Mưu độc ngàn năm (2):
Cuộc triệt tiêu văn hóa Đại Việt của nhà Minh:
Chuyện nhà Minh cướp sách của ta đem về Kim Lăng

Chuyện Nhà Minh xâm lăng nước ta và cướp sách của tađem về Tầu xảy ra cách đâyhơn sáu trăm năm bị nhiều người cho là không quan trọng.Thực sự đây là một mưu toan vô cùng thâm độc của người Tầu nhằm tiêu diệt dân tộc Việt màngười thường ít ai để ý đến, mà có để ý đến thì cũng khó nhận rahay đã quá muộn. Nó nằm trong “Mưu Độc NgànNăm” với lời nguyền “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện gần hai ngànnăm trước và một lần nữa đã và đang trở thành một mối ưu tưvà một đề tài vô cùng quan trọng cho những ai cònlưu tâm tới tiền đồ củađất nước và tương lai củacon cháu mình cũng như trách nhiệm của mìnhđối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu người dân và chiến sĩ đã hy sinhtrong cuộc chiến kéo dài bamươi năm vừa qua. Không lẽ tổ tiên mình đã thành côngbảo vệ được dân tộc, giữ vững được đất nước mà đến đời mình lại bất lực và để mất hay sao? Không lẽCác Cụ Ta đã thành côngdìm “Cột đồng (của Mã Viện) chìm chín suối” và Hai Bà Trưng đã tạo dựng được “Bia đá rọi ngàn thu” để sang thế hệ chúng ta, chúng ta lạingồi yên để sẽ ngậm ngùi tự hát cho mình mình nghe:

Để lại cho em này nước non mình.
Để lại cho em một nước đẹp xinh.
Một miền oai linh hiển hách.
Chỉ còn dư vang thần thánh.
Để lại cho em hèn kém của anh...

thay vì:

Người sau, kẻ trước lao vào địch,
Giữ vững nghìn thu một giống nòi.

hay sao? Xin để quý bạn đọc tùy nghi trảlời.

Đây là bài thứ hai trong loạtbài tác giả viết về “Mưu Độc Ngàn Năm” của người Tầu nhắm vào DânTộc Việt Nam sau bài nói về Cuộc KhởiNghĩa của Hai Bà Trưng và Cột Đồng Đông Hán của Mã Viện ky trước.

Trong tháng 4 năm 2004, dướinhan đề “Từ Lĩnh Nam Chích Quái Đến Các Tài Liệu Bị Quân Minh Tịch Thu Đem VềTàu”, tôi cóviết một bài về việc người Tàu tịch thu sách của ta. Vì bài viết quá ngắn và vìtôi không chỉ rõ các nguồn tài liệu nên sau đó nhiều người thắc mắc. Năm 2012, tôi đã viết thêmvà năm nay 2019,tôi xin được viết thêm nữa. Đầu tiên tôi xin nói là năm 2004 khác vớinăm 2012 và năm 2019 lại khác hơn nữa. Năm 2004 hiểm họatái xâm lăng nước ta của người Tàu chưa lộ rõ và chưa thậtsự nguy hiểm như trong năm 2012 và những năm saunày.Cập nhật hóa và phổ biến những gì tôi thấy được cho bạn bè nói riêng và cho tuổitrẻ Việt Nam nói chung là một điều tôi thấy nên làm mặc dầu tôi vẫn muốn kiếmthêm tài liệu để viết nhiều hơn nữa du đã ở trên đường tới tuổi chín mươi, tuổi bị kể như là quá giàvà sắp rời cõi tạm.

Thực sự thì sự thắc mắc của tôi vềchuyện người Tàu tịch thu hết các sách vở của ta đem đốt hết hay đem về Tàu tôi đã có từ lâu. Thắc mắc nhưng đồng thờicũng là một nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, tiếc nuối, đặc biệt là mỗi khi tôicó việc phải tìm hiểu về hai thời Lý Trần, hai triều đại đã đóng góp rất nhiềucho vinh quang, thịnh vượngcủa xứ sở, nói chung và đặcsắc riêng cho văn hóa riêng của dân tộc mình, nói chung.Tôi biết nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, tiếc nuối của tôi cũng là củachung của cả dân tộc tôi, dù cho là tôi đang làm công chuyện tìm hiểu và nghiêncứu. Tôi cũng biết tìm hiểu và nghiên cứu là phải có cái đầu lạnh chừng nào haychừng ấy, càng lạnh càng tốt, nhất là nghiên cứu về quá khứ, nhưng dù muốn haykhông tôi vẫn là người Việt Nam. Nhữnggì tôi viết ra ở đây chỉlà một gợi ý và gợi ý về những sách vở và tài liệu liên hệ tới nước Đại Việtđương thời do chính người Đại Việt viết ngoài văn chương, thơ phú, còn có học thuật, tư tưởng, phong tục, tậpquán, sử ký, địa lý, con ngườivà tất nhiên gồm cả văn chương, thi ca..., những gì có thể giúp cho người thờiđó và người sau này tìm hiểu về nước Đại Việt và dân tộc Đại Việt cũng như những thành công vĩ đại mà tổ tiên ta đãđạt được ngót ngàn năm trước. Những sách vở, tài liệunày tôi tin là nhiều lắm, nhiều hơn là những gì ta hiện có, cộng thêm với nhữnggì được liệt kê trong danh sách những sách đã mất mà các cụ ta sau này còn nhớđược và viết lại trong sử sách do các cụ viết.[1] Tôi dám tin là như vậy vìđây là cả một kho tàng tổ tiên ta đã tạo dựng được trong suốt bốn trăm năm thịnhtrị nhất của lịch sử dân tộc mình. Tôi cũng dám tin như vậy căn cứ vào bài tựa của Việt Âm Thi Tập, sưu tập thơ của thờiLý-Trần và thời Lê Sơ do Phan Phu Tiên khởi đầu và Chu Xa thực hiện, Lý Tử Tấnđề tựa. Cả ba đều là người đương thời, từ đó nhữngsự hiểu biết của cácông còn rất nóng, chưa đến nỗi bịthời gian làm cho hao mòn. Phan Phu Tiên đậu Thái Học Sinh năm1396 đời Vua Trần Thuận Tông, Lý Tử Tấn đậu đồng khoa Thái Học Sinh với NguyễnTrãi, khoa Canh Thìn (1400) triều Nhà Hồ, còn Chu Xa thì trẻ hơn một chút vìsách được soạn xong năm 1459 dưới triều Vua Lê Nhân Tông, tiếp nối công trình củaPhan Phu Tiên hoàn thành năm 1433, niên hiệu Thuận Thiên triều Vua Lê Thái Tổ, nên những gì các ông biết về sách vở, thica của hai Triều Lý và Trần phong phú đến mực nào cũng như hành động tịch thusách của không thể nào tàn bạo hơn củaNhà Minh là như thế nào. Lý Tử Tấn trong bài tựa của Việt Âm Thi Tập cho biết là sau cơn binh lửa, số thơ còn lại chỉ đượcmột hai phần nghìn. Nguyên văn nhưsau:

