Quyển “Lịch Sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX” của giáo sư Lê Thành Khôi

Là môn sinh Gs Lê Thành Khôi, tôi rất cảm động và trân trọng công việc làm của ông Nguyễn Nghị. Dịch quyển Lịch sử Việt Nam của Gs Lê Thành Khôi không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng thú thật khi đọc bản dịch, tôi lấy làm thất vọng vì bản dịch quá nhiều lỗi. Công việc làm quá cẩu thả, nhiều trang bản dịch chỉ mới là bản nháp, quên cả việc bôi xóa những chữ sai nghi ngờ. Thế mà hai nhà xuất bản Nhã Nam và Thế Giới đứng tên, các ông Tổng Thư Ký nhà xuất bản không đọc lại, hai nhà xuất bản lẽ nào không có được một nhà văn làm biên tập viên để đọc lại văn chương chữ nghĩa. Văn của Gs Lê Thành Khôi trong bản tiếng Pháp, tuyệt tác, thật đẹp có học giả xem là ‘một tiểu thuyết lịch sử’, đọc lôi cuốn say mê, nhưng bản dịch ông Nguyễn Nghị thì nhiều câu trở nên ngược ngạo, khúc mắc, phản nghĩa, ngớ ngẩn, buồn cười! Có lẽ bản dịch ông đã giao cho nhiều học trò ông hay con cháu ông mới tập dịch, nhiều trang quá kém, trình độ bản dịch không đồng đều. Nhưng là người đứng tên dịch giả, ông phải có trách nhiệm cho danh tiếng mình, nhất là danh tiếng người đoạt giải thưởng dịch giả Phan Châu Trinh.

Đây là một tác phẩm kinh điển của những nhà nghiên cứu về Việt Nam trên thế giới. Quyển sách đầu tiên in năm 1955 được bổ túc tài liệu viết lại năm 1982 giới thiệu lịch sử và văn hóa Việt Nam trung thực, bằng tiếng Pháp, khác biệt với những tác phẩm các tác giả Pháp thời thuộc địa viết với quan điểm thực dân. Hầu hết mọi sách viết về Việt Nam, các luận án tiến sĩ nghiên cứu về Việt Nam trên các đại học các nước đều đọc và trích dẫn trong thư mục. Hơn nữa thế kỷ qua vẫn chưa có một tác phẩm nào viết hay hơn. Việc dịch tác phẩm Gs Lê Thành Khôi là một công việc muộn màng vì tình hình chính trị và giáo dục của Việt Nam có nhiều rào cản và có lẽ khó tìm ra người dịch thuật có đủ bản lĩnh để làm công việc này chăng? Từ những năm 1980 Gs Phan Huy Lê sang Pháp giảng dạy Việt Học tại Viện Đại Học Paris 7, tôi có dịp đưa anh đi chơi và tâm sự cùng anh, anh đã có ý định vận động dịch và xuất bản trong nước, đây là quyển sách anh đọc và chịu rất nhiều ảnh hưởng từ năm 1956 về phương pháp nghiên cứu và tính trung thực, thế mà gần 40 năm sau mới thực hiện được...

Đây không phải là việc làm Hoà giải hoà hợp dân tộc cho một ông người Pháp gốc Việt, như một người có trách nhiệm quan trọng đã viết trên báo Nhân Dân Điện Tử, hay một người tên tuổi xa lạ nào, mà một vị trách nhiệm trong báo Công An Nhân Dân điện tử kích bác mà không biết người đó là ai? Lời giới thiệu của Gs Phan Huy Lê và Gs Georges Condominas và tiểu sử trên sách bìa, lời mở đầu, người viết kích bác nhắm mắt không đọc? Không đọc không tìm hiểu Gs Lê Thành Khôi là ai, những câu phê phán để lộ những hiểu biết kém cỏi, ấu trĩ của mình ví dụ “Vua Hàm Nghi bị đày đi Algérie là sai, thực tế vua Hàm Nghi bị đày đi Phi Châu”, người viết cũng không biết tài năng kiến thức mình ra sao, sánh với một nhà văn hóa lớn Việt Nam được thế giới kính trọng. Tôi đã trả lời hai bài của ông Tiến Anh Hồng Quang và ông Phú Trường những điều các ông cho là sai lầm.

Giáo sư Lê Thành Khôi, một trí thức người Việt tại Pháp với 25 tác phẩm nghiên cứu khoa học đồ sộ, và 33 công trình đồng tác giả, và hàng trăm luận văn khoa học đăng tải trên nhiều tạp chí quốc tế, giáo sư Lê Thành Khôi đã một đời truyền bá văn hoá, lịch sử Việt Nam trên thế giới, giữ nhiều chức vị trong các Viện Đại Học Pháp, tư vấn cho các cơ quan Liên Hiệp Quốc, giáo sư được mời vào địa vị Chủ tịch, hàng đầu Hội Người Việt Nam tại Pháp, Hội Khoa Học Xã Hội Việt Nam tại Pháp từ những năm khó khăn nhất trong chiến tranh. Và càng cảm động hơn nữa, bao tài sản cả một đời thu thập cổ vật Việt Nam, Đông Á, gần 600 hiện vật giáo sư không giữ lại cho con cháu mà trao tặng hết cho Viện Bảo Tàng Việt Nam. Năm 2013 Giáo sư còn được trao giải Phan Chu Trinh..

Phong cách viết sử của Giáo sư Lê Thành Khôi có gì khác lạ với Ủy ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Ta thử đọc hai đoạn hai quyển Lịch sử Việt Nam cùng viết về Lê Chiêu Thống:

Quyển Lịch Sử Việt Nam của Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, nxb KHXH Hà Nội 1971 tr 349 viết:

“Bọn phong kiến phản động trong nước câu kết chặt chẽ với bọn cướp nước. Bè lũ Lê Chiêu-thống bám gót quân Thanh, trở về Thăng Long. Hắn được vua Thanh phong làm “An-nam quốc vương” nhưng chỉ là một tên bù nhìn ươn hèn, đốn mạt. Đối với quân thù thì bọn chúng quỵ lụy đến khốn nạn. Đối với nhân dân trong nước thì bọn chúng tàn nhẫn đến dã man. Dựa vào thế quân Thanh, chúng trả thù báo oán rất ti tiện và ra sức vơ vét thóc gạo, cướp bóc của cải để cung đốn cho hàng chục vạn quân xâm lược. Bộ mặt phản dân hại nước của bè lũ Lê Chiêu-thống đã bị lột trần...

