Nhạc Tài Tử: Bản “Bình Sa Lạc Nhạn”
![]() |
![]() ![]() |
Điều giải thích này không chính xác vì loài nhạn mà người Việt chúng ta còn gọi là con mòng thường bay theo đàn hình chữ V. Loài chim này hình dáng giống như con vịt trời, tiếng Anh gọi là “Wild Goose”, tức là một loài ngỗng trời, có nhiều ở Gia Nã Đại, khi mùa đông đến thì bay về phương Nam trốn lạnh. Vì vậy, không có việc chim lao đầu vào bãi cát mà chết khi con kia bị chết như giả thuyết trên giải thích.
Giả thuyết thứ nhì kể rằng có một gia đình phú hộ nọ có một cô con gái rất đẹp, một hôm tổ chức đờn ca tài tử, mời được một ông thầy đờn tranh tài hoa đến giúp vui. Ông thầy này vừa mới sáng tác được một bản Oán rất hay nhưng chưa đặt tên, đem ra đờn cho mọi người thưởng thức. Trong lúc ông thầy đờn đang thả hồn theo tiếng nhạc thì cô con gái của chủ nhà bưng trà lên đãi khách, nghe thấy tiếng đờn mùi mẫn ai oán của ông thầy đờn, cô ta ngẩn ngơ rụng rời tay chơn làm rớt bình trà. Ông thầy đờn ngó lên thấy vẻ đẹp như hớp hồn của cô gái làm cho ông luống cuống, tay đờn đụng vô mấy con nhạn của đờn tranh làm cho những con nhạn đó bị lệch đi và đờn bị lạc dây, nhưng vì trong lúc nhập tâm nên ông thầy đờn vẫn tiếp tục say sưa đờn cho đến hết bản mà vẫn đúng chữ đờn dù dây bị lạc. Sau đó, vì việc làm rớt bình trà mà những con nhạn bị lạc nên ông thầy đờn này đặt tên bản đờn là “Bình Sa Lạc Nhạn”.
Nếu giải thích theo giả thuyết này thì bốn chữ bình, sa, lạc và nhạn phải hoàn toàn là tiếng Việt:
- BÌNH do tiếng Hán đã được Việt hóa như bình bông, bình trà, bình nước…
- SA có nghĩa là rớt xuống như mưa sa, sương sa.
- LẠC có nghĩa là sai lệch, chênh.
- NHẠN của tiếng Việt dùng trong đờn tranh có nghĩa là con ngựa hoặc phím dùng để nâng dây đờn, còn con nhạn đờn tranh theo tiếng Hán thì được gọi là “cầm trụ” [琴柱].
Tuy nhiên, cũng có bản nhạc thoạt tiên tưởng là tiếng Hán Việt nhưng lại là tiếng Việt, đó là bản “Tây Thi”, một bản Bắc trong 20 bản tổ. Tên của bản này được giải thích là năm 1900 một nhóm nghệ sĩ Nhạc Tài Tử miền Nam được mời sang Pháp dự cuộc Đấu Xảo Quốc Tế, trên đường về, các nhạc sĩ tụ họp nhau đờn ca giải buồn vì lúc đó phương tiện di chuyển từ Sàigòn qua Pháp là bằng tàu thủy và phải đi trên nửa tháng. Nhân việc cổ nhạc miền Nam được qua Pháp dự cuộc thi do các giám khảo Tây chấm điểm nên bản nhạc mới này được đặt tên là “Tây Thi”, có nghĩa là “đi Tây thi”, không phài là Tây Thi gái nước Việt, một trong Tứ Đại Mỹ Nhân của Trung Quốc[1].
Nếu chỉ dựa trên tên của bản nhạc để giải thích ý nghĩa của nó thì cũng chưa được chính xác cho lắm vì có bản nhạc, nếu không có sự giải thích của tác giả thì khó mà đoán ra ý nghĩa của bản đó. Thí dụ như bản “Ngũ Châu Minh Phổ” do nhạc sư Nguyễn Văn Thinh (Giáo Thinh) sáng tác năm 1975, có nghĩa là “năm hạt châu của thành phố HCM”. Bản “Ngũ Châu Minh Phổ” này không nói về “năm hạt châu” mà là bản đờn gồm 5 lớp, lớp 1 bắt đầu bằng dây Hò I, lớp 2 Hò II, lớp 3 Hò III, lớp 4 Hò IV và lớp 5 trở lại Hò I, nghĩa là trong bản đờn chuyển dây 5 lần mà thôi.
