Nguyễn Tuấn Khanh
Anh hùng dân tộc Nguyễn Hữu Huân, người Định Tường, đậu thủ khoa khi chưa đầy 20 tuổi nên còn được gọi là Thủ khoa Huân. Khi Pháp chiếm Định Tường năm 1861, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa sĩ chống giặc xâm lược. Sau nhiều năm kháng chiến, trước sau ông bị bắt 3 lần. Lần thứ ba ông bị Pháp bắt và chiêu hàng nhưng ông không khuất phục nên bị giặc chém tại Mỹ Tịnh An, Định Tường năm 1875. Tương truyền trước khi bị hành hình ông có làm bài thơ tuyệt mạng bày tỏ ý chí quyết vì nước hy sinh, không hàng giặc.
絕命詩
汗馬難堪為國仇,
只因兵罷致身休。
英雄莫把贏輸論,
宇宙長看節義留。
無怖以驚胡虜魄,
不降甘斷將君頭。
當年萩水波流血,
龍島秋風起暮愁。
Tuyệt mệnh thi
Hãn mã nan kham vị quốc cừu,
Chỉ nhân binh bãi trí thân hưu.
Anh hùng mạc bả doanh thâu luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.
Vô bố dĩ kinh Hồ lỗ phách,
Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu.
Đương niên Tho thuỷ ba lưu huyết,
Long đảo thu phong khởi mộ sầu.
Bài thơ tuyệt mệnh
Ruổi dong vó ngựa trả thù chung,
Binh bại cho nên mạng phải cùng.
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ,
Hơn thua sá kể với anh hùng!
Nổi xung mất vía quân Hồ lỗ,
Quyết thác không hàng, rạng núi sông.
Tho Thuỷ ngày rày pha máu đỏ,
Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong.
(Phan Bội Châu dịch)
Cảm kích trước sự hy sinh anh dũng của Thủ Khoa Huân, gợi nhớ tới Văn Thiên Tường – một trung thần đời Nam Tống bên Trung Hoa – ông Trần Quang Quờn (1875–1946), một người tài hoa, am tường âm nhạc ở Vĩnh Long cuối thế kỷ XIX, đã sáng tác bài Văn Thiên Tường để ca ngợi lòng yêu nước của vị anh hùng dân tộc tỉnh Định Tường này.
Trần Quang Quờn là một người theo Tây học nhưng giỏi chữ Hán và âm nhạc, làm việc tại Tòa án Vĩnh Long với chức Kinh lịch (Lettré), nên ông còn được gọi là Kinh lịch Quờn. Ông là học trò của hai danh sư đương thời là Phạm Đăng Đàng và Thủ bổn Thiềng. Kinh lịch Quờn có nhiều sáng tác cho bộ môn Đờn Ca Tài Tử, trong đó có hai bài oán còn được lưu truyền rộng rãi cho tới bây giờ là bài Tứ Đại Oán và bài oán biến thể Văn Thiên Tường.
Cũng có một thuyết khác giải thích về nguồn gốc bài Văn Thiên Tường. Trong các buổi đờn ca tài tử, giới nhạc sĩ thường hòa tấu bài Võ Tắc Biệt đi đôi với Văn Thiên Tường (gọi tắt là “Văn – Võ”). Theo cố nhạc sĩ Hồng Phát ở Trà Vinh, để hưởng ứng phong trào Duy Tân của nhà cách mạng Phan Châu Trinh, hai nhạc phẩm này được đặt tên dựa trên câu: “Văn thông thiên đạt địa lý tường tận, võ tắc thời biệt dạng”, nghĩa là: “Trau dồi văn chương và khoa học để hiểu biết tường tận thiên văn địa lý; khi ấy võ lực không cần dùng đến mà vẫn có thể đưa dân tộc đến chỗ tự cường”.
Tuy nhiên, thuyết này có lẽ không thật xác đáng, vì bài Võ Tắc Biệt xuất hiện sau Văn Thiên Tường. Hơn nữa, sắc thái bi hùng của điệu oán phụ Văn Thiên Tường, vốn thường dùng để tưởng niệm một anh hùng vị quốc vong thân, khó gắn với ý nghĩa cổ vũ canh tân. Có lẽ chính vì hai bài này thường được hòa tấu liền nhau mà trong giới nghệ nhân đã hình thành một cách gọi vui, đầy duyên dáng: “Văn thương tiền, Võ tiếc bạc”. Câu nói lái nầy không chỉ cho thấy nét hóm hỉnh đặc thù của người Nam bộ, mà còn phản ảnh sinh hoạt nghệ thuật phong phú và tinh tế trong Đờn Ca Tài Tử xưa và nay.
Một thuyết khác, được nhắc đến trong bộ “Nhạc tài tử Nam bộ” của soạn giả Nhị Tấn, cho rằng tác giả bài Văn Thiên Tường là ông Trần Quang Thọ, nguyên là nhạc công trong triều đình, sau chuyển về cư trú tại Định Tường. Ông Trần Quang Thọ cũng là ông cố của GSTS Trần Văn Khê. Thuyết “Trần Quang Thọ là tác giả” vốn xuất phát từ những bài viết và các buổi thuyết trình của GS Khê; ông cho biết mình nghe lại câu chuyện này từ nhà văn Hồ Hữu Tường, và ông Tường thì dựa trên lời kể của ông Nguyễn Đình Chiêm, người con trai thứ năm của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Tóm lại, đây là một truyền thuyết lưu truyền qua nhiều lớp nhân chứng và được GSTS Trần Văn Khê ghi nhận. Các khảo cứu gần đây đã xác định một cách thuyết phục rằng tác giả bài Văn Thiên Tường là ông Trần Quang Quờn.
Tưởng cũng nên nhắc qua về Văn Thiên Tường, người đã có câu thơ bất hủ đi vào văn học sử Việt Nam:
人生自古誰無死,
留取丹心照汗清。
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
Nghĩa là:
Người đời ai chẳng qua lần chết?
Cốt giữ lòng son với sử xanh.
Gặp lúc quân Nguyên đem quân đánh phá nhà Tống, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa sĩ cứu nước. Chẳng may trong một trận đánh, quân ông bị đại bại và ông bị giặc bắt. Giặc chiêu hàng nhưng ông không khuất phục, làm bài thơ “Chính Khí Ca” tán dương lòng yêu nước không sợ chết của những bậc trung thần nghĩa sĩ. Sau 3 năm tù đầy, thấy không chiêu hàng được, giặc đem chém ông vào năm 1282.
Từ những tư liệu hiện có, bài Văn Thiên Tường có thể xem là một dấu mốc đặc biệt trong tiến trình hình thành và phát triển của Đờn Ca Tài Tử Nam bộ. Sự ra đời của bài bản này không chỉ gắn liền với tên tuổi Kinh lịch Trần Quang Quờn, mà còn bắt nguồn từ cảm hứng sâu xa trước tinh thần bất khuất của Thủ Khoa Huân và hình tượng trung liệt của Văn Thiên Tường đời Nam Tống. Qua cấu trúc hơi oán đi vào lòng người, bài bản đã chuyển tải được khí tiết của những bậc nghĩa sĩ vào ngôn ngữ âm nhạc truyền thống.
Hơn một thế kỷ trôi qua, Văn Thiên Tường vẫn được giới nghệ nhân lưu truyền như một chứng tích văn hóa, nơi lịch sử, đạo lý và nghệ thuật hòa quyện thành một giai điệu bi hùng khó phai. Mỗi lần được cất lên, bài bản ấy không chỉ nhắc nhớ nguồn cội mà còn khơi dậy niềm tự hào về tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Đờn Ca Tài Tử: Văn Thiên Tường (bài Oán biến thể) - NNƯT Kim Thanh.