Trước cảnh đất nước bị quân giặc dày xáo, nhân dân Bắc-hà sôi sục căm hờn. Tất cả mọi người dân yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn đều hướng về phía Tây-sơn và sẵn sàng tập hợp dưới lá cờ đại nghĩa của anh hùng Nguyễn Huệ.”


GS Lê Thành Khôi trong Lịch Sử Việt Nam, bản dịch Nguyễn Nghị, tr 380 viết:

“Lê Chiêu Thống đón đồng minh của mình tại Kinh Bắc và cùng tiến vào Thăng Long. Sau khi Lê Chiêu Thống lên ngôi, quân Thanh đóng binh xung quanh kinh đô và xử sự như tại một đất nước vừa chiếm được. Nhà vua bắt buộc phải ghi theo niên đại Càn Long, hoàng đế Mãn Thanh, trên các công văn của mình và hàng ngày phải đến trình diện tại trại của Tôn Sĩ Nghị. Bị hận thù làm mù quáng, Lê Chiêu Thống chỉ còn nghĩ tới việc trả thù các quan chức đầu hàng Tây Sơn mà không nghĩ đến những hành động quá quắt của quân Trung Quốc. Nhân dân từ một năm nay, điêu đứng vì bão táp và mất mùa, “không còn gạo để ăn, không còn nhà để ở”, đã xa dần nhà Lê. Cũng vậy, một số quan lại còn trung thành với nhà Lê khi ấy ý thức được rằng nhà vua đang phản bội tổ quốc. Họ không còn ủng hộ vua nữa, tuy nhiên vẫn không quay về với Tây Sơn... Như vậy, dưới sự áp bức của người Trung Quốc, trạng thái tâm lý đã biến chuyển một cách thuận lợi cho phía Tây Sơn.”


Không cần bình luận, với hai phong cách viết sử. Đã từ lâu nền giáo dục chúng ta chỉ biết một phong cách do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam viết. Ngành Sử học từ năm 1954 được hình thành bởi các ông Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Văn Tân, Đào Duy Anh, kiến thức sử học hoàn toàn tự học và giảng dạy đại học. Các vị là những nhân vật chính trị bị loại khỏi quyền lực, đành lấy mảnh đất Sử học để áp dụng chuyên chính vô sản. Cụ Đào Duy Anh cởi mở nhất lại vấp phải vụ án Nhân Văn. Từ năm 1956 trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử có một cuộc tranh luận giữa ông Văn Tân và Gs Lê Thành Khôi về Quang Trung và Gia Long ai thống nhất đất nước. Gs Lê Thành Khôi đưa ra chứng cứ năm 1789 khi Nguyễn Huệ đánh quân Thanh, Nguyễn Lữ đã bỏ chạy về Quy Nhơn, Nam Kỳ bị mất về tay Nguyễn Ánh từ cuối năm 1787. Ông Văn Tân không trả lời được đã kết án Gs Lê Thành Khôi là ‘sử gia tư sản.’

Giáo sư Phan Huy Lê trong lời giới thiệu đã viết:

Giáo sư Lê Thành Khôi “đã trình bày lịch sử Việt Nam bằng một quan điểm và phương pháp luận hiện đại. Tác giả quan niệm lịch sử không chỉ giới hạn trong lịch sử chính trị, lịch sử các vua chúa mà là lịch sử toàn diện bao gồm tất cả các lãnh vực của cuộc sống con người, từ kinh tế, xã hội cho đến các thiết chế chính trị, văn học nghệ thuật. Vì vậy viết lịch sử, ngoài các tư liệu chữ viết, còn khai thác tư liệu của nhiều ngành khoa học liên quan như khảo cổ học, bi ký học, tiền tệ học, dân tộc họcv, xã hội học, dân số học cho đến các ngành ngôn ngữ, kinh tế, chính trị, luật pháp... Tác giả cũng nhận thức sâu sắc, lịch sử không chỉ là một khoa học của quá khứ mà là một khoa học của thời hiện đại, góp phần giải đáp những vấn đề cuộc sống hôm nay, vì lợi ích của sự phát triển. Trên tầm nhìn mang tính toàn bộ của lịch sử, tác giả luôn luôn gắn sự phát triển của Việt Nam với lịch sử khu vực thế giới, nhất là với Trung Quốc, Đông Nam Á và Châu Âu.

Cuốn thứ hai nổi bật lên giá trị về tính cập nhật công tác tư liệu… Nhìn vào thư mục cuốn sách xuất bản năm 1982, có thể thấy ông đã sử dụng nhiều công trình nghiên cứu trong nước. Ông đã nghiên cứu kỹ những kết quả khoa học đó và vận dụng một cách chọn lọc vào công trình Histoire du Viet Nam, des origines à 1858. So với cuốn sách xuất bản năm 1955, nội dung của cuốn thứ hai đã có nhiều thay đổi theo hướng cập nhật và hiện đại.”


Khác với các quyển sử khác chỉ nói đến lịch sử Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ, quyển lịch sử của Giáo sư Lê Thành Khôi cho ta biết về lịch sử vùng đất miền Trung và miền Nam; lịch sử lập quốc của Chiêm Thành và các nền văn minh Phù Nam, Chân Lạp cùng các mối liên hệ với các dân tộc Đông Nam Á đến huyền thoại, chứng cứ khảo cổ về thời Hùng Vương, và lịch sử một ngàn năm Bắc thuộc. Ngược lại với ý kiến cho rằng nội dung sơ sài, quyển sử Gs Lê Thành Khôi thật phong phú về tài liệu và bao gồm nhiều ngành học thuật. Cũng nên nhắc lại là sử gia không phải là người sáng tác ra tư liệu sử học mà là người tổng hợp tất cả các công trình nghiên cứu có liên hệ đến lịch sử và chọn lọc, nhận định sáng suốt trung thực. Xem tất cả những trích dẫn và thư mục chúng ta có thể nhận ra được nguồn tài liệu phong phú của công trình sử học.

Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với chủ trương tại Việt Nam hiện nay cần phải cải cách sâu rộng việc giảng dạy môn sử học, từ viết lại sách giáo khoa, đến đào tạo giáo viên, giáo sư môn sử, để môn sử trở thành một môn Khoa học Xã Hội thật sự. Sử học cần tách rời ra khỏi Tuyên truyền. Với sự đúng đắn khoa học, Sử học có tính thuyết phục của nó, không cần phải to tiếng, chửi bới, văng nước bọt lên trang giấy.

Sách sử Gs Lê Thành Khôi đặt lại vấn đề dùng hai chữ ‘phong kiến’ để chỉ các triều đại Đinh Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn trong các sách sử, sách giảng dạy các bậc Phổ thông và Đại Học. Phong kiến dịch từ chữ ‘féodale’ có nghĩa là chế độ nhà vua cai trị dựa trên việc phong đất cho lãnh chúa. Thế thì Việt Nam không có ‘chế độ phong đất’ như Tây Phương, không có ‘nông nô’ làm việc cho lãnh chúa, cũng không có ‘một giai cấp quý tộc’. Thời Trần, tướng sĩ như cha con quân dân như ruột thịt, không ai có thể nói quý tộc Trần Hưng Đạo chỉ huy
nông nô Đại Việt’ đánh quân Nguyên Mông xâm lăng. Phật Giáo, Nho Giáo cũng không phải là một tôn giáo thần quyền như Thiên Chúa Giáo tại Tây Phương? Quan lại Việt Nam được tuyển qua các kỳ thi Tam Giáo hay Hương, thi Hội, thi Đình. Vài mươi người trên hàng ngàn, hàng vạn thí sinh. Người không thi đỗ trở về làng xóm dạy học hay hành nghề y, lý, bốc, số.. Bản thân giới Nho sĩ cũng chia hai, không thể gọi nho sĩ là một giai cấp. Không thể nhập cảng tội lỗi phong kiến Tây Phương vào để kết tội “giai cấp phong kiến bóc lột” tại Việt Nam, cũng không thể phân chia xã hội Việt Nam thời Lý, Trần thành quý tộc, tăng lữ và nông nô. Thời Lý Trần chỉ lo xây cất chùa mà không xây cất nhà tù, chỉ lo đào tạo tăng mà không đào tạo cai ngục. Người xưa trị nước bằng phòng bệnh hơn là chữa bệnh, nhà chùa là trường học, giáo huấn ngăn ngừa tội phạm, không đợi xã hội loạn lạc rồi mới trị tội, xử án, lưu đày. Phật Giáo đã cấu kết vời Triều đình Lý Trần không phải để bóc lột nông nô mà làm cho xã hội Đại Việt đạo đức, tươi sáng lành mạnh theo con đường Chánh Đạo... Viết sử không phải là việc làm ca tụng các cuộc khởi nghĩa nông dân và chửi bới ‘giai cấp phong kiến’. Hai chữ ‘phong kiến bóc lột’ từng được đem ra để kết án các cụ Nghè Nho học những năm 1956 vùng Thanh, Nghệ,Tĩnh, đến Quảng Bình khi một cơn lốc trào lưu tư tưởng trên thế giới thổi qua đất nước: nhiều cụ Nghè bị án tử hình, nhiều cụ chết trong tù như cụ Nghè Nguyễn Mai cháu 5 đời thi hào Nguyễn Du. Ai bảo bàn tay dịch giả đầu thế kỷ 20 không nhuốm máu, việc dịch sai lầm một từ ngữ có thể gây nên một thảm họa không lường được cho đời sau?

Sách sử Gs Lê Thành Khôi, khơi mở nhiều vấn đề lịch sử chưa được tìm hiểu ví dụ vấn đề sự suy vong của Chiêm Thành, Chân Lạp.

Các sách sử Việt Nam xưa nay cũng không nhắc đến lịch sử lập quốc của Chiêm Thành, Chiêm Thành từng là một nước giàu có thịnh vượng, được nhiều sử liệu ca ngợi, các sử gia cũng không nói đến nền văn minh sáng chói của Angkor. Mãnh đất miền Trung của Chiêm Thành, mãnh đất miền Nam từng là đất của các vương quốc hùng mạnh Phù Nam, Chân Lạp , thương mại họ phát trìễn thương thuyền họ từng buôn bán với các nước Á Rập, Ấn Độ, La Mã... Nguyên nhân nào các nền văn minh ấy sụp đổ. Angkor từng là một kinh đô gần một triệu dân, một “New York” của thế giới, từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 15. Thành quách đền đài rực rỡ trang trí bằng vàng, bằng đá quý, có đền đã dùng đến 65 tấn vàng. Đền Angkor Vat. Sử thi khắc trên đá hàng cây số trên bốn mặt cung thành, vách đền. Chiêm Thành là vương quốc thế nào mà đem quân đánh sụp cả nền văn minh Chân Lạp. Phải dùng bao nhiêu sức để biến Angkor thành hoang vu? Chưa kể Chiêm Thành ba lần đem quân đánh Thăng Long. Đánh bại đoàn quân 200 000 người của Đại Việt, vua Trần Duệ Tông tử trận? Chiêm Thành từ một vương quốc Phật Giáo đã chuyển sang Hồi Giáo như thế nào? Ảnh hưởng Hồi Giáo trong các cuộc xâm lăng đó ra sao? Những nơi Hồi Giáo đi qua, là cuộc thánh chiến tôn giáo, vùi lấp các nền văn minh Ai Cập, chiếm các Thánh địa Thiên Chúa Giáo, chiếm đóng Hy Lạp, Tây Ban Nha hằng mấy thế kỷ, đến các thánh địa di tích Phật Giáo tại Ấn Độ, các nhà sư lớp bị giết, lớp phải chạy trốn khỏi nước. Hồi Giáo chiếm đến Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân. Hồi Giáo từ khi lập đạo đã truyền bá bằng thánh chiến, bằng thanh gươm, ai không theo bị chém đầu, họ có truyền đạo qua Chiêm Thành trong hòa bình, bằng những trao đổi thương mại, bằng hôn nhân chăng? Lý do nào các Trung tâm Phật Giáo: Đồng Dương, Mỹ Sơn, Thập Tháp Di Đà bị tàn phá? Tạ sao ngày nay tại vùng miền Trung khi đào đất nông dân thường bắt gặp các tượng Phật được chôn dấu. Tại Ai Cập, Hồi Giáo vấp phải sự chống cự trong suốt 4 thế kỷ thế thì tại Chiêm Thành, Hồi Giáo có thể nhanh chóng biến đổi vương quốc Phật Giáo Chiêm Thành trong một thời gian ngắn? Tìm hiểu về xã hội Chăm, người ta chỉ nói đến thành phần theo Hồi Giáo, và thành phần theo đạo Bà La Môn, thế thì những người Phật Giáo Chăm đi đâu? Chúng ta hoàn toàn thiếu những tài liệu về xã hội Chiêm Thành từ lúc họ du nhập Hồi Giáo. Theo tôi các Chúa Nguyễn sỡ dĩ đứng vững được ở Đàng Trong vì đã được người Chăm theo Phật Giáo là đa số dân Chăm ủng hộ, sau khi bị Hồi Giáo đàn áp, cưỡng bức, đàn áp, tiêu diệt. Các cuộc chiến tranh đánh Đại Việt, đánh Chân Lạp của Chiêm Thành mang màu sắc các cuộc thánh chiến Hồi Giáo được sự trợ giúp của các nước Á Rập, đã làm suy kiệt nước Chiêm Thành. Các Chúa Nguyễn đã chinh phục phương Nam không bằng sự diệt chủng, không bằng vũ lực, mà bằng đạo đức, từ bi, nhân hòa của Phật Giáo. Đó là lý do các Chúa Nguyễn sùng đạo Phật được tôn sùng là Chúa Sãi (là vua các vị sư), chúa Hiền. Người theo đạo Phật đã gọi người Hồi Giáo là dân Hời, là người theo đạo Hồi. Đó là lý do người Hời ngày nay chỉ còn một thiểu số vài chục ngàn người. Người Việt đồng bằng Bắc Bộ thường quyến luyến làng mạc, suốt thời Trịnh Nguyễn cũng chẳng có một biến cố nào trong lịch sử, thiên tai hay chiến tranh người Việt phải bỏ làng quê vào Nam, như năm 1954. Người Việt Bắc Bộ ít ai có ý chí phiêu lưu đi xa quê hương, chỉ có các ông đồ Nghệ là những người đi khắp nước, làng mạc nào cũng có các ông đến mở trường dạy học, làm thuốc, đó là một trong những lý do chính tiếng Việt được phổ biến, trở thành tiếng nói cả nước. Đưa lịch sử Chiêm Thành, Phù Nam và Chân Lạp vào lịch sử Việt Nam, Giáo sư Lê Thành Khôi đã khơi mầm cho chúng ta những hướng nghiên cứu và việc làm tương lai một Việt Nam trong Đông Nam Á.

Đọc lịch sử Việt Nam, ‘gáy’ quá to về cuộc Nam Tiến, người Việt Nam học sử có cảm tưởng tổ tiên mình đã diệt chủng hàng triệu dân Chiêm Thành, Chân Lạp để mở mang xứ sở. Người Việt tiến vào chốn không người, sau khi đã tiêu diệt Chiêm Thành và Chân Lạp?. Nhưng đâu là dấu vết của cuộc diệt chủng đó, có đào ra những hố xương tập thể nào chăng? Có những địa danh nào mang dấu vết như núi Đầu Lâu ở Trung Quốc, tướng Bạch Khởi nhà Tần giết bốn trăm ngàn quân Triệu.? Nếu tìm ra dấu vết thì người Việt Nam phải xin lỗi tội diệt chủng một dân tộc trước lịch sử nhân loại. Nếu không tìm thấy thì người Việt Nam phải viết lại lịch sử về cuộc Nam tiến. Khi chúa Nguyễn Hoàng đến Thuận Hóa người Việt ở trước đó không đến 100 000 dân, đi theo chúa Nguyễn Hoàng không đến 5000 người vùng quê hương Tống Sơn, Thanh Hóa gốc tích chúa Nguyễn. Gần 250 năm Trịnh Nguyễn phân tranh, sông Gianh, Lũy Thầy làm biên giới. Số người vượt qua lũy Thầy như Đào Duy Từ cũng hiếm hoi. Có lần quân Đàng Trong thắng trận bắt được 30 000 quân Trịnh chia đều cho mỗi làng xã được 5 người, thì không thể gọi bao nhiêu đó người Việt đã sinh sản ra đến hàng chục triệu người Đàng Trong. Phần lớn những gia đình tại miền Nam truy nguyên nguồn gốc đến chín, mười đời đều xuất phát từ vùng Bình Định, Phú Yên tức là những vùng đất cũ của Chiêm Thành. Nếu các chúa Nguyễn diệt chủng tàn ác thì tại sao nhân dân gọi là chúa Hiền, chúa Sãi? Tại sao các Chúa Nguyễn sùng đạo Phật? nếu nhân dân Chiêm Thành ai cũng theo Hồi Giáo hết thì chúa Nguyễn làm sao sống được? Lịch sử Việt Nam chưa soi sáng: Phật Giáo đã vượt qua khỏi tầm nhìn chủng tộc, triều đại để thống nhất các dân tộc Việt, Chiêm. Người Việt Nam thuộc hệ ngôn ngữ Môn-Khmer đã tìm lại được nguồn cội anh em chủng tộc mình?

Quyển Lịch sử Việt Nam của Gs Lê Thành Khôi, tổng hợp một kiến thức đa dạng phong phú, đánh dấu việc mở cửa về phương diện sử học sau 30 năm mở cửa đổi mới về kinh tế. Tôi đồng ý với Gs Ngô Bảo Châu, quyển Lịch Sử Việt Nam của Gs Lê Thành Khôi cần thiết cho mỗi gia đình Việt Nam.

Khác với việc dịch một tiểu thuyết, dịch nột tác phẩm nghiên cứu khoa học, đòi hỏi người dịch có một kiến thức chuyên môn tương tự. Giáo sư Lê Thành Khôi là một sử gia uyên bác, một nhà luật học, một nhà kinh tế học, một nhà giáo dục học, được đào tạo từ Viện Đại Học Sorbonne danh tiếng hàng đầu nước Pháp, một nhà văn, một nhà thơ từng xuất bản thơ bằng tiếng Pháp từ những năm học trường Trung Học Albert Sarraut Hà Nội. Giáo sư còn là một nhà Hán Học tốt nghiệp trường Ngôn Ngữ Đông Phương Paris.

Tôi rất hiểu và cảm thông với những nỗi khó khăn anh Nguyễn Nghị khi làm công việc này cũng như hai nhà xuất bản Nhã Nam và Thế Giới trong điều kiện: mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, phóng viên đi hàng tuần mới tìm thấy một người Việt Nam trong thành phố cầm quyển sách. Việt Nam mua được tàu ngầm hàng tỉ đô la, nhưng không tổ chức nỗi một hệ thống thư viện đọc sách miễn phí cho nhân dân, cho trẻ em từ thành phố đến làng xã. Việc nâng cao dân trí của cụ Phan Chu Trinh từ đầu thế kỷ 20, còn là một giấc mơ xa vời, dù các viện Đại Học được mọc ra như nấm, Việt Nam có thành tích đào tạo được nhiều Tiến sĩ, thạc sĩ.. dù người Việt Nam rất nhiều nhà đại tư bản đang lên, rất nhiều người dân có điện thoại di động đời mới nhất. Nước ta trong hoàn cảnh hiện nay lẽ ra dịch thuật phải được nhà nước nâng đỡ để nhanh chóng phổ cập những kiến thức thế giới, như nước Nhật đã làm từ thời Minh Trị Thiên Hoàng, Hàn Quốc đã làm những năm 1960. Nhưng nước ta chưa nhận ra tầm quan trọng của việc đó. Dịch sách nước ta vẫn là công việc ‘ăn cơm nhà vác ngà voi ’, người giỏi ngoại ngữ đi làm hướng dẫn viên du lịch, tiền bạc thong thả, còn dịch sách chẳng lợi lộc gì so với công sức bỏ ra. Sách đã in ra chữ viết, lỗi sơ sót rành rành khó tránh khỏi búa rìu dư luận. Nhưng tìm ra một dịch giả toàn hảo không dễ gì có. Đọc bản dịch anh Nguyễn Nghị tôi thấy có một sự biến chuyển từ đầu đến cuối sách. Phần đầu đầy lỗi đần dần đã khá hơn. Người dịch xong một quyển sách đã mệt mỏi, có khi mờ mắt không còn thấy hết những lỗi lầm. Người hiệu đính là anh Nguyễn Thừa Hỷ lại không nhìn thấy hết những sơ sót đó. Người đứng ngoài cuộc đánh cờ có khi sáng nước hơn. Do đó tôi không dám gọi là làm việc phê bình bản dịch anh Nguyễn Nghị viết, mà chỉ xin góp ý cùng anh để bản dịch được hoàn hảo trong lần xuất bản tới.

Giáo sư Lê Thành Khôi đã lớn tuổi, năm nay đã trên 94 tuổi, tôi xin thay mặt giáo sư làm công việc rà soát lại những sơ sót trong bản dịch. Mong rằng nhà xuất bản và dịch giả sẽ kiểm soát lại và thực hiện một bản dịch hoàn hảo hơn trong lần xuất bản tới. Với một đất nước 94 triệu dân trong nước và bốn triệu người tại hải ngoại nhu cầu cần đọc một quyển sách sử căn bản, khoa học đứng đắn, ấn bản phải đi đến hàng trăm ngàn bản như các nước, chứ không phải là vài ngàn bản.

Nhìn chung những lầm lẫn anh Nguyễn Nghị:

- Các danh từ Phật Giáo phần lớn anh dịch đều sai lạc.

- Các tên gọi địa danh bằng tiếp Pháp, nên thay bằng tiếng Việt như sông Mê Kong là sông Cửu Long.

- Các danh từ dùng trong thời đại quân chủ, không nên thay thế bằng những danh từ hiện đại. Các tên Lầu Ngũ Phụng, Nguyệt Minh môn, hay Nhật Quang môn, chữ Hán Việt ai cũng hiểu có cái cổ kính của ngày xưa, làm phong phú thêm cho tiếng Việt, không cần dịch ra thành Lầu năm chim phượng hay Cổng đền mặt trăng, Cổng đền mặt trời…

- Những danh từ luật Hồng Đức, luật Gia Long nên tham khảo lại các bộ luật bằng tiếng Việt. Các danh từ từ tiếng Việt Gs Lê Thành Khôi dịch ra tiếng Pháp phải thích nghi cho người Pháp hiểu, khi dịch lại tiếng Việt phải trả lại nguyên chữ. Không nên dịch tội bất hiếu thành tội thiếu lòng hiếu thảo.

- Nhiều câu văn dịch chưa thông suốt, cần thiết một nhà văn xem lại bản thảo.

- Các trang viết về dân số, dịch giả và nhà xuất bản có thể chú thích cập nhật những số liệu thống kê mới nhất.

- Những khám phá mới nhất về thời nhà Mạc nên cộng tác với một nhà sử học trong ngành để ghi thêm một chú thích ngắn gọn.

Sau đây chúng tôi xìn nhặt sạn những sơ sót, những trang tôi lướt mắt qua. Vì quá nhiều không thể nhặt hết việc này quá khuôn khổ một bài báo.

