiếng gọi vợ, hoặc nhân tình, hay “em bạn”(3)
- Bậu (danh từ) (xưa): tiếng thân kêu vợ mình.(4)
(Theo Hai Trầu - Lương Thư Trung)
2. Chữ Bậu trong tự điển Nguồn Gốc Tiếng Việt
Xin ghi ra đây trích đoạn về chữ “Bậu” của nhà văn Nguyễn Văn Sâm:
[... Tự điển Nguồn Gốc Tiếng Việt của BS Nguyễn Hy Vọng cho biết Người Nùng có tiếng bậu nghĩa là em, dùng trong cách nói thân mật. Người Thái có tiếng phậu cũng theo nghĩa tương tợ.
Tại sao người VN ở Miền Bắc không có tiếng bậu thân thương như ở Miền Nam?
Có lẽ tiếng phậu của Thái vào ngôn ngữ của người Nùng rồi đứng đó không ảnh hưởng lên ngôn ngữ Việt Nam. Còn tiếng Phậu theo người Miên, theo quân Xiêm La vào Miền Nam tạo thành tiếng bậu trong Nam Kỳ.
Người Nam thường nói bậu bạn, do đó bậu khi nhập tịch VN trở thành bạn, trong cách nói thân mật. Thân mật đến nỗi trở thành đồng nghĩa với em, với vợ. Người Nam cũng nói nó làm bạn với … có nghĩa là cưới vợ lấy chồng với…. Văn thơ Nam Kỳ dùng chữ bậu chỉ người mình thương mến khi nói trực diện.
Dùng thét rồi người ta tưởng rằng bậu chỉ phái nữ, thiệt ra cũng được dùng cho phái nam với nghĩa nguyên thủy là bạn là em với cách nói thân mật.
Với thời gian chữ bậu đã chuyển từ em, bạn, chỉ cả hai giới gái, trai dùng biểu lộ sự thân mật thành em gái thân yêu, thành ‘người yêu nhỏ’ quá hơn sự thân mật thường tình mà ta thấy nhan nhản trong ca dao, trong những lời tỏ tình của trai gái Nam Kỳ.
Chữ qua: Chữ qua là tiếng biến âm từ tiếng quá (hóa) giọng Triều Châu của chữ ngã 我 (tôi). Dùng tiếng tôi, anh bình thường, người ta thấy không sang, không thân mật, và quan trọng nhứt là hơi mất tự nhiên nên người ta dùng tiếng qua. Chuyện nầy cũng tương tợ như người Việt Nam thời trước hay dùng toi, moi (tutoyer) khi nói với bạn hay với cả người mình yêu khi mới bắt đầu làm tỉnh tấn công tình cảm người tình. Tuổi trẻ Việt Nam có một chút học vấn khi bắt đầu tán tỉnh cũng thích dùng hai từ me, you hơn là anh em, em anh. Chữ qua với nghĩa tôi anh thân mật cũng thấy trong văn chương thế kỷ 19... ]
(Về hai tiếng bậu qua - Nguyễn Văn Sâm)
3. Chữ BẬU theo cảm xúc của thi nhân
Xin được trích đoạn ra đầy ý nghĩ, cảm xúc về chữ BẬU của thi sĩ Lê Văn Trung:
[... Không biết các nhà ngôn ngữ học giải nghĩa “bậu” như thế nào, tôi vẵn đinh ninh rằng: dù giải nghĩa thế nào đi nữa cũng không thể lột tả hết ý nghĩa tình cảm sâu đậm thiết tha mà đầy thương cảm của đại danh từ ngôi hai nầy.
“Bậu” là một thoáng gặp gỡ trong đời nhưng làm ta ngây ngất và hình bóng “bậu” in mãi trong trái tim dào dạt thương yêu của ta.
“Bậu” là ai?
“Bậu” là sắc là hương bừng nở một thời trong đam mê say đắm của ta
“Bậu” là ai?
“Bậu” là da là thịt là ái ân nồng thắm một đời vợ chồng...]
[“Bậu” trong Thơ Trần Phù Thế - Lê Văn Trung]
“Bậu” có thể ở đâu đó trong bẽ bàng ngang trái, đã để lại trong lòng ta trong lòng “bậu” những vết cào xước đủ làm chảy máu trái tim.
“Bậu” đã có thể đã cùng ta đi trọn cõi trăm năm gian nan-cơ cực-hạnh phúc-khổ đau. Nhưng “bâu” cũng có thể ở đâu đó trong dang dỡ phân ly. Cho dù “bậu” là ai, một khi ta đã cất tiếng thiết tha gọi “bậu”, thì cái nghĩa trăm năm, cái tình vạn kiếp cứ mãi với ta lên thác xuống ghềnh. Không bao giờ ta quên! Không thể nào nguôi quên!
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ TRẦN PHÙ THẾ
Xin được giới thiệu đến các bạn anh Trần Phù Thế, người thi sĩ thường dùng chữ “Bậu” trong các bài thơ của mình; và lạ lùng thay, anh cũng là người cùng quê, học cùng trường với tôi. Chắc có lẽ chữ “bậu” này đã ngấm trong máu chúng tôi, người dân dã sống bên bờ sông Hậu, bên bờ kinh rạch tây nam bộ.
1. Tiểu sử Trần Phù Thế
Trần Phù Thế chào đời tại:
[...Làng Hậu Thạnh thuộc quận Long Phú, tỉnh Sóc Trăng nằm trên trục lộ từ Sóc Trăng đi Đại Ngãi. Đó là nơi tôi chào đời năm 1943. Ba tôi làm ruộng và Má tôi buôn hàng xén tại nhà.Khi lớn lên nghe Ba tôi kể lại Năm 1945 người Miên từ xã Văn Cơ “Nổi Dậy”. Họ uống rượu say, mắt đỏ ngầu, tay cầm Mã Tấu gặp người Việt là chém liền. Họ đi đến đâu là cướp của, đốt nhà. Ba tôi là nạn nhân của chúng. Nhưng may mắn chạy thoát được với vết thương chí mạng trên lưng vai trái. Sau đó Ba Má tôi dọn nhà ra chợ Đại Ngãi (nằm trên ngã ba sông Bassac*và sông Đại Ngãi) cách Hậu Thạnh ba cây số. Thời đó, chợ Đại Ngãi rất trù phú, đông dân, trên bến dưới thuyền, là nơi tụ hội của giới thương hồ từ Long Phú, cù lao Dung lên, Cầu Quan, Trà Ôn qua và Kế Sách xuống. Khi gia đình sinh sống ở Đại Ngãi lúc đó tôi đã chín tuổi mới được đi học. Học xong Tiểu Học tôi vào Sóc Trăng trường trung học công lập Hoàng Diệu. Tôi đi lính K25/Ttủ Đức năm 1967. Sau Tết Mậu Thân (1968) gia đình dọn về Cần Thơ. Cấp bậc sau cùng: Đ/úy Quân báo. Sau năm 1975 học tập “cải tạo” 7 năm. Định cư tại Mỹ năm 1992...]
[Trích lời Trần Phù Thế trả lời phỏng vấn của nhà văn Hai Trầu - Lương Thư Trung]
......
* (Tonlé Bassac theo tiếng Khmer). Vì thế nó còn có tên gọi nữa là sông Ba Thắc.(NL)
2. Hoạt động thơ văn
[...Đầu năm 1967 tôi định in tập thơ “Thầm Yêu Trộm Nhớ”, nhưng lần lựa mãi. Tháng tư thì có lệnh gọi nhập ngũ. Vào lính mệt quá nên quên luôn chuyện xuất bản tập thơ. Tám năm cầm súng tôi có viết lai rai cho các tạp chí ở Sàigòn. Sau năm 1975 gia đình đã tự thiêu bản thảo tâp thơ cùng với hơn 200 sách báo của tủ sách gia đình. Khi tôi định cư tại Hoa Kỳ năm 1992 lo đi cày mờ mắt, đâu có gìờ rảnh mà văn với thơ. Mãi tới năm 1998, tôi mới viết lại và cộng tác với các tạp chí: Khởi Hành, Văn Hóa Việt Nam, Thư Quán Bản Thảo.
Sách thơ được ấn hành:
- Giỡn Bóng Chiêm Bao của Trần Phù Thế, Thư Ấn Quán ấn hành lần đầu, Hoa Kỳ, năm 2003; tái bản lần thứ nhứt năm 2008
- Gọi Khan Giọng Tình của Trần Phù Thế, Thư Ấn Quán ấn hành lần đầu, Hoa Kỳ, năm 2007; tái bản lần thứ nhứt năm 2009.
Anh đã từng phụ trách trang Thơ của Tuần báo TRẺ trên Dallas (Texas, Hoa Kỳ) do Nhật Hoàng chủ biên năm 2008...]
[Trich trả lời phỏng vấn của nhà văn Hai Trầu - Lương Thư Trung]
ĐỐI THOẠI GIỮA HAI TRẦU VÀ TRẦN PHÙ THẾ VỀ CHỮ BẬU
Xin trích đoạn thêm ra đây cuộc phỏng vấn và trả lời để các bạn hiểu thêm về chữ “Bậu”
[...
Hai Trầu:
Theo tôi, trong cả bốn định nghĩa ấy đều không có trách móc, giận hờn, nhưng sao ca dao mỗi khi nhắc đến “bậu” lại dường như chữ “bậu” được dùng để gọi nhau khi lúc dỗi hờn, lúc cơm không lành canh không ngọt như trong các câu ca dao hoặc trong các bài hát dỗ em, tôi còn nhớ dưới đây:
“Chẳng đánh bậu, để bậu luông tuồng,
Dang tay đánh bậu, thì buồn dạ anh.”
...
“Ví dầu tình bậu muốn thôi,
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.”
...
“Bần gie đóm đậu sáng ngời,
Lỡ duyên tại bậu, trách trời sao nên.”
...
“Bậu nói với qua, bậu không bẻ lựu hái đào,
Chớ đào đâu bậu bọc, lựu nào bậu cầm tay.”
Trần Phù Thế:
Thưa anh Hai Trầu, phần lớn trong ca dao “Bậu” được chiếu cố rất tận tình. Nào là: trách khéo, giận hờn, ghen tuông… Thậm chí dùng từ rất nặng như: phụ phàng, phản bội… Nhưng theo tôi ngôi thứ nhất sử dụng những từ ấy với “Bậu” cũng chỉ vì yêu mà thôi. Tôi thấy điều đó rất bất công với “Bậu”. Như tôi là một tên si tình rất mê “Bậu”. Nên khi “Bậu” của tôi qua đời, tôi đã khóc “Bậu” bằng một bài thơ đấy thống thiết. Đến nỗi hai nhà thơ Hạ Đình Thao và Lê Văn Trung phải thốt lên “không có bài thơ khóc vợ nào tự cổ chí kim mà hay hơn được”(*):
Bậu đi
bậu đi biệt dạng hôm nào
ta trông mút mắt nhớ đau từng hồi
nhớ từ giọng nói tiếng cười
nhớ se tóc bạc cột đời hai ta
bậu đi hình như hôm qua
mà sao ta tưởng như là nhiều năm
bậu đi lạnh gối ta nằm
hình như cái lạnh, lạnh ngầm trong xương
bước qua ngưỡng cửa âm dương
bậu đi mình bậu chẳng vương vấn gì
còn ta ở lại sống lì
một thân, một bóng cu-ky một mình
bậu ơi, sao bậu làm thinh
nén nhang, cơm lạt bóng hình là đây
phất phơ hồn gió theo mây
mỗi đêm giỡn bóng trăng gầy tàn đêm
bậu về ta thấy lòng êm
như trăng thuở nọ bên thềm thanh xuân
như là tiếng hát bậu ngân
xuống câu vọng cổ tình quân phụ phàng
bậu về trăng sáng ngút làng
hương thơm dậy đất bàng hoàng hồn ta
ngất ngây ôm chặt trăng, và
tưởng đâu ôm bậu thịt da vẫn nồng
bậu đi hồn có về không
nhắn tin theo gió cho lòng ta yên
dầu cho bậu ở cõi trên
hay đang cõi dưới trong miền u-minh
một mai ta đã dọn mình
quyết theo chân bậu lênh đênh cõi nào
dầu cho đất thấp trời cao
tử sinh là mới bắt đầu cuộc chơi
ngày mai bậu trở lại đời
và ta trở lại làm người bậu ưng
giọt mừng nước mắt rưng rưng
hai tay ôm bậu mà rung dậy tình
(Bậu đi - Trần Phù Thế)
.........
Hai Trầu:
Vâng thưa anh, đúng thế! Dường như trong văn chương truyền khẩu có sự bất công với chữ “bậu” hơi nhiều. Trong thơ văn ngày nay, tôi nghĩ chưa ai dám dùng chữ “bậu” trong thơ như anh và có lẽ chí có một Trần Phù Thế rất “mê” chữ “bậu” này như anh vừa kể và với những bài thơ trách bậu, thương nhớ bậu quá tha thiết mà anh vừa dẫn đủ để nói lên cái nét đặc thù trong thơ Trần Phù Thế. Và tôi nghĩ chữ “bậu” ngày nay ít người còn dùng nhưng chắc hồn chữ nghĩa của nó sẽ rất vui với tấm lòng ưu ái của anh dành cho “bậu” vậy!...]
[Trich trả lời phỏng vấn của nhà văn Hai Trầu - Lương Thư Trung]
VÀI BÀI THƠ VỀ BẬU
A. Thơ Trần Phù Thế:
1.
Bài thơ “Bậu về” dưới đây, in trong thi phẩm “Gọi Khan Giọng Tình”
Bậu về
bậu về liếc mắt đong đưa
gió Xuân đầy mặt
như vừa chín cây
bậu về má đỏ hây hây
ta mười lăm đã lòng say bậu rồi
bậu còn
chơi ác nói cười
những câu dí dỏm
chết đời ta chưa
bậu về nhớ nắng thương mưa
hình như cây cỏ cũng ưa bậu về
như là có chút nắng hè
như là có cả
chùm me chua lừng
như là xoài tượng thơm giòn
thêm vào nước mắm chút đường khó quên.
bậu về
Đại Ngãi mình ên
bỏ quên kẹp tóc
bắt đền tội ta
bậu quên là tại bậu mà
tại sao bậu bắt đền ta một đời
tội này không chịu bậu ơi!
(Trần Phù Thế)
“Bài thơ như một lời ca dao rặt miền Tây Nam Phần với sông nước Hậu Giang ngọt mát bốn mùa. Tài tình nhất là các chữ dùng rặt miền quê mà ngập tràn thương mến, hình ảnh rất đơn sơ mà làm nên nỗi nhớ cả một đời, nào là “chùm me”, “xoài tượng”, “nước mắm”, “chút đường”,”mình ên”, “kẹp tóc”… Phải chăng Trần Phù Thế làm thơ tình không giống ai và không có ai làm thơ tình giống Trần Phù Thế nổi? Anh nghĩ sao?”
2.
“Bậu về Đại Ngãi mình ên/ bỏ quên kẹp tóc bắt đền tội ta/ bậu quên là tại bậu mà/ tại sao bậu bắt đền ta một đời/tội này không chịu bậu ơi!”: Bậu là ai đã về Đại Ngãi và để quên kẹp tóc (thật hay giả bộ?) rồi bắt đền thi sĩ một đời?
Đây là BẬU theo lời “thành thật khai báo” của thi sĩ:
[... Chuyện nầy nói ra thiệt là mắc cở quá chừng. Lúc mà ta mười lăm đã lòng say bậu rồi…. Tôi khoái một cô bé tên Thương Huyền. Gia đình cô bé rất giàu có, nên cô ấy vô cùng kiêu ngạo. Hơn nữa ba cô bé mặt lạnh như tiền. Tôi đành nhốt hình bóng kiều diễm của bé vào trái tim. Tôi bắt đầu làm thơ....]
Gia đình Thương Huyền vượt biên năm 1980 và định cư tại Đức. Thương Huyền cho biết đã đọc bài thơ “Tuổi Thơ Đại Ngãi” của Trần Phù Thế trong tuyển tập của Nhóm Văn Hóa Pháp Việt và bần thần suốt ngày. Những kỷ niệm thời thơ ấu như sống lại, hiển hiện trước mắt, bà bèn tìm địa chỉ và đã viết thư cho thi sĩ với lời cám ơn.
