Lời giới thiệu trong CD “Ba bài Nam Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn”.
Kính thưa quí vị!
Được hình thành vào khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, bộ môn Nhạc Tài Tử đã trở thành một món ăn tinh thần của người dân Nam bộ. Trải qua trên 100 năm lưu hành sâu rộng, phong cách đờn, ca cùng bản đờn, bài ca của bộ môn nầy đã có nhiều dị bản, đôi chỗ có khác nhau tùy theo mỗi vùng, mỗi miền.
Nhóm “Sưu khảo Đờn Ca Tài Tử” chúng tôi gồm có nhà nghiên cứu Đờn Ca Tài Tử Nam bộ Võ Trường Kỳ, nhà nghiên cứu Cải Lương Nam bộ Nguyễn Tuấn Khanh, và phó chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Đờn Ca Tài Tử tỉnh Long An Nguyễn Văn Chiểu đã sưu tầm được lời ca ba bài Nam “Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn” gồm bài Nam Xuân và Nam Ai trong cuốn “Bản đờn Tranh và bài Ca” của Phụng Hoàng Sang in năm 1903, cùng bài Nam Đảo xưa do nghệ nhân ca tài tử Út Một ở Cần Đước còn lưu giữ, nhưng không phổ biến nên ít được biết đến. Với mục đích bảo tồn và phát huy bộ môn Đờn Ca Tài Tử Nam Bộ, nhạc sư, NSƯT Ba Tu, nhạc sĩ Duy Kim cùng NNƯT Kim Thanh đã cùng chúng tôi thực hiện CD ba bài Nam “Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn” này gồm 3 hơi điệu chính, Xuân, Ai, Đảo, tức Đảo ngũ cung và có chút hơi Oán khi qua Song Cước do chuyển hơi từ 2 lớp mái Nam Xuân, để chúng ta thấy được những nét độc đáo của bộ môn Đờn Ca Tài Tử do tiền nhân để lại.
Trong CD này quý vị sẽ được thưởng thức tiếng đờn kìm và cò theo phong cách đờn ca tài tử với ngón đờn chạy chữ, nhấn nhá, chẻ, đài, xốc nhịp, xốc cung điêu luyện của nhạc sư, NSƯT Ba Tu cùng với tiếng đờn tranh phụ họa của nhạc sĩ Duy Kim.
Ba bài Nam này sẽ do NNƯT Kim Thanh ca. Tuy bản đờn đã được mở lơi nhịp như sau này, nhưng lời ca vẫn được giữ y nguyên theo văn bản xưa mà chúng tôi sưu tầm được, rất ít lời, ít chữ để chúng ta thưởng thức được tài nghệ của ca sĩ với nghệ thuật sắp chữ, sắp nhịp, ngân nga luyến láy cho lời ca tròn vành rõ nghĩa theo đúng hơi điệu, tiếng đờn của bộ môn Đờn Ca Tài Tử.
CD “Ba bài Nam Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn” này được thực hiện vào tháng 12 năm 2017 để tri ân các bậc Tiền Hiền Hậu Tổ đã khai sáng và lưu truyền một bộ môn âm nhạc đặc thù của miền Nam trong quá trình mở nước.
Xuân Mậu Tuất, ngày 20 tháng 2 năm 2018
Điển tích “Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn” nói về tâm sự của nàng Tô Huệ thương nhớ chồng đang đi thú ngoài biên cương.
Tô Huệ tự Nhược Lan là người ở đất Thần Châu thuộc vào đời nhà Tấn (265-419), tài sắc vẹn toàn lại giỏi thơ văn, có chồng là Đậu Thao phải đi thú ở đất Lưu Sa nên ngày đêm thương nhớ, nàng làm một bài thơ dệt trên một bức gấm dâng lên vua để xin cho chồng về. Bài thơ được dệt theo hình 32 ô vuông chéo và chữ cuối cùng gặp lại chữ đầu của bài thơ nên gọi là “hồi văn”. Nhà vua và quần thần không ai đọc được nên vua cho triệu Tô Huệ vào cung để giải thích. Vua thấy bài thơ hay, lại thương cảm cho tấm lòng chinh phụ thương chồng cùng phục tài nữ công dệt gấm của Tô Huệ nên cho Đậu Thao về xum họp với vợ.