Trang 16: chữ faibles profondeurs dịch là độ sâu không lớn nên dịch: không sâu.

L’Ère Secondaire:Thời Đệ Nhị Kỷ dịch là Đại Trung Sinh không đồng nhất với Đệ Nhất Kỷ, Đệ Tam Kỷ, Đệ Tứ Kỷ. Trias: là Tam Điệp tầng, một tầng thuộc Đệ Nhị Kỷ. Dịch là Tam Điệp Kỷ không đúng.

Trang 21. Thay sông Mékong bằng sông Cửu Long. Tên Mékong ngày nay là tên quốc tế, nhưng trong lịch sử Việt Nam nên dùng tên của người Việt Nam: sông Cửu Long. Mũi Varella là Mũi Đại Lãnh bỏ chữ Mũi Điện, Mũi Kê Gà.

Tr 23: ‘Ngoài tiếng kêu của mấy con khỉ’ xin chữa lại: ‘ngoài tiếng khỉ kêu.’

Tr 25: gió phơn (foëhn): gió ấm mùa xuân.
Cô đặc hóa trên dãy núi Trường Sơn xin chữa lại: ngưng tụ trên dãy núi Trường Sơn.

Cap Pandara: là Mũi Dinh bỏ các chữ khác.

Trang 29: Rừng Trường Sơn phát triển với sức mạnh của nhựa cây. Les forêts de la Chaine Annamique croissent avec plus de puissance de sève. Xin chữa lại: Rừng dãy Trường Sơn mọc tràn đầy nhựa sống.

Câu: Những cây dương sỉ hình quạt tắm trong sự trong suốt của thứ nước dưới mặt biển có điểm chút bụi nắng. Des souples éventail des fougères baignant dans une clairté sousmarine à peine poudrée de soleil. Xin chữa lại: Những cánh quạt mềm cành dương sỉ như tắm trong ánh sáng trong suốt dưới biển xanh điểm chút bụi nắng.

Câu: Rẫy là loại ruộng nhất thời không nước do đốt rừng mà có. Le Rẫy est le champs temporaire non irrigué, gagné par l’ incendie sur la végétation spontanée. Xin dịch lại: Rẫy là cánh đồng tạm không được dẫn nước, ngẫu nhiên mà có do cháy rừng.

Trang 30: loại hòa thảo lớn, chẳng ai hiểu hòa thảo là gì xin chữa lại các loại mía, bắp.

Tr 54: Canh trừng: faire la police de ses membres xin chữa lại: Kiểm soát.

Trang 132 ‘Bích quan’ xin chữa lại là Bích quán (là thiền định quay mặt vào vách).. Bouddha bản dịch để nguyên chữ Pháp, xin dịch là Bụt Đà, hay Phật Đà. Chữ Bụt Đà có trước, do các nhà sư Tây Trúc trực tiếp truyền vào Giao Châu, trong truyện Tấm Cám, Bụt hiện ra.

Trang 133: câu: Les Sui félicitent les religieux par des présents magnifiques et ordonnent d’ériger à côté du temple Pháp Vân désigné comme “terre pure” du Giao, le stûpa Hòa-phong pour y conserver des reliques du Bouddha. Dịch như sau: Nhà Tùy tưởng thưởng các vị danh tăng lễ vật và ra lệnh xây tháp Hòa Phong bên cạnh chùa Pháp Vân được chỉ định là
đất tinh sạch’ của Giao Châu để lưu giữ Phật tích. Terre pure: trong ngôn ngữ thường dùng là cõi tịnh độ. Reliques du Bouddha là xá lợi Phật. Phật tích là bốn nơi: nơi Phật đản sinh vườn Lâm Tỳ Ni, nơi Phật Thành đạo: Bồ Đề đạo tràng, nơi Phật chuyển Pháp luân thuyết pháp đầu tiên Vườn Lộc Uyển, và nơi Phật nhập niết bàn. Do đó nên dịch: Nhà Tùy tưởng thưởng cho các danh tăng các phẩm vật quý báu và cho xây bên cạnh chùa Pháp Vân được xem là cõi Tịnh độ đất Giao Châu, ngôi tháp Hòa Phong để lưu giữ xá lợi Phật.

Ký ức về các vị Cao tăng, xin chữa lại đúng tên sách là Cao tăng truyện.

Trang 134 câu: il arrive sous l’arbre bodhi, au Temple de la Grande Intelligence, il adore tous les vestiges saints avant de mourir. Dịch là: đến Bồ Đề Đạo trường cúng dường xá lợi Phật trước khi viên tịch. Động từ adorer có nghĩa là chiêm bái, còn cúng dường có nghĩa là tặng thức ăn, tịnh tài, y phục cho chư tăng. Xin dịch lại: ông đến dưới cây Bồ Đề, nơi tháp Đại Giác, ông chiêm bái hết các Phật tích trước khi viên tịch.

Trang 134 dòng 9. Supérieur Vô Ngại dịch là Thượng nhân Vô Ngại, xin chữa lại là Hoà Thượng Vô Ngại. Tiếng Việt không gọi ai bằng ‘thượng nhân’ cả.

Trang 147: Tội thập ác: tội thứ 10: tội thứ 1à tội bất hiếu, do tiếng Pháp không có chữ bất hiếu nên chỉ có thể dịch là: le manque de piété filiale, nếu dịch lại là thiếu lòng hiếu thảo thì không đúng là tội thứ 10 trong Thập ác, do đó cần biết luật ngày xưa nước ta để dịch lại là: tội bất hiếu.

Trang 168. Lòng dân thốt lên tiếng thở dài, xin dịch gọn lại lòng dân thán oán.

Sư Vạn Hạnh thuyết phục những người này, xin dịch sư Vạn Hạnh thuyết phục triều đình.

169. Thái tử hợp pháp là Phật Mã xin dịch Thái tử nối ngôi là Phật Mã.

172: Ở đáy thang xã hội nô tỳ không được phép cưới phụ nữ tự do xin chữa lại là phụ nữ thường dân.

Trang 178. Quốc sư Thông Biên xin chữa lại là Quốc sư Thông Biện.