“… Như các vua Triều Trần là ThánhTông, Nhân Tông, Minh Tông, Nghệ Tông, cùnglà Chu Tiều Ẩn tiên sinh (Chu An), các ông họ Phạm ở Hiệp Thạch (Phạm Sư Mạnh), họ Lê ở Lương Giang (Lê Quát), NguyễnGiới Hiên (Nguyễn Trung Ngạn) và anh emông Phạm Kính Khê (Phạm Tông Mại, Phạm Ngộ) đều có tập thơ riêng lưu truyền ở đời.Về sau, vì binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn.” [2]

Điều cần phải để ýlà đây mới chỉ là vềthơ văn màthôi. Những tài liệu khácliên quan tới sự tìm hiểu về nền văn hiến của nước Đại Việt dưới haithời Lý Trần trước đó có thể ít hơn về số lượng nhưng quan trọnghơn nhiều cho các học giả sau này.

Sựthịnh trị này đã được chính Minh Thái Tổ ghi nhận khi ông ban cho sứ thần củata bốn chữ Văn Hiến Chi Bang vào năm1368 [3]và Trần Nguyên Đán (1325 - 1390), cha vợ của Nguyễn Phi Khanh hay ông ngoại củaNguyễn Trãi đã miêu tả qua câu thơ bất hủ “Triệutính âu ca lạc thịnh thì” (trăm họ vui ca mừng thời thịnh trị) [4] và người lính già đầu bạc thời Trần Nhân Tôngcòn thỉnh thoảng ngồi kể chuyện thời Nguyên Phong:

“Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”
Lính già phơ tóc bạc
Kể chuyện thuở Nguyên Phong
(Ngô Tất Tố dịch)[5]

Cái gìđã làm cho Đại Việt là một nước văn hiến?Cáigì đã làm cho trăm họ Đại Việt âu ca lạc thịnh thì?Cái gì đã làm cho người lính già phơ tóc bạc ngồikể chuyện thuở Nguyên Phong? Cáigì đã làm cho một nước nhỏ bằng bàn tay [6] thắng được quân nhà Tống và luôn cảquân Mông Cổ, điều Thiên Triều, thượngquốc của người Việt trong nhiều thế kỷ và luôn cả saunày, tôi muốn nói làchính nước khổng lồ Trung Quốc, không làm được? Cái gì đã làm cho Hồ NguyênTrừng được Hoàng Đế Nhà Minh biết tới và trọng dụng? Đó phải là những câu hỏi mọi người nghiêncứu về triều đạinày phải tìm hiểu để trả lời vàđương nhiên cả người nhà Minh, trong đó có Minh Thành Tổ khi chủ trươngxâm lăng và đô hộ nước ta cũng muốn tìm hiểu.Chính vì vậy, những sách vở do người ĐạiViệt đương thời biên soạn hay sáng tác chắc chắn phải là những nguồn hiểu biết vô cùngquan trọng về đất nước và con người Đại Việt mà những ai, kể cả người Tàu đươngthời, có nhu cầu tìm hiểu hay chỉ vì vì tò mò, cũng muốn có được trong tay để đọc và lưu giữ thay vì nhắm mắt đốt bỏ hết.Đó là lý do tại sao hai sắc chỉ ban đầu của MinhThành Tổ đã không được triệt để thi hành. Nếu quả như vậythì phần nào những sách vở, tài liệu này vẫn chưa bị mất và vẫn còn nằm đâu đóbên Tàu, dưới hình thức này hay hình thức khác, nếu kiên trì tìm kiếm và cóphương pháp tìm kiếm, người ta vẫn có thể thấy lại được. Tất nhiên là với tất cảsự dè dặt và kiên trì tốithiểu mà một nhà sưu tầm, khảo cứu cần phải có.

Ý được gợi ra nhưng câu trả lời đầu tiên được ghi nhận gầnnhư là không, vìnếu cứ nhất định căn cứ vào tài liệu của thời đó để lại thì làm gì có chuyệnngười Tàu lấy sách của ta đem về Tàu. Minh Thành Tổ trong hai đạo sắc dụ củaông có hạ lệnh cho tướng lãnh, quân binh của ông đem về Tàu đâu. Câu trả lời củatôi là căn cứ vào các sách sử của ta. Tôi có thể chưa có dịp đọc hết các sách vở,tài liệu có thể chứa những chi tiết về chuyện này, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, chính sử của nhà Nguyễn, một tác phẩm không do một người mà do nhiềungười thuộc Quốc Sử Quán đương thời do Phan Thanh Giản làm Tổng Tàibiên soạn, và trước đó, Lê Quý Đôn(1726 - 1784) trong Lê Triều Thông Sửđã viết rất rõ điều này.

Trước hết, trong LêTriều Thông Sử, phần “Nghệ Văn Chí”,Lê Quý Đôn có viết: Đếnđời Nhuận Hồ mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim củata gửi theo đường sông về Kim Lăng.”[7]Nên để ý ba chữ “theo đườngsông” tác giả dùng để nói rõ chi tiết về cách chở về Kim Lăng ở đâychứ không nói chung chung. Còn trong KĐVSTGCM, phần Chính Biên, quyển XXXIII, sau phần nói về việc vuanhà Minh cho in các sách Tứ Thư, Ngũ Kinhvà Tính Lý Đại Toàn và sai Giám Sinh Đường Ngha sang nước ta ban phát cho những ngườiNho học,một cách khẳng định, có chép thêm Còncác sự tích và sử sách của nước ta từ đời Trần trở về trước đều tịch thu đưa vềKim Lăng.”[8]

Gầnta hơn, Trần Quốc Vượng, giáo sư sử học thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Hà Nội,trong tuyển tập nhan đề Văn Hóa Việt Nam,Tìm Tòi và Suy Gẫm cũng viết:

“Cướpđược nước ta, trong 20 năm trời bên nền đô hộ hà khắc về chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thihành một chính sách hủy diệt độc ác về văn hóa, giặc Minhđã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hóa dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ yếu dưới thời Lý - Trần. VuaMinh đã trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tướng xâm lăng khi tiến quân vào nước ta, thấy bất cứ cuốn sách vở nào,gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phảithiêu hủy, đập phá hết. Tên tướng Trương Phụ lượm lặt hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng chở về Kim Lăng. Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418), nhà Minhcòn sai tiếnsĩ Hạ Thì và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa naydo người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem sách Khổng giáo, Đạo và Phật giáo củaTrung Quốc sang thay thế cho những sách trước kiachúng lấy đi. Chính sách hủy diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài vănhóa, tinh thần của dân tộc ta khôngphải là ít. Nếu không, cái gia tài văn hóa, văn học tư tưởng thời Lý Trần để lại sẽ phong phú biết chừngnào!” [9]

Tất nhiên các nhà nghiên cứu thận trọng có thể nói rằng nhữngghi chú kể trên đều là bởi những người của nhiều thế kỷ sau này viết nên vẫnchưa đủ thuyết phục, và ta vẫn cần phải có thêm bằng chứng. Thực sự thì takhông biết Lê Quý Đôn rồi sau này các nhà san định bộ KĐVSTGCM đã căn cứ vào đâu để ghi chép như trên. Có thể các vị sau này đã căn cứ vào Lê Quý Đôn còn LêQuý Đôn thì căn cứ vào những gì ông đọc được và nghe được từ những người của thờitrước ông, trong đó khôngthể không có Lý Tử Tấn. Chúng ta cần ghi nhớ là Lê Quý Đônlà người chịu khó tìm tòi, học hỏi. Ông đã đọc rất nhiều, rất rộng và ghi chép rất cẩn thận. Chỉ cần đọc các tác phẩm của ông người ta thấyrõ điều này. Còn Trần Quốc Vượng thì đã không nêu rõcác nguồn sử liệu ông đã dùng. Nhưng sử gia này cũng là người làm việc rất tỉ mỉvà có phương pháp nên chắc chắn đã không đưa ra những ghi nhận về sự kiện kểtrên một cách hồ đồ vô căn cứ. Dùsao, một khi nghi vấn đã được đưa ra, ta vẫn cần phải truy tầm vừa bằng tài liệunếu có và vừa bằng suy luận cặn kẽ chừng nào hay chừng nấy.

Trước hết ta hãy đọc lại những phần chính liên hệ tới vấn đềsách vở của người Việt trong ba sắc chỉ của Minh Thành Tổ được ghi trong Việt Kiệu Thư, được dịch và in lại trongThơ Văn Lý Trần, một côngtrình được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu có uy tín và đáng tin cậy của ViệtNam trong thế kỷ XXtrước, để thấy lại phần nào chi tiết liên hệ, nhất là sắc chỉ thứ hai, ban hànhvào ngày 16 tháng 6 năm 1407, theo đó thì vị Hoàng Đế Trung Hoa này đã nhiều lần bảo các tướng sĩ của ông ta là phải hủydiệt lập tức những sách vở của người Việt này, nhưng các tướng lãnh của ông đã không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồimới đốt. Còn quân lính thì phần đông không biết chữ...thì khi “đài tải” sẽ bị mấtmát nhiều [10].

Tạisao lại “đài tải”? Tại sao lại lo mất mát nhiều? Tại sao lại để xem rồi mới đốt?