Giả thuyết thứ ba cho rằng tên “Bình Sa Lạc Nhạn” được đặt theo đề tài “Bình Sa Lạc Nhạc” [平沙落雁] trong “Tiêu Tương Bát Cảnh” [潇湘八景] của Trung Quốc. Giả thuyết này khả tín và có thể chấp nhận được vì “Tiêu Tương Bát Cảnh” là tám cảnh đẹp trong khu vực hai sông Tiêu và sông Tương ở tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc. Tám cảnh đẹp này đã là đề tài cho nhiều thi sĩ, họa sĩ và nhạc sĩ của Trung Quốc và những nước lân cận như Nhật Bản, Việt Nam gần ngàn năm qua. Tám cảnh đẹp đó đã được Tống Địch vẽ vào khoảng thế kỷ 15 gồm có:
- Bình Sa Lạc Nhạn ở Hành Dương (chim nhạn đáp xuống bãi cát).
- Sơn Thị Tình Lam ở Tương Đàm (phố núi trong khói chiều).
- Viễn Phố Qui Phàm ở Tương Âm (thuyền buồm xa về).
- Ngư Thôn Tịch Chiếu ở Đào Nguyên (nắng chiều ở xóm chài).
- Yên Tự Vãn Chung ở Hành Sơn (tiếng chuông chùa ban chiều).
- Động Dình Thu Nguyệt ở Nhạc Dương (trăng thu trên hồ Động Đình).
- Giang Thiên Mộ Tuyết ở Trường Sa (tuyết rơi trên sông lúc chiều tối).
- Tiêu Tương Dạ Vũ ở Vĩnh Châu (mưa đêm trên sông Tiêu Tương).
![]() |
Bản “Bình Sa Lạc Nhạn” của Trung Quốc âm điệu du dương réo rắt, miêu tả được tiếng kêu của bầy nhạn đang bay lượn trên không trung trước khi hạ cánh đáp xuống bãi cát. Còn bản “Bình Sa Lạc Nhạc” của Việt Nam thuộc hơi Oán, mang âm điệu u buồn của bản “Tứ Đại” pha lẫn bi hùng của bản “Văn Thiên Tường”. Về tác giả của bản “Bình Sa Lạc Nhạn” của Việt Nam thì có hai giả thuyết khác nhau. Theo Thạc sĩ Huỳnh Khải thì bản “Bình Sa Lạc Nhạn” do nhạc sư Võ Văn Khuê (Hai Khuê) sáng tác bản đờn và lời ca[2], thuyết thứ nhì cho là nhạc sư Nguyễn Văn Thinh (Giáo Thinh) sáng tác bản này[3].
Sở dĩ bản “Bình Sa Lạc Nhạc” của Việt Nam có âm điệu ai oán, khác với bản của Trung Quốc vì có một nguyên nhân sâu xa khác, đó là mặc dù bãi “Bình Sa Lạc Nhạn” là một cảnh đẹp của sông Tương, nhưng cũng là biểu tượng cho cái chết của Khuất Nguyên.
Khuất Nguyên (340 TCN – 278 TCN) là một nhà thơ, nhà chính trị và một nhà yêu nước thời Chiến Quốc. Ông là người nước Sở, tên là Bình, học rộng nhớ dai và có tài về văn chương. Lúc đầu ông được vua Sở Hoài Vương yêu quý và tin dùng, nhưng sau vua nghe lời gièm pha nên ghét bỏ ông. Vì việc này, Khuất Nguyên viết thiên Ly Tao bất hủ để nói lên tâm sự của mình. Sau khi Hoài Vương mất, Sở Tương Vương lên nối ngôi, Khuất Nguyên bị đày ra Giang Nam. Ông thất chí, suốt ngày ca hát như người điên, tự cho mình là người trong sống trong thời đục, ông viết một bài theo thể Sở từ là “Hoài Sa” [懷沙] rồi ôm một phiến đá, gieo mình xuống sông Mịch La tự tử. Bài “Hoài Sa” gồm 42 câu và sau đây là 3 câu cuối:
。。。。。。。。
世溷濁莫吾知,人心不可謂兮。
Thế hỗn trọc mạc ngô tri, nhân tâm bất khả vị hề.
知死不可讓,願勿愛兮。
Tri tử bất khả nhượng, nguyện vật ái hề.
明告君子,吾將以為類兮。
Minh cáo quân tử, ngô tương dĩ vi loại hề.
. . . . . . . .
Đời vẫn đục không ai biết ta, chẳng thể ngỏ cùng ai hề.
Biết chết không thể nhường, nguyện chẳng thương tiếc hề.
Nói rõ cùng người quân tử, hãy lấy ta làm gương hề.
Bản “Bình Sa Lạc Nhạc” của Việt Nam ra đời vào khoảng giữa thập niên 1920 tới thập niên 1940. Trong khoảng thời gian này, nước Việt Nam có nhiều nhà yêu nước đã đứng lên chống lại quân Pháp xâm lăng hầu giành lại độc lập cho nước nhà, nhưng việc chưa thành thì đã ra người thiên cổ, điển hình là các chí sĩ Phan Châu Trinh mất năm 1926, 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng lên máy chém vào năm 1930, chí sĩ Phan Bội Châu mất năm 1940… Có lẽ tác giả của bản “Bình Sa Lạc Nhạn” sáng tác bản này để tưởng nhớ tới những người yêu nước trên nên mới có âm điệu ai oán bi hùng chăng?
Như trên đã nói, tác giả bản “Bình Sa Lạc Nhạn” của Việt Nam có thể là do một trong hai nhạc sư là Giáo Thinh hoặc Hai Khuê sáng tác. Hai vị nhạc sư này đều có những sáng tác đóng góp cho bộ môn Nhạc Tài Tử miền Nam như bản Võ Tắc Biệt do Hai Khuê sáng tác để đối lại với bản Văn Thiên Tường[4].
Riêng về Giáo Thinh thì ông đã sáng tác nhiều bài bản từ năm 1929 cho đến khi từ trần năm 1991, trong đó có nhiều bài nói lên lòng yêu nước như lời bài Kim Tiền Bản và Ngự Giá với lời ca chống thực dân Pháp, hoặc các bản “Chinh Phụ Ly Tình”, “Thanh Dạ Đề Quyên”, “Song Phi Hồ Điệp” đã được giới Tài Tử, Cải Lương yêu thích và sử dụng rộng rãi trên sân khấu. Bản “Chinh Phụ Ly Tình” [征婦離情] có nghĩa là “người vợ chia tay với chồng để chồng đi giúp nước” hoặc bản “Thanh Dạ Đề Quyên” [清夜啼鵑] có nghĩa là “đêm vắng lặng nghe tiếng cuốc kêu” để nói lên nỗi đau của người dân mất nước. Với một tấm lòng ưu tư về đất nước như vậy, có thể bản “Bình Sa Lạc Nhạn” cũng do nhạc sư Nguyễn Văn Thinh sáng tác vì bản nảy cũng có ý nghĩa thương tiếc những người yêu nước, có tài nhưng vận chưa đến nên phải chết trong ân hận. Tuy nhiên, đây chỉ là sự phỏng đoán dựa trên quá trình sáng tác của Giáo Thinh mà thôi. Hai nhạc sư này đã không còn nữa, nhưng hai ông còn có nhiều học trò, hy vọng các môn sinh của hai ông sẽ tìm được thêm tài liệu về bản “Bình Sa Lạc Nhạn” trong những sách vở do hai ông để lại ngõ hầu ý nghĩa của bản nhạc được sáng tỏ hơn.
____________________________
[1] Soạn giả Nhị Tấn dựa theo tài liệu riêng của giáo Thinh.
[2] Bộ Tứ Oán Trong Nhạc Tài Tử, Huỳnh Khải,http://huynhkhai.com/index.php?option=com_content&view=article&id=423%3Ab-t-oan-trong-nhc-tai-t&catid=37%3Atimhiu-am-nhc-truyn-thng&Itemid=79&lang=vi,%2029-9-2010
[3] Hấp Dẫn Với “Ngày Hội Đàn Tranh”, Nguyên Vũ,http://www.tienghatquehuong.net/HOINGODANTRANH2.htm, (Theo Doanh Nhân Sài Gòn cuối tuần, số 413, 2011)
[4] Góp ý về Cổ Nhạc Nam Phần,http://www.datviet.com/threads/17566-B%E1%BA%A1n-th%C3%ADch-C%E1%BB%95-Nh%E1%BA%A1c-...-xin-m%E1%BB%9Di-v%C3%A0o-...
*****
TÀI LIỆU SƯU TẦM (có thể click để nghe hoặc tải xuống máy vi tính):
Bản “Bình Sa Lạc Nhạc” của Việt Nam:
- Lớp 1 (10 câu) và lớp 3 (18 câu): Ba Tu (kìm), Hoàng Cơ Thụy (tỳ bà), Út Tỵ (cò), Duy Kim (tranh), Quang Dũng (tiêu):
http://namkyluctinh.com/a-nghethuat/Binh_Sa_Lac_Nhan.mp3
Bản “Bình Sa Lạc Nhạc” của Trung Quốc:
- http://www.youtube.com/watch?v=znBzxRq9Qds
- http://www.youtube.com/watch?v=4OMGEqoUk5w
- http://www.youtube.com/watch?v=Bb8CA4BBoHs
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Nhạc Tài Tử Nam Bộ, Nhị Tấn, Câu Lạc Bộ Đờn Ca Tài Tử, TP Hồ Chí Minh, 1997
- Tìm Hiểu Âm Nhạc Cải Lương, Đắc Nhẫn, Nhà Xuất Bản TP Hồ Chí Minh, TP HCM, 1987
- http://www.hyhyf.com/in1.asp
- http://blog1.poco.cn/myBlogDetail-htx-id-3495546-userid-52707201-pri--n-0.xhtml