Trang 179 Hoàng hậu Dương xin chữa lại là Dương hoàng hậu.

Lòng trung tín con người bị nhấn chìm xin chữa lại là chìm đắm.

Trang 180: Bốn kỳ công, An Nam tứ Đại Khí: bình Phổ Minh xin chữa lại là đỉnh Phổ Minh

Trang 181 câu: Khuê Văn Các gợi lên nhóm sao Khuê được các nhà Nho yêu thích. Khuê Văn Các évoque la constellation Khuê honorée des lettrés xin chữa lại Khuê Văn Các tượng trưng chòm sao Khuê vinh danh các nho sĩ. Bên kia có lan can bao quanh một bể nước vuông Thiên Quang tỉnh.

Trang 182 câu: le pagode Thiên Phúc dédiée au bonze magicien Từ Đạo Hạnh dịch là dâng kính pháp sư Từ Đạo Hạnh, xin chữa lại: chùa Thiên Phúc thờ pháp sư Từ Đạo Hạnh.

Câu: ‘La peinture n’a laissé que les tableaux ruspestres de Thiên Khê (Tuyên Quang) daté du 11è siècles. Ils représentent des groupes de bouddhas entourés d’ assistants et de dragons’ dịch là Trong lĩnh vực tranh vẽ thì chỉ còn lại những bức khoét trong đá ở Thiên Khê (Tuyên Quang). Các bức tranh vẽ các nhóm Bouddhas các trợ lý và rồng chung quanh. Xin dịch: Tranh vẽ còn lại những bức vẽ trong động đá ở Thiên Khê ( Tuyên Quang). Các bức tranh vẽ Phật, các Bồ Tát và rồng chung quanh.

Loài hoa của sự khôn ngoan trong Phật Giáo xin chữa lại: loài hoa tượng trưng cho trí tuệ trong Phật Giáo.

Một lạc thú mà các thời đại sau không biết đến xin viết lại: Một vẻ đẹp mà các thời đại sau không tìm thấy.

Câu: Tantôt se dessine un génie joueur de flutte, volant dans sa robe onduleuse, tantôt s’avance un noble cavalier, au milieu de parasols et de bannnières. Dịch: Khi thì là một nghệ sĩ thổi sáo bay trong chiếc áo gợn sóng, khi thì một kỵ sĩ quý phái tiến lên giữa lọng và cờ. xin dịch lại: Khi thì vẽ một thần tiên thổi sáo bay trong chiếc áo gợn sóng, khi thì một quan trạng cỡi ngựa đi trong cờ lộng.

Trang 181 thời điểm của tháp xin chữa lại: thời điểm xây dựng của tháp. Hốc thờ xin chữa lại là trang thờ. Dâng kính các thần ruộng và rừng xin chữa lại là: thờ cúng thần ruộng và thần rừng.

Câu: Khuê văn các évoque la constellation Khuê honorés les lettrés, dịch: Khuê văn các gợi nên nhóm sao Khuê được các nhà nho yêu thích. Sao Khuê là chòm sao tượng trưng cho văn học, nên dịch: Khuê văn các tượng trưng chòm sao Khuê, vinh danh các nhà nho.

Trang 183: tượng nhỏ bằng bột nhuyễn, đôi khi phết véc ni. Xin chữa lại: tượng nhỏ bằng đất sứ mịn, đôi khi được tráng men.

Trang 194: Vua Cao Tông vẫn tiếp tục cuộc sống trụy lạc với các bà vợ, dịch đúng nhưng nghe thì giống như phim chưởng Hồng Kong dịch: ‘cái thằng hoàng tử đi cua gái,’ xin chữa lại là: với các cung phi. Hạ gục các địch thủ xin chữa lại: đánh bại các địch thủ.

Trang 201: Vua Trần Nhân Tông xưng hiệu là Trúc Lâm cư sĩ xin chữa lại là Trúc Lâm Đầu Đà.

Trang 203: chữ công chức xin chữa lại là quan chức. Bộ máy bàn giấy của nho sĩ , xin chữa lại là bộ máy quan lại. Quan chức nhà nước xin chữa lại là quan lại triều đình. Quốc học viện xin chữa lại là Quốc tử giám. Những danh từ dùng cho xã hội hiện đại không nên gán vào thời đại quân chủ.

Trang 204: Lý Tế Xuyên, sưu tập những tiểu dẫn xin dịch lại: sưu tập những thần phả, hay truyện tích các thần.

Trang 208: Miếu Đồng Cổ xin chữa lại là Đền Đồng Cổ. Con hát xin chữa lại là cô đầu hay ca nương.

Trang 201: cửa Đoan Củng xin chữa lại là cửa Đoan Cung.

Trang 210: Di chuyển tốc độ của những bóng ma. Có ai đo được tốc độ những bóng ma! xin chữa lại: di chuyển nhanh chóng như những bóng ma.

Trang 214 câu: Xác này gói trong da ngựa, xin dịch lại cho đúng thành ngữ: da ngựa bọc thây.

Trang 227: Ngô Bệ qui, retranché sur une colline du Hải Dương, fit afficher partout des panneaux proclammant: Secours aux pauvres. Bàn dịch là: Ngô Bệ... nổi dậy trưng biển. Người xưa khi nổi dậy không có biểu ngữ hay trưng biển, mà viết chủ trương mình trên lá cờ đuôi nheo, vì vậy nên dịch là xin sửa lại: nổi dậy dựng cờ: cứu giúp dân nghèo.

Trang 230: bureau médical: dịch là Y Ty thay vì Y Tỳ.

Trang 237: mò trai dưới đáy đại dương ở Tiên Yên và Vân Đồn. Đáy đại dương mà mò trai được thì quá ghê gớm, xin bỏ chữ đáy Đại Dương.

Trang 250: Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần. xin chữa lại: Khi Chí Linh lương hết mấy tuần.

Trang 251: Lê Lợi là một đại địa chủ xin chữa lại Lê Lợi là một phú hào.