Đếnsắc chỉ thứ ba ban hành ngày 24 tháng 6 năm 1407, Minh Thành Tổ lại ra lệnh chocác tướng lãnh của ông phải cấp tốc thu hồi những văn kiện ông ban hành từ trước:“Nay An-nam đã bình định xong [...] trừcác loại chế dụ ra, còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp,đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành Quốc Công đã lĩnh hoặccác thứ [sổ sách] trù nghị mọi chuyện, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu,niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện.” [11] thì người ta thấy sự kiệnđã quá rõ rệt là lệnh của vua Nhà Minh đã không được triệt để thi hành và cácsách vở quân Minh thu được đã không bị đốt bỏ hết. Một số khác trên đường đài tải đã bị mất mát rất nhiều. Ngoàira, ngoài ba dụ chỉ hiện được người ta biết tới, chắc chắn còn nhiều văn kiện tối mật khác hoặc đã được niêm phong gửilại Triều Đình Kim Lăng, hoặc đã bị hủy bỏ trong thờiđiểm này. Chúng chứa đựng những gì hiện tại chúng ta chưa biết được và có thể không bao giờ biết được nhưng người tacó thể chắc chắn làchúng chứa đựng rất nhiều chi tiết liên quan tới đường lối thâm độccủa nhà Minh trong thời gian này, nếu không tại sao Minh Thành Tổ lại thêmcâu cuối Nếucó một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện. Đây mới là điểm quan trọng của vấn đề. Tại saoMinh Thành Tổ lại sợ đến như vậy? Do đó nếu chúng ta chỉcăn cứ vào sắc chỉ thứ nhất (được nói tới trong Thơ Văn Lý-Trần), ban hành ngày 21 tháng 8 năm 1406, cho Chu Năng kểtrên, mà bảo rằng không hề có chuyện người Minh đem sách vở của ta về Tàu, tôie rằng quá máy móc vàvội vã. Chúng ta chỉ có thể biết rõ hơn chừng nào kiếm ra được những tài liệu mậtnày. Đây gần như là một việc mò kim đáy biển. Tuy nhiên còn có những lý do kháckhiến ta có thể viện dẫn được. Thứ nhất là tính tò mò của các tướng sĩ nhàMinh, một tính tự nhiên và phổ quát của con người mà họ không tránh được, đặcbiệt ở những người có học khi họ kiếm được những sách nói về những điều họ đã học và muốn biết. Ởđây tôi muốn nói tới các sách về Tam Giáo,đặc biệt là sách của Hồ Quý Ly [12] và của Chu Văn An [13],cộng thêm nhu cầu cần biết để xâm lăng,bình định và cai trị,chưa kể tới hoàn cảnh họ phải sống xa triều đình và xa nhà.Các tướng sĩ trong ban tham mưu của Chu Năng và sau này của Trương Phụ và cácnhà hành chánh sau này nữa chắc chắn phải thu thập bất cứ tài liệu gì họ thu thậpđược, phân tích nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ để hiểu rõ kẻ địch của họ và củadân bản địa mà họ phải bình định và cai trị. Nghiên cứu rồi sau đó đem theomình và giữ lại làm của riêng là một việc làm tự nhiên của họ; còn triều đìnhnhà Minh thì ở quá xa,làm sao có thể hiểu rõ những nhucầu này và theo dõi chặt chẽ được, chưa kể tới chuyện ra lệnh chỉ là bề ngoài đểche mắt mọi người.

Câu hỏi kế tiếp người ta có thể nêu lên là cho đến những ngày hiện tại đã có tác phẩmnào của người Việt sau nhiều thế kỷ luân lạc đã được người ta khám phá ra dướihình thức này hay hình thức khác chưa? Câutrả lời là có. Đó là Việt Sử LượcThiền Uyển Tập Anh. Hai cuốn sáchnày xuất hiện từ thời nhà Trần và đã được người sau chép hay viết lại. Việt Sử Lược đã bị thất truyền rất lâu,mãi đến thời Càn Long nhà Thanh (1736 - 1795) mới được đem in, nói là theo bảncủa Tuần Phủ Sơn Đông thu nhặt được đem dâng lên vua với người hiệu đính là TiềnHi Tộ, người Giang Tô, người đã san định bộ ThủSơn Các Tùng Thư. Việt Sử Lượcđược lưu trữ ở Thủ Sơn Các Tùng Thưvà ở Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh và đã được nhiềunhà xuất bản Trung Quốc ấn hành. Tácphẩm này đã được Giáo Sư Trần Quốc Vượng phiên dịch sang Việtngữ, giới thiệu và chú giải.[14] Trong bản dịch của ông, Trần Quốc Vượng có nói tớiThiền Uyển Tập Anh khi ông bàn về việccác người họ Lý bị đổi thành họ Trần, nhưng đến Lê Mạnh Thát thì sau khi đốichiếu nội dung của Thiền Uyển Tập Anhvới An Nam Chí Nguyên, nhà học giả PhậtGiáo uyên thâm này đã khẳng định là: Khiquân Minh đánh chiếm được nước ta vào năm 1407, Thiền Uyển Tập Anh đã bị chúngthu gom và sau này được dùng một phần để viết An nam chí nguyên.” [15]

Trên đây là những gì tôi ghi tạm để cấpthời chia sẻ với mọi người, đặc biệt là giới trẻ khi hiểmhọa mất nước của dân tộc ta trước những toan tính ngàn năm,vừa công khai,vừa tiệm tiến và vô cùng thâm độc của người Tàu đang diễn ra ở cả ngoài biển đảolẫn trên đất liền, ở dọc biên giới với những khu rừng đầu nguồn, trên caonguyên cũng như dưới đồng bằng dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Cà Mau, đối vớiđất đai cũng như đối với con nguời Việt Nam.Mưu độc ngàn năm với lời nguyền “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện mộtlần nữa đã trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng nónghổi cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của tổ quốc và tương lai của con cháumình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu chiếnsĩ ở cả hai bên đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua nhândanh bảo vệ đất nước. Bài viết, do đó, chắc chắn còn nhiều thiếusót và sơ hở. Tôi sẽ xin bổ túc khi có dịp. Riêng về giá trị văn chương của thiphú của ta so với của Tầu thì tôi không dám lạm bàn vì sự hiểu biếtvà khả năng của tôi về khía cạnh này không đủ, vả lại đó không phải là loại tài liệu mà các tướng lãnh vàcác nhà cai trị người Minh quan tâm, nhất là loại thơ văn lãng mạn,tình cảm cá nhân.Nếu tôi có đọc các tác phẩm thuộc loại này thì chỉ là để tìm hiểu về các thời kỳhay các nhân vật liên hệ tới lịch sử mà thôi. Điều tôi muốn nói lên ở đây là nếu người Tàu có làm chuyện hủy diệt haychép lại rồi đề tên bất cứ người nào khác hay viết lại hay đạovăn của ta, nếu có, khi họ xâm lăng nước ta vào đầu thế kỷ XV với chủ trương chính yếu của họ lànhằm triệt tiêu khả năng tinh thần, lòng tự tin và nguồn hãnhdiện của dân tộc ta để phòng ngừa hậu họa, đồngthời giữ cho nước Tầu vị thế độc tôn, trung tâm của thế giới văn minh, không phải chỉ ởthời điểm xâm lăng hay đô hộ mà vĩnh viễn sau này nữa. Thơ văn chỉ là một phần nhỏ. Đây là một chính sách vô cùng tàn độc nếuta dùng từ ngữ chung của nhiều người khi nói tớihay viết về giai đoạn lich sử này của dân tộc và của đất nước ta. Một chínhsách không phải chỉ phát xuất từ tham vọng Đại Hán mà còn có thể được coi nhưphản ảnh của một mặc cảm, một sự sợ hãi lo âu trước sự thành công không thể ngờđược của Đại Việt trước sự thất bại của Thiên Triều Trung Quốc, một chính sáchvà một hành vi nếu được thực hiện vào thời điểm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI hiệntại, quốc gia chủ trương sẽ phải chính thức và long trọng xin lỗi, coi như đã phạm một tội ác đối với nhân loại. Có điều người tacần phải ghi nhớ là người Tàu luôn luôn kiêu căng, tự coi nước mình là một nướclớn là duy nhất văn minh, nằm ở giữa. Chung quanh họ đều làman di mọi rợ, Việt Nam hay Đại Việt đi chăng nữa cũng chỉ là man, Nam Man, cùng với Bắc Địch, Đông Di, Tây Nhung... nằm ngoài rìa củaHoa Hạ thời cổ, của Trung Hoa thời Dân Quốc, của TrungQuốc thời Cộng Sản hiện tại... Bao nhiêu tàinguyên, của cải quý báu nhất từ vật chất đến tinh thần trong thiênhạ là phải được tập trung hết về tay họ. Những chiến thắng của người Việttrong các thời Lý Trần, đặc biệt là chiến thắng chống quân Mông Cổ trong khingười Tàu thực hiện không nổi là những gì họ không thể chấpnhận được. Còn nếu vị Hoàng Đế sáng lập nên Triều Đại Nhà Minh là Minh Thái Tổban cho sứ Đại Việt bốn chữ Văn Hiến ChiBang, vô tình ông đã mở đầu khai tử cả một nềnvăn hóa riêng của Đại Việt mà đao phủ là hậu duệ của ông, Minh Thành Tổ. Là ngườisáng lập nên một triều đại mới, Minh Thái Tổ có thể có một cái nhìn rộng rãibao dung nhưng những người kế vị ông coi đó là một sự xúc phạm đến thiên triềukhi chính tình của nhà Minh đã ổn định. Cuối cùng ta cũng không nên quên làkiêu căng nhưng người Tàu vẫn luôn mở cửa để thu góp chất xám từ các xứ chungquanh bằng cách đòi hỏi các xứ này phải cống những người tài giỏi khi các nướcnày còn độc lập hoặc ruồng bắt những người này khi các nước họ bị xâm lăng hayđô hộ đem về Trung Quốc. Điềunày đã xảy ra trong thời quân Minh xâm lăng nước ta khi vua Minh hạ lệnh choTrương Phụ và các tướng tá của ông này phải “tìm tòi dò hỏi những người ẩn dật ở núi rừng, có tài,có đức, thông suốt năm kinh, văn hay, học rộng, thạo việc, am hiểu thư toán,nói năng hoạt bát, hiếu đễ, chăm làm ruộng, tướng mạo khôi ngô, gân sức cứng rắn,cùng những người hiểu biết nghề cầu cúng, làm thuốc, xem bói, đều đưa sang Kim Lăng, sẽ trao cho quan chức, rồi cho vềtrấn trị các phủ, châu huyện”.[16] Lệnh này phải được hiểu xahơn là nhằm thâu góp nhân tài của Đại Việt để phục vụ chothiên triều ở Trung Quốc hơn là để sau này cho về phục vụ trong ngành hànhchánh ở Đại Việt vì nếu cho họ phục vụ ngay tại Đại Việt, cần gì phải đưa họ vềKim Lăng, đường xá vừa xa xôi, vừa tốn kém, vừa nguy hiểm. Đưa về phục vụ ở ĐạiViệt chỉ là miếng mồi không hơn, không kém, giữ họ lại Trung Quốc để khai thácmới là chính. Một trường hợp điển hình cho chính sách tom góp và thu dụng nhântài của nhà Minh đương thời là trường hợp của Hồ Nguyên Trừng, con trưởng của HồQuý Ly. Bịbắt đưa về Tàu nhưng Nguyên Trừng đã không bị ghép tội và bị xử cực hình vì ôngđã bằng lòng đem tài riêng của mình, tài chế súng thần cơ, và sự hiểu biết củamình về tình hình Đại Việt ra giúp cho nhà Minh hay cung cấp cho nhà Minh nhữngchỉ dẫn cần thiết để diệt nhà Hậu Trần. Tráilại, ông đã được trọng dụng, làm quan đến chức á khanh, công bộ tả thị lang vàđã được pháo binh Trung Quốc thời đó kính trọng đểsau này coinhư là thánh tổ của họ. Chưa hết, không lâutrước đó,năm 1385, thời Trần ĐếHiện, năm Xương Phù thứ 9, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục có ghi sứ thần Nhà Minh sang yêu cầu ta dâng nộp các nhàsư với các chi tiết như sau:

Trước đây, ta đưasang nhà Minh những hoạn quan là bọn Nguyễn (Tông) Đạo và Nguyễn Toán. Nhà Minh dùng họlàm chức nội quan, đối xử rấthậu. Nguyễn (Tông) Đạo nhân nói với vuaMinh rằng: Phép thuật sư Nam giỏi hơn sư Bắc (Trung Quốc). Đến đây, Minh sai sứ sang yêu cầu. Nhà vua saituyển lấy 20 vị sư đưa sang KimLăng.[17]

Chưa hết, năm sau, 1386,cũng nghe Nguyễn Tông Đạo nói nước ta có nhiều câyquý, Nhà Minh lại sai Lâm Bột sang yêu cầu dâng nộp. “Nhà vua lại saiviên ngoại lang là Phạm Đình đưa sang các cây : cau, vải, nhãn và mít, nhưng các cây ấykhông quen chịu lạnh , dọc đường, đều chết hết cả”. Sau đó “Nhà Minhlại sai Lý Anh sang hỏi nhờ đường nước ta để đi đánh Chiêm Thành vàđòi 50thớt voi nữa. Ta bèn sắp xếp từ Nghệ An đổ ra ,cứ theo dọc đường , dựng các cung trạm, chứa sẵn lương thảo, luânchuyển đưa đến Vân Nam”. [18]

Tưởng cũng nên biết thêm là do vị trí địa lý, ngay từ thời Bắcthuộc, Giao Châu đã là nơi Phật Giáo phát triển rất sớm và rấtmạnh. Các sư người Giao Châu như Mộc Xoa Đề Bà, Khuy Sung Pháp Sư, HuệDiêm Pháp Sư, Trí Hành Thiền Sư, Đại Thặng Đăng Thiền Sư... đã sangtận Ấn Độ, Tích Lan để học hỏi và nghiên cứu; Nhật Nam Tăng sang trụtrì một ngôi chùa trong hang núi bên Tầu và được thi hào Trương Tịchtặng thơ, Vô Ngại Thượng Nhân được thi hào Thẩm Thuyên Kỳ làm thơ đểtỏ lòng kính mộ. Phụng Đình Pháp Sư và Duy Giám Pháp Sư sang TrungQuốc giảng kinh trong cung vua Đường, khi về được thi hào Dương CựNguyên và Cổ Đảo làm thơ tiễn biệt. Nhận xét về những sự kiện này,Thượng Tọa Mật Thể viết:

Tăng gia Annam ma được sang giảng kinh ở cungvua cũng là một sự hiếm có, mà bấygiờ bên Trung Quốc đời Đường Phật giáo đương hồi thạnh, hẳn khôngthiếu gì cao tăng mà Tăng giàta được dự vào việc giảng kinh, kể cũng là một điều chứng nhận vẻvang cho lịch sử Phật giáoViệt Nam vậy. [19]

Đồng thời để giải thích sự phát triển này Thượng Tọa viết thêm:

Nước ta thời ấy làm trung gian cho Tàuvà Ấn Độ lại có cái lợi này: hồi ấy dân Chàm còn mạnh lại ở gần ta, họ lại dùng chữ Phạn làmvăn tự và thông hiểu cả tiếng Qua Oa(Java), nên ta cũng có nhiều người giao thiệp với họ,cũng hiểu hai thứ chữ đó. Bởi thếnhững người Tàu qua Ấn Độ và người Ấn Độ qua Tàu, khi tới Giao châu,thường tìm người nước ta làmthông ngôn hoặc cộng tác dịch kinh chữ Phạn. Như vậy ta không nên ngạc nhiên khi thấy nhiều kinh điển vềbản cựu dịch hoặc tân dịch đều dịch lần đầu tại Annam.

Nói cách khác, ngườiTàu luôn luôn có chính sách thu góp mọi thứ từ các xứ chungquanh về làm giàu cho xứ họ. Đối với họ, nước họ phải là nhất, các nước chungquanh không được phép hơn họ. Do đó cái gì có giá trị họ thu góp hết, trong đócó sự hiểu biết, có sách vở, có các sản phẩm nghệ thuật, có văn chương, thơphú... Thugóp và để nguyên như vậy hay sửa đổi đi nhưng tất cả đều phải trở thành di sảnvăn hóa riêng của họ, điều sau này họ tiếp tục làm, người Nhật cũng làm và ngườiMỹ, người Anh, người Pháp cũng làm; nhưng không thời nào, không người nào cómưu toan thâm độc và tàn bạo như người Tàu dưới thời nhà Minh xâm lăng Đại Việt.Hậu quả là từ sau thời Minh Thuộc, Người Việt không bao giờ có được nhữngvinh quang đáng nể đối với người ngoài, lòng tự tin và niềmhãnh diện cho chính mình như thời trước đó nữa.