Nam Xuân: “Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn”[1]
Lớp mái 1 Lớp mái 2 Nam Ai: “Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn”[1]
Lớp mái 1 Lớp mái 2 Đảo Ngũ Cung: “Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn”[34]
Song cước 1 Song cước 2 |
[1] Phụng Hoàng Sang, Bản Đờn Tranh và Bài Ca, F.H. Schneider, Sàigòn, 1905, trang 59, (tài liệu do Nguyễn Tuấn Khanh sưu tầm và chú thích).
[2] keo sơn, dùng chữ “san” để theo vần của bài ca. Tương truyền bài Nam Xuân & Nam Ai này do các nhạc công miền Trung vào Nam sau vụ binh biến kinh thành Huế sáng tác nên có nhiều chữ phát âm theo tiếng miền Trung. Bài này do Phụng Hoàng San và Nguyễn Tư Bá ghi lại. Nguyễn Tùng Bá, còn gọi là Tư Bá là con của Nguyễn Liêng Phong là thầy đờn đất Quảng vào miền Nam sinh sống và đã soạn một số sách bài ca vào thập niên 1910.
[3] Nghì = Nghĩa.
[4] Tư Mã Tương Như đời Hán văn hay đàn giỏi, làm bài “Phụng Cầu Hoàng” (chim phượng trống tìm chim phượng mái) ghẹo Trác Văn Quân, Trác Văn Quân say mê bỏ nhà theo Tư Mã Tương Như. Trong câu số 5 này, nhiều ca sĩ hiểu lầm mà đổi thành “Noi Tư Mã xưa khúc Phượng Cầu Hoàng”. Thật ra phải là “Noi Tư Mã xưa phụng khúc Cầu Hoàng” nghĩa là noi theo gương Tư Mã, “phụng” (dâng, hiến) khúc Cầu Hoàng mới đúng.
[5] đoan = đầu mối, điều kiện.
[6] Thôi Trương = Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy. Theo truyện “Hội Chân ký” đời Đường, Trương Quân Thụy gặp Thôi Oanh Oanh ở chùa Phổ Cứu đang lúc nàng thọ tang cho cha. Vậy mà tình yêu cũng nẩy lộc, đêm đêm hai người hẹn nhau ra mái phía Tây của chùa mà tình tự.
Tình yêu đã thắm đậm, nhưng sau đó hôn nhân không thành, chàng lấy vợ và nàng cũng đi lấy chồng.
[7] yêng hùng = anh hùng.
[8] Sau này nhiều người ca “lương duyên túc đế” [良緣夙締] có nghĩa là “duyên lành đã được định sẳn từ kiếp trước”, nhưng câu này phải ca là “lương duyên do túc” có nghĩa là “lương duyên bởi kiếp trước” và hai chữ cuối phải là “do túc” để trúng với chữ đờn là “xê tích”.
[9] Sau này ca sĩ đổi là “đào tơ”, nhưng chính ra là “đào thơ” để tránh điệp ngữ với 2 câu trên là “ông Tơ” và “dây tơ hồng”.
[10] Sau này ca “ong bướm xe bông”, chính ra phải là “ong bướm xa bông” như bài ca in năm 1905, có nghĩa là ong bướm thường mê hoa, nhưng bây giờ ong với bướm thiết tha với nhau nên xa bông.
[11] Khăn thìn = bền lòng.
[12] Sau này ca “Bóng thỏ gieo canh gà đêm còn dài”, nhưng bản xưa ca “Bóng thỏ gieo, tin gà đêm càng dài” có nghĩa là mặt trăng vừa lên, chờ tin gà gọi sáng nên đêm càng thấy dài ra.