Đây là lời của Trần Phù Thế tâm sự với Hai Trầu trong cuộc phỏng vấn:
“Anh Hai biết không: Đọc thư xong, niềm cảm khái dâng trào, tôi ngồi vào bàn viết và viết trong bốn mươi lăm phút là hoàn tất bài thơ “Bậu về”. Tối hôm đó, tôi đọc lại bài thơ vừa sáng tác “Bậu về” cảm thấy thiêu thiếu cái gì đó. Thế là tôi viết luôn bài thơ “Tình Bậu Nhẹ Hều,” ý trách nàng một chút, để xoa dịu lòng nhát gan của mình”
Tình bậu nhẹ hều
rất nhẹ nhàng
hình như không lay động
bậu nhẹ về
như hơi thở dòng sông
ta ngây ngất
thèm đôi môi đỏ mộng
bởi mê tình nên nuôi mãi tình không
bậu biết đó
tình nào không mê mệt
những thiết tha
cùng nhịp đập con tim
nên một bữa
dạt dào tình dậy sóng
khi tóc thơm phảng phất một mùi quen
như bữa đó
bậu về trong cơn gió
gió thênh thang
bay khắp nẻo vô chừng
bậu lại nữa lượn lờ không biết mỏi
chỉ riêng ta khan tiếng gọi người dưng
mong đêm nay
bậu về trong giấc ngủ
trong mùi thơm
hoa sứ trước hiên nhà
con bướm nhỏ quạt hoài chùm hoa sứ
cũng như ta đuổi mệt tình càng xa
ta rất nhẹ nâng niu tình hai đứa
cất trong tim
không dám chạm vào tim
ta chỉ sợ một giây hai phút nữa
tình biệt luôn trốn mất biết đâu tìm
bậu coi nhẹ, nhẹ hều tình hai đứa
ta nặng tình, dẫu chết chẳng hề quên.
(Trần Phù Thế)
-- Trước khi giới thiệu vài bài thơ về “Bậu” của tôi, tôi xin có vài hàng về sự quen biết giữa tôi và Trần Phù Thế. Anh Trần Phù Thế chào đời ở làng Hậu Thạnh như đã nói trên, tôi sanh tại làng Đại Ngãi, học cùng trường tiểu học Đại Ngãi, rồi trung học Hoàng Diệu, Sóc Trăng với anh, nhưng sau 3 lớp. Anh nhập ngũ 1967 còn tôi vẫn tiếp tục lên đại học Cần Thơ và mãi đến 1973 mới nhập ngũ, gia nhập Quân y VNCH, vượt biển đển BiDong, Malaysia 1987 rồi định cư tại Mỹ 1988, trước anh 4 năm.
Đêm nay chợt nhớ con kinh
Hai bờ dừa nước. dòng tình xuôi êm
Hậu Thạnh đồng lúa êm đềm
Anh ra Đại Ngãi tìm em má hồng
Trường xưa. còn nhớ hay không?
Phượng hồng. mắt biếc. tình nồng. duyên quê...
(Ra Đi, Về Tìm - Nguyên Lạc)
Do cùng sống bên dòng sông Hậu và các kinh rạch nên chữ “Bậu” cũng thấm vào máu tôi, như anh.
-- Mời các bạn đọc vài bài thơ về “Bậu” của tôi:
TỘI GÌ NHỚ THƯƠNG
“Đất Sóc Trăng khô cằn nước mặn
Tôi ra Vàm Tấn chở nước về xài
Về nhà sau trước không ai
Hỏi ra bậu đã theo trai mất rồi”
Giậm chân tôi réo ông trời
Gây chi bao cảnh sầu đời thế ni
Thuận tay nhổ một cây mì
Gõ vào đầu ba cái... tội gì nhớ thương!
MÔI TÍM MỒNG TƠI
Thò tay ngắt trái mồng tơi
Bậu thoa môi tím nhìn tôi bậu cười
Chuồn chuồn cắn rún tập bơi
Trên bờ dừa nước bậu cười dòn tan
Động con còng gió đỏ càng
Thòi lòi trố mắt bậu càng cười tươi!
*
Đời người như áng mây trôi
Mươi năm tìm lại đâu rồi bậu xa
Bờ kinh dừa nước là đà
Thằng tôi thời cũ tóc giờ điểm sương
Lục bình trôi xuống trôi lên
Bậu trôi mất dấu mình ên tôi ngồi!
.
Nhớ ơi môi tím mồng tơi!
(Nguyên Lạc)
..........
a. Còng gió (Ocypode ceratophthalma): Gọi còng gió vì đây là loại còng chạy rất nhanh, tưởng có thể bằng cả tốc độ của gió. Mặc dù có bộ dạng nhỏ thó, nhưng đôi càng của còng gió đực (một lớn, một nhỏ) lại là vũ khí hết sức đáng sợ, càng nó rất khỏe, mép càng sắc như dao, kẹp có thể đứt thịt. Ở quê tôi, Đại Ngãi, Sóc Trăng, Hậu Giang nơi các sông rạch, còng gió lớn cỡ ngón tay màu xanh blue rất đẹp
b. Cá thòi lòi (Periophthalmodon schlosseri), là một loài cá thuộc họ Cá bống trắng (Gobiidae), Cá thòi lòi phổ biến nhất dọc các bãi lầy ở cửa sông, không ngập quá 2 m nước Loài cá này sinh sống trong hang hốc vét ở bãi lầy. Khi thủy triều xuống thì cá chui ra, nhất là những ngày nắng ráo.
Cá có khả năng di chuyển trên mặt bùn khá nhanh, gần như chạy nhảy. Với hệ thống hô hấp bằng phổi cá thòi lòi có thể thở trên cạn. Khi dưới nước thì dùng mang.
THƯƠNG BẬU
Tưởng bậu sâu, thả một câu
Dè đâu bậu cạn! Tiếc câu bậu chề!
Ghét người, tôi lập lời thề!
Nhưng quên tuốt luốt đêm về... bậu ơi!
Tức mình, dậm cẳng kêu trời
Thương chi cho dữ, để rồi... mọc rong!
Bậu ơi! Có biết hay không?
TÌNH QUÊ
1.
Vũng nước trong con cá lòng tong bơi lội
Xa nhau rồi tội lắm bậu ơi!
Chẳng thà không gặp thì thôi
Gặp nhau ruộng vắng trao đời nhớ không?
Nhớ thương từng chổ bậu nằm
Từng lời bậu nói hàm răng bậu cười
Quên tôi bậu đã quên rồi!
Chạy theo phù phiếm bỏ đời tôi đau
2.
Buồn trông con nhện té ao
Con cá vội đớp lòng sao ngậm ngùi
Ngẫm tôi cũng té lâu rồi
Lụy đời vì bậu mắt ngời lá răm
Vẳng khuya cá đớp bóng trăng
Hồn tôi bậu đớp bao lần biết không?
Huơ tay chỉ lạnh chổ nằm
Chiếu chăn xô lệch mất tăm bậu rồi!
Sáng ra bến nước trông vời
Chỉ màu tím biếc bông trôi lục bình
Lòng tôi tím ngắt như bông
Bậu quên tuốt luốt... bậu đành bỏ tôi!
ĐỨNG NGỒI HỎNG YÊN
Bậu về ngắt ngọn mồng tơi
Hái thêm đọt bí ngọt nồi bậu ơi!
Lững lờ con nước cứ trôi
Tại qua mà bậu đứng ngồi hỏng yên
Lục bình hoa tím muộn phiền
Qua sang thăm bậu, nụ duyên bậu cười
Giờ đây bậu trách ông trời
Xe chi lộn mối, qua rồi bậu xa!
Chiều chiều ra đứng hàng ba
Chờ qua không thấy, bậu sa lệ sầu!
Không thương thì có sao đâu?
Mảng sầu qua, bậu ốm o gầy mòn *
.......
* Chim chuyền nhành ớt líu lo
Mảng sầu con bạn ốm o gầy mòn (Ca dao)
Nguyên Lạc
(Bài kế: Chữ Bậu Trong Hò Và Ca Dao...)
.......................
[1] Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, nhà xuất bản Rey, Curiol&Cie, Sài gòn, 1895; nhà Văn Hữu, Sài gòn, tái bản năm 1974
[2] Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ, nhà xuất bản Khai Trí, Sài gòn, năm 1970, quyển thượng.
[3] Từ Điển Từ Ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Việt Nam, năm 2007
[4] Việt Nam Tân Từ Điển của Thanh Nghị, nhà xuất bản Thời Thế, Sài gòn, năm 1951.