Trang 252: (HdV tr 216) Vous êtes du pays Viêt, descendant de lettrés. Comme les Hô n’avaient pas de vertu, les Chinois ont occupé notre territoire.. Or, le Ciel ayant pitìé de notre peuple, se sert de mon bras pour le sauver, frapper le coupable et restaurer notre patrie. dịch thành: Các khanh vốn là người Việt phương Tây, dòng họ mũ áo cân đai. Bỗng gặp họ Hồ thất đức, giặc Ngô lăng loàn… Thượng đế thương xót nhờ tay ta thay trời làm việc.. giúp dân trị kẻ có tội, khôi phục cơ đồ. Xin chữa lại: Các khanh vốn là người Việt, dòng dõi nho gia. Họ Hồ thất đức, giặc Ngô xâm lăng… Lòng Trời thương xót dân ta, nhờ tay ta cứu giúp, trị kẻ có tội, khôi phục giang sơn.

Trang 255: chính trị bàn giấy xin chữa lại: sự thắng thế hệ thống chính trị quan liêu.

Trang 256 câu Mường Lễ dựa vào đèo để nổi cơn táo bạo. Xin dịch lại: tại Mường Lễ dựa vào đèo núi hiểm trở để nổi dậy.

Trang 261 Phạm Trọng Diem xin chữa lại Phạm Trọng Điềm.

Trang 281 câu. C’est dans un bois sacré, séparé du village de Lam Sơn par un long canal que s’élèvent des tumulus aujourd’hui envahis par le brousse. dịch: Những nấm mộ ngày nay phủ trảng mọc lên trong một khu rừng linh thiêng, có con kênh dài tách khu mộ khỏi làng Lam Sơn. Xin dịch lại cho đúng: Trong khu rừng linh thiêng cách làng Lam Sơn bởi một con kênh đào, những nấm mộ cao ngày nay bị tràn ngập bởi cây hoang dại.

Trang 285 câu l’impuissance d’ouvrir la voie de lulle seigneurnales. Dịch: Sự bất lực của họ đã mở đường cho những cuộc vật lộn giữa các vương hầu. Xin dịch lại: Sự bất lực mở đường cho cuộc tranh chấp các vương hầu.

Trang 303 chữ: aigrette du monde dịch là chỏm lông của thế giới xin dịch là viên ngọc của thế giới.

Trang 305: Các huyện Tống Sơn xin bỏ chữ các.

Trang 340 phái Tào Đông xin chữa lại phái Tào Động.

Chùa Amitabha mười tháp xin chữa lại là: chùa Thập Tháp Di Đà (Bình Định)

Trang 341. Câu: Đa số những người kế vị ông đều là tín đồ Phật Giáo ngoan đạo. Các ngài chính thức mang một tên nhập đạo. Xin chữa lại: Đa số những người kế vị ông đều sùng đạo Phật. Các vị đều quy y pháp danh Tam Bảo.

Trang 342. (HdV tr293): Câu: Thiên Nam Đệ Nhất Động. Elle attire les plus grands poètes de l’époque qui y formèent un cérnacle dont les vers furent gravés sur des stèles dịch: Nơi đây tập họp những thi sĩ lớn nhất của thời đại làm thành một nhóm có thơ khắc trên bia đá.. Mỗi người đến chơi, làm thơ riêng rẽ, thơ khắc trên bia đá tạo thành một tao đàn thơ. xin dịch lại Thiên Nam Đệ Nhất Động lôi cuốn những thi sĩ lớn nhất thời đại, tạo thành một tao đàn thơ khắc trên bia đá.

Người đầu tiên được phong chức Sư trưởng. Xin chữa lại: Người đầu tiên được phong chức Tăng Thống.

Trang 381. Nguyễn Huệ cho dựng một bàn thờ. Bàn thờ chỉ dùng trong nhà riêng. Xin chữa lại: Nguyễn Huệ cho dựng một lễ đàn.

Trang 382. Tôn sĩ Nghị giết người trưởng đoàn. Xin chữa lại: Tôn Sĩ Nghị giết Chánh sứ.

Trang 384 Quang Trung còn biết kích bác lòng kiêu căng của Tôn Sĩ Nghị. Chữ kích bác làm nghĩa câu văn trở nên ngược ngạo. Xin chữa lại là kích thích lòng kiêu căng.

Trang 387. trong tập Phú Tây Hồ xin chữa lại: trong bài Phú Tây Hồ.

Trang 388 Hàn lâm viện xin chữa lại cho đúng tên là Sùng Chính Viện.

Phạm Thái sáng tác bài thơ Sơ Kính Tân Trang xin chữa lại là truyện thơ Sơ Kính Tân Trang.

Trang 390. Bùi Đắc Tuyên chú của Quang Toản xin chữa lại là cậu của Quang Toản.

Trang 392: Công chức dân sự, quân sự. Công chức là danh từ mới ngày nay, thời chế độ quân chủ chưa có khái niệm công nên dùng: viên chức

Trang 395: Thành thực mà nói xin chữa lại Thật ra

Trang 398: une cérémonie au temple: dịch là: một nghi lễ tại miếu hiệu xin chữa lại là: một nghi lễ tại triều miếu.

Trang 423. Lầu Năm Phượng Hoàng xin chữa lại cho đúng tên là Lầu Ngũ Phụng. Cổng đền Mặt trời, cổng Đền Mặt Trăng, xin chữa lại đúng tên là Nhật Quang Môn, Nguyệt Minh Môn.

Trang 503 Câu Phe chống đối đại thắng dưới triều đại Toàn quyền Merlin xin chữa lại Phe chống đối thắng thế dưới thời Toàn quyền Merlin.

Đó chỉ là một số trang, một số lỗi trong sách, nếu hai nhà xuất bản cần làm việc này, tôi sẵn sàng giúp nhà xuất bản và dịch giả để công việc được hoàn hảo trong lần xuất bản tới. Tóm lại bản dịch quyển Lịch Sử Việt Nam của Gs Lê Thành Khôi, ông Nguyễn Nghị cần đọc lại và làm việc nhiều hơn nữa để xứng đáng là người được giải thưởng Phan Châu Trinh về dịch thuật.