Thay cho kết luận

Chuyện NhàMinh xâm lăng nước ta và cướp sách của ta đem về Tầu xảy ra cách đâyhơn sáu trăm năm bị nhiều người không cho là quan trọng. Thực sự đâylà một mưu toan vô cùng thâm độc của người Tầu nhằm tiêu diệt ngườiViệt mà người thường ít ai để ý đến, mà có để ý đến thì cũngkhó nhận ra và đã quá muộn. Nó nằm trong “Mưu Độc Ngàn Năm” với lời nguyền “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện gần hai ngànnăm trước và một lần nữa đã và đang trở thành một mốiưu tư và một đề tài vô cùng quan trọng cho những ai cònlưu tâm tới tiền đồ của đất nước và tương lai củacon cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàngtriệu người dân và chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến kéodài ba mươi năm vừa qua. Không lẽ tổ tiên mình đã thành côngbảo vệ được dân tộc, giữ vững được đất nước mà đến đời mình lạibất lực và để mất hay sao? Không lẽ Các Cụ Ta đã thành công dìm “Cộtđồng (của Mã Viện) chìm chín suối” và Hai Bà Trưng đã tạo dựng được “Bia đá rọi ngàn thu” [20]để sang thế hệ chúng ta, chúng ta lại ngồi yên để sẽ ngậm ngùi hátcho mình mình nghe:

Để lại cho em này nước non mình.
Để lại cho em một nước đẹp xinh.
Một miền oai linh hiển hách.
Chỉ còn dư vang thần thánh.
Để lại cho em hèn kém của anh [21]

thay vì:

Người sau, kẻ trước lao vào địch,
Giữ vững ngìn thu một giống nòi. [22]

hay sao? Xin để quý bạn đọc tùy nghi trả lời.

______________

Xin chú ý: Đây là bài thứ hai trong loạt bài tác giả viếtvề “Mưu Độc Ngàn Năm”của người Tầu nhắm vào Dân Tộc Việt Nam sau bài nóivề Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và Cột Đồng Đông Hán của Mã Viện ky trước.


[1] Dựa theo phần“Văn Tịch Chí”, trong Lịch Triều Hiến ChưongLoại Chí của Phan Huy Chú, các nhà san định bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục liệt kê các tác phẩm “mà ngườiMinh tịch thu mất” như sau:

Tên sáchSố quyển/bộTác giả/Soạn thời các vua

Hình Thư3 quyểnLý Thái Tông
Quốc Triều Thông Lễ10 quyểnTrần Thái Tông
Hình Luật1 quyểnTrần Thái Tông
Kiến Trung Thường Lễ10 quyểnTrần Thái Tông
Khóa Hư Tập1 quyểnTrần Thái Tông
Ngự Thi1 quyểnTrần Thái Tông
Di Hậu Lục2 quyểnTrần Thánh Tông
Cơ Cừu Lục1 quyểnTrần Thánh Tông
Thi Tập1 quyểnTrần Thánh Tông
Trần Triều Đại Điển2 quyểnTrần Dụ Tông
Trùng Hưng Thực Lục2 quyểnTrần Nhân Tông
Thi Tập1 quyểnTrần Nhân Tông
Thi Tập1 quyểnTrần Minh Tông
Thủy Vân Tùy Bút2 quyểnTrần Anh Tông
Bảo Hoà Điện Dư Bút8 quyểnTrần Nghệ Tông
Thi Tập1 quyểnTrần Nghệ Tông
Binh Gia Yếu Lược1 bộTrần Hưng Đạo
Vạn Kiếp Bí Truyền1 bộTrần Hưng Đạo
Tứ Thư Thuyết Ưóc1 bộChu Văn Trinh
Tiều Ẩn Thi1 tậpChu Văn Trinh
Sầm Lâu Tập1 quyểnUy Văn Vương


Trần Quốc Tuy (Toại)
Lạc Đạo Tập1 quyểnChiêu Minh Vương


Trần Quang Khải
Băng Hồ Ngọc HácTập 1 quyển Trần Nguyên Đán
Giới Hiên Thi Tập1 quyểnNguyễn Trung Ngạn
Hiệp Thạch Tập1 quyểnPhạm Sư Mạnh
Cúc Đường Di Thảo2 quyểnTrần Nguyên Đào
Thảo Nhàn Hiệu Tần1 quyểnHồ Tôn Thốc
Việt Nam Thế Chí1 bộHồ Tôn Thốc
Việt Sử Cương Mục1 bộHồ Tôn Thốc
Đại Việt Sử Ký30 quyểnLê Văn Hưu
Nhị Khê Thi Tập1 quyểnNguyễn Phi Khanh
Phi Sa Tập1 quyểnHàn Thuyên
Việt Điện U Linh Tập1 quyểnLý Tế Xuyên

Tất nhiên đây chỉ là những tácphẩm được tập trung lại thành sách. Chỉ cần đối chiếu với danh sách các tác phẩmđược Lê Quý Đôn ghi trong phần “Nghệ Văn Chí” thuộc tác phẩm Đại Việt Thông Sử người ta thấy còn nhiềusách khác đã bị mai một mà các cụ đã bỏ qua không ghi ra hết, chẳng hạn như Hoàng Tông Ngọc Diệp, 1 quyển, soạn nămthứ 17 đời Lý Thái Tổ (1026); Quốc TriềuThông Chế , 20 quyển,soạn trong thời Trần Thái Tông, Công Văn Cách Thức thời Vua Trần Anh Tông, năm 1299 , Nam Bắc phân Giới Địa Đồ, thời Vua LýAnh Tông, năm 1147… Còn nhiều tài liệu rời thuộc các sinh hoạt chính trị, hànhchánh, giáo dục, văn chương, thi ca… có giá trị khác cũng đã bị tiêu hủy hay bịQuân Minh lấy mất, tiêu hủy hay đem về Tàu. Xin xem thêm: Quốc Sử Quán TriềuNguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám CươngMục, Tập Một, bản dịch của Viện Sử Học, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân VănQuốc Gia. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1998, tr. 765-767; Lê Quý Đôn, Lê Quý Đôn Toàn tập, Tập III, Đại Việt ThôngSử,bản dịch ncủa Ngô Thế Long. HàNội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1978, tr. 103-113; Lệ ThầnTrần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Saigon: Bộ Giáo Dục,Trung Tâm Học Liệu, 1971, tr. 212-213.

[2] Trần Văn Giáp, Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm, Nguồn Tư Liệu VănHọc Sử Học Việt Nam, Tập II. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1990,tr. 26-30; Lại Nguyên Ân, Từ Điển Văn HọcViệt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1999, tr. 734-35.

[3] Phạm Cao Dương, “Chung quanh hai chữVăn Hiến trong bài Bình Ngô Đại Cáo củaĐệ Nhất Công Thần Triều Lê: Nguyễn Trãi”, trong Đại Học Văn Khoa Saigon, Tập I. Huntington Beach: Dòng Việt, 1999,tr. 77-80.

[4] Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, ViệnVăn Học, Thơ Văn Lý-Trần, Tập III. HàNội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1978, tr. 196.

[5] “Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng”, thơ TrầnNhân Tông (1258-1308), trong Ngô Tất Tố, Việt Nam VănHọc: Văn Học Đời Trần. Saigon, Khai Trí, 1960,tr. 189.

[6] Lời phê của Vua Trần Nhân Tông vềviệc Trần Anh Tông phong thưởng quá nhiều quantước. Nguyên văn:”Một nước to bằng bàn tay, mà sao lại có triềuban nhiều như thế này!” Khâm Định ViệtSử Thông Giám Cương Mục, đã dẫn, tr.589; Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, TậpII, bản dịch của Hoàng Văn Lâu. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1993,tr. 103-104.

[7] LêQuý Đôn Toàn Tập, Tập III, Đại Việt Thông Sử, “Nghệ Văn Chí” , bản dịch của NgôThế Long, đã dẫn, tr. 100-101.

[8] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, TậpMột, đã dẫn.

[9] Trần Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm. HàNội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Dân Tộc, Tạp Chí Văn Hóa Nghệ Thuật, 2000, tr.754-755.

[10] ThơVăn Lý-Trần, đã dẫn,Tập I, 1977, tr. 58.

[11] -nt-, tr. 58-59.

[12] Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư , năm Quang Thái thứ 5 thời Trần Thuận Tông,Hồ Quý Ly có dâng lên vua sách Minh Đạo gồmcó 14 chương trong đó ông đã đưa ra nhiều nhận định mới và độc đáo. Đại khái “ông cho Chu Công là Tiên Thánh, Không Tử làTiên Sư, ở Văn Miếu để Chu Công ở chính giữa, nhìn về phương nam, Khổng Tử ởphía bên, nhìn về phương tây, sách Luận Ngữ có bốn chỗ đáng ngờ, cho Hàn Dũ làđạo nho, cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Di, Dương Thi, La Trọng Tố, Lý Diên Bình,Chu Tử, tuy học rộng nhưng ít tài, không sát với sự việc, chỉ thạo việc cóp nhặtvăn chương người xưa.” Những nhận xét này bị Ngô Sĩ Liên cho là “khinh suấtbàn về ngài (Khổng Tử) thì thựclà không biết lượng sức mình. Ta không biết lý luận của Quý Ly là như thế nào vìsách này không còn nữa nhưng dù sao nó cũng chứng tỏ lối học của họ Hồ là cósuy nghĩ, phê bình chứ không máy móc, thụ động như sau này. Còn Vua Tự Đức thìcho rằng những nhận định này chưa phải đã hoàn toàn sai. Ngoài Minh Đạo, Quý Ly còn làm Quốc Ngữ Thi Nghĩa và viết bài Tựa để dạycho các cung nữ. Sáchnày cũng có điểm đặc biệt là tác giả phần nhiều đã chép theo ý mình chử khôngtheo tập truyện của Chu Tử. Đại Việt SửKý Toàn Thư, Tập II, đã dẫn, tr. 184-185, 190. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Chính Biên, Quyển Thứ XI, đã dẫn, tr. 688-689. – Chương Thâu, GópPhần Tìm Hiểu Nho Giáo – Nho Sĩ – Trí Thức Việt Nam Trước 1945.HàNội, Nhà Xuất Bản Văn Hóa – Thông Tin, 2007, tr. 42.

[13] 1292-1370. Ngoài vai trò của một sưbiểu của Việt Nam, Chu Văn An còn là tác giả của nhiều tác phẩm có giá trị trongđó có Tứ Thư Thuyết Ước, Tiều Ẩn Thi,Thanh Trì Quang Liệt Chu Thị Di Thư, Quốc Ngữ Thi, Thất Trảm Sớ.

[14] Tác giả khuyết danh đời Trần, Thế kỷXIV, Việt Sử Lược, bản dịch và chú giảicủa Trần Quốc Vượng. Hà Nội, Nhà XuấtBản Văn Sử Địa, 1960.

[15] Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh. Saigon: Nhà Xuất Bản Thành Phố HồChí Minh, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, tr.24.

[16] KhâmĐịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục,đã dẫn, tr. 755.

[17] - như trên -, tr. 671-172.

[18] - như trên -, tr. 673.

[19] ThượngTọa Mật Thể, Việt Nam Phật Giáo SửLược. Huế, Minh Đức, 1960,tr. 86 và các trang liên hệ.

[20] Trích thơ của Nhà Nho Đặng Văn Bá ,Thế Kỷ XX trước.

[21] Trích“Để Lại Cho Em”, Tâm Ca củ̉a Phạm Duy, Thập Niên 1960.

[22] Hoàng Cầm, Đêm Liên Hoan.