[13] Đời Tần, Tần Thủy Hoàng xua dân làm Vạn Lý Trường Thành, người chết không biết bao nhiêu mà kể. Bấy giờ có một cặp vợ chồng trẻ mới cưới. Chồng bị bắt đi dân công. Vợ là Khương thị ở nhà chờ đã 5 năm. Nàng bỏ nhà lên ải Bắc tìm chồng. Nàng đi suốt một giải thành tuyết phủ vạn dặm, đi từ trại này sang trại khác, không thấy chồng đâu. Khi đến một hòn núi cao, bão tuyết mịt mù. Nàng bưng mặt khóc như mưa bão, thì núi tuyết rung động mãnh liệt rồi lở xuống. Trong khe núi đầy tuyết không biết bao nhiêu xác chết mà kể. Nàng lật từng xác chết. Xác nào cũng đóng băng cứng như đá. Quá uất hận nàng hát bài Hùng Trĩ, giọng điệu thê lương. Tiếng hát dứt thì một xác chết ứa máu ra ở miệng. Nàng đến coi, thì ra là xác chồng. Nàng ôm chồng khóc thê thảm. Uất khí bốc lên, tuyết lại lở xuống. Chôn nàng với chồng trong lòng núi.
[14] Hồng nhạn [鴻雁], còn gọi là chim “hồng” hoặc thiên nga, lớn hơn chim nhạn, là một loài chim hiếm sống ở Mông Cổ, nơi biên giới cực Bắc của Trung Quốc và Đông Nam Nga, cuối Thu loài chim này di cư xuống miền trung và đông của Trung Quốn để trốn lạnh. Câu “Hồng nhạn kêu thu”: ý nói là chim hồng nhạn phải xa rời tổ ấm vào mùa thu nên tiếng kêu thê lương.
[15] Sông Hớn = Hán giang, điển tích Bá Nha và Tử Kỳ: Tử Kỳ là một danh sĩ ẩn dật tại Tập Hiền thôn gần núi Mã Yên ở cửa sông Hán, làm nghề đốn củi để báo hiếu cha mẹ. Một hôm Bá Nha là quan Thượng Đại Phu nước Tấn phụng chỉ vua sang nước Sở, trên đường về tới cửa sông Hán, nhằm đêm Trung Thu ông cho quân neo thuyền nghỉ và đem rượu ra uống, cao hứng ông đem đàn ra gảy, nhưng đàn chưa hết bản thì bị đứt dây. Bá Nha nghi ngờ có thích khách hoặc có người nghe lén nên cho quân lên bờ tìm thì gặp Tử Kỳ. Bá Nha cho gọi Tử Kỳ xuống hỏi chuyện thì lấy làm lạ là người tiều phu ở nơi hoang vắng này lại đối đáp trôi chảy và am hiểu âm nhạc. Bá Nha thử tài, đàn khúc Cao Sơn Lưu Thủy thì Tử Kỳ khen là nghe tiếng đàn khi cao vời vợi tựa Thái Sơn, lúc thì cuồn cuộn như nước chảy. Vui mừng vì gặp được bạn tri âm, Bá Nha kết nghĩa anh em với Tử Kỳ và nói là hiện giờ phải về kinh phụng mạng nên hẹn đến Trung Thu năm sau sẽ gặp nhau ở gành đá dưới chân núi Mã Yên.
Bá Nha và Tử Kỳ chia tay không được bao lâu thì Tử Kỳ lâm bệnh mất, nhưng vì không muốn lỡ hẹn với người tri kỷ nên trước khi qua đời ông xin được mai táng ở chân núi Mã Yên nơi đã hẹn với Bá Nha.
Trung Thu năm sau Bá Nha y hẹn đến thì hay được tin dữ, ông đau lòng đến viếng mộ Tử Kỳ và gảy khúc “Thiên thu trường hận”, tấu xong khúc nhạc, ông vái cây đàn rồi nâng lên cao và đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ, đàn vỡ nát tan, Bá Nha ngâm:
Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?
Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,
Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!
[16] Lảng lơ = Lãng xao, vô ý, không nghĩ đến sự gì.
[17] Trướng lý = màn màu hoa mận (màu hồng), tức là màn phòng ngủ của phụ nữ.
[18] Hằng Nga và Hậu Nghệ là hai vị thần bất tử ở trên Thượng Giới bị đày xuống trần làm vợ chồng. Khi xuống trần thì cả hai bị mất khả năng bất tử nên Hằng Nga rất đau khổ. Thương vợ nên Hậu Nghệ đi tìm thuốc trường sanh bất tử và được Tây Vương Mẫu cho 1 viên, dặn là mỗi người chỉ uống nửa viên sẽ được bất tử. Hậu Nghệ đem thuốc về để trong hộp và có việc phải ra ngoài, dặn vợ không được mở ra. Khi Hậu Nghệ đi rồi, Hằng Nga tò mò mở hộp thuốc ra coi, bất chợt Hậu Nghệ trở về, Hằng Nga sợ chồng giận nên vội nuốt cả viên thuốc, vì thuốc quá mạnh nên Hằng Nga bay lên trời và đáp xuống mặt trăng. Từ đó Hằng Nga ở trên mặt trăng một mình.
[19] Luông tuồng = Buông lung, không ai kềm thúc.
[20] Ô thước = chim quạ.
[21] Ngân Thường = Ngân Hà. Tích Ngưu Lang Chức Nữ trên Thiên Đình, hai người yêu nhau trễ nãi công việc nên bị Ngọc Hoàng đày kẻ ở bên này, người bên kia bờ sông Ngân, mỗi năm chỉ cho gặp nhau một lần vào ngày 7 tháng 7 âm lịch (thất tịch), vào ngày đó, chim quạ tụ nhau về sáp đầu lại làm cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ đi qua gặp nhau.
[22] Sâm Thương là sao Sâm (sao Mai mọc hướng Tây lúc ban sớm) và sao Thương (sao Hôm mọc hướng Đông lúc đầu hôm), hai sao này không bao giờ gặp nhau.
[23] no nao = chừng nào.
[24] Đồng Quan [潼關] là nơi xảy ra trận đánh quy mô đầy kịch tính với những cuộc đấu trí, đấu sức giữa quân Đông Hán do Tào Tháo thống lĩnh với quân Tây Lương do Mã Siêu và Hàn Toại cầm đầu vào năm 211 thời kỳ Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
[25] Day cán đầu = Xoay cán trở đầu vũ khí để trừ khử giặc.
[26] Ngoại quan = ngoài biên ải.
[27] Chia tay vào mùa Thu lúc lá cây lau chuyển sang màu vàng.
[28] Bây giờ đã là mùa Xuân, hoa mai nở trắng.
[29] Bạc thẻ = vua thưởng cho những thẻ bạc.
[30] Biểu bia [表碑] = vua cho dựng bia để nêu gương cho mọi người (biểu = khiến cho mọi người nhớ mãi không quên).
[31] Cờ rìa = cờ có tua, cờ đuôi nheo.
[32] Chích = chiếc, một mình. Nhạn chích lìa = nhạn lạc bầy.
[33] Chữ viết là âm háo [音耗] có nghĩa là tăm hơi nhưng ta quen đọc là “âm hao”.
[34] Tài liệu do nhà nghiên cứu Võ Trường Kỳ sưu tầm, không rõ nguồn gốc, chỉ do nghệ nhân Út Một chép lại tặng, nhưng có lẽ đây không phải là bài ca nguyên thủy vì những câu ca không được sắp theo vần như 2 bài trên.
• Có tài liệu cho là Phạm Đăng Đàn là tác giả.
• Có tư liệu khác cho là của Nguyễn Quang Đại do chữ dùng trong bài có một số từ có xuất xứ của Huế.
• Nghe nhạc Tài Tử: CD 3 bài Nam “Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn”