Nền giáo dục VNCH – Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng

Quyên Di

Tôi là người Hà Nội. Gia đình di cư vào Nam năm 1954, lúc đó tôi chừng 6 tuổi. Khi vào Nam, tôi theo một trường tiểu học là cơ sở mới của trường Bàn Cờ, đó là trường Phan Đình Phùng. Từ năm 1955, Chính phủ Ngô Đình Diệm đã đặt ra tiêu chuẩn rất rõ ràng về nền giáo dục Việt Nam Cộng Hoà. Tôi được hưởng nền giáo dục ấy.

Có ba điểm để định hướng cho nền giáo dục Việt Nam Cộng Hoà (VNCH). Đó là: Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng. Có nghĩa là học gì thì học, điều đầu tiên là Con Người. Điều thứ hai là Dân Tộc: Các triều đại thay thế, tiếp nối nhau cai trị đất nước, rồi cũng tan thôi. Như triều đại Nhà Lê được yêu mến nhất, vài trăm năm cũng hết, theo đảng phái theo chính trị thì không có bền được. Dù triều đại thay đổi nhưng dân tộc là trường tồn (ngay cả khi không còn mảnh đất nữa). Điều thứ ba là Khai Phóng, là mở rộng ra, tiếp thu những cái mới, nhiều tư tưởng khác nhau. Rất nhiều nhà văn nhà thơ ở miền Bắc rất hay, như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, họ không vào miền Nam được do hoàn cảnh này nọ, nhưng ở miền Nam chúng tôi vẫn được học như thường chứ không có gì trở ngại hết. Những tư tưởng Âu, Á, Mỹ, chúng tôi cũng đều được học.

Bất kỳ nền giáo dục nào, không chỉ có ở Việt Nam, nếu có được ba định hướng: Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng thì đó là nền giáo dục tốt.

Hệ thống giáo dục dưới thời VHCH có trường công (chính phủ) và trường tư (tư nhân), đều được tôn trọng như nhau. Trường tư được mở bởi giáo hội Công Giáo được gọi là Trường Đạo. Điều này cho thấy dưới chế độ VNCH, các tôn giáo lãnh tránh nhiệm khá lớn về mặt giáo dục. Lý do Giáo hội Công giáo lập trường là vì dân số ngày càng đông, hệ thống trường công của chính phủ không đủ chỗ cho học sinh.

Về các cấp lớp, tiểu học là từ lớp Năm, lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì, lớp Nhất. Nếu so sánh bây giờ thì là lớp Một, lớp Hai, lớp Ba, lớp Bốn, lớp Năm.


Một lớp tiểu học ở Saigon. (Hình tư liệu: Wikipedia).

Trung học thì có Đệ Thất, Đệ Lục, Đệ Ngũ, Đệ Tứ, Đệ Tam, Đệ Nhị, Đệ Nhất. Đệ Thất là lớp Sáu bây giờ. Ở kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp (cuối lớp Đệ Tứ) còn có thi vấn đáp, thi nhiệm ý. Đỗ hay không đỗ cũng đều được lên lớp Đệ Tam; nhưng ở trường tư, ai đỗ Trung học Đệ Nhất Cấp là được quyền đi dạy học trường tư. Ngay cả đi xin việc làm cũng được, nếu có cái bằng.

Lớp Đệ Tam gọi là ‘lớp dưỡng lão’ bởi vì không có thi cử gì hết. Đệ Tứ, Đệ Nhị và Đệ Nhất thì học xong đều phải đi thi. Học xong lớp Đệ Nhị thi Tú Tài I, xong lớp Đệ Nhất thi Tú Tài II là các kỳ thi Toàn Quốc, rất khó. Mỗi nơi có một Hội đồng thi, và có một vị là chánh chủ khảo rất nghiêm chỉnh. Thi đỗ Tú Tài I thì mới được lên lớp Đệ Nhất tức lớp sau đó sẽ thi Tú Tài II. Dù thi đỗ, nhưng cũng có nhiều bậc, Tối ưu, Ưu, Bình, Bình thứ, và Thứ. Đỗ vớt là có đỗ đấy, nhưng với sự khoan hồng của ban giám khảo.


Các nữ y tá tốt nghiệp tại Nhà thương Chợ Rẫy. Hình chụp năm 1971 (Wikipedia).

Thi Tú Tài có mấy môn như: Quốc Văn, Sử, Toán, Lý Hóa, Sử Địa, Công dân giáo dục, Ngoại ngữ thì được quyền chọn: Anh, Pháp, Cổ ngữ Latin (hoặc là tiếng Phạn). Hồi ấy có chia làm bốn ban: Ban A (Sinh vật học), Ban B (Toán), Ban C (Văn chương), Ban D (Cổ ngữ).

Ở Tú Tài II, môn Quốc Văn được thay bằng môn Triết Học gồm ba phần: Luân Lý Học, Đạo Đức Học, và Tâm Lý Học. Đến 1974, trường mở môn Quốc Văn trở lại.

Các trường Đại học dưới thời VNCH có Đại học Y Khoa, Dược Khoa, Kiến Trúc, Sư Phạm thì phải thi vào. Đặc biệt nếu học Sư phạm thì sẽ có phụ cấp, nên hồi đó rất nhiều người thi vào trường Đại học khác nhưng ghi tên thêm vào Sư Phạm để sau này có thêm phụ cấp.


Tòa nhà hành chính của Viện đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất miền Nam Việt Nam, thời Việt Nam Cộng Hòa. Hình chụp năm 1961. (Wikipedia).

Trường Luật Khoa, Khoa Học, Văn Khoa không phải thi, tất cả sinh viên vào đều học y như nhau, chưa học chuyên ngành.

Năm “Dự Bị Văn Khoa” thì có Triết Đông, Triết Tây, Ngoại ngữ, Văn chương, Quốc văn, Hán văn. Qua đến năm thứ hai mới được chọn chuyên ngành, như Văn Chương Quốc Âm, Văn Chương Việt Hán, Văn Minh Việt Nam, Ngữ Học Việt Nam, Sử Địa, v.v….

Luật Khoa thì không có năm nhất, năm hai, mà gọi là Cử nhân một, Cử nhân hai, Cử nhân ba. Cuối năm thứ tư, thi đỗ thì là Cử nhân Luật. Xong ghi tên vào học thêm ngành luật, rồi mới ra Luật Sư tập sự.


Đại học Văn khoa. Hình chụp qua YouTube.

Hồi đó có Viện Đại Học Sài Gòn (trường công), Đại học Huế (trường công) – Viện Trưởng là Linh Mục Cao Văn Luận, Đại học Đà Lạt (trường Đại học Công Giáo) nhưng được chính quyền công nhận bằng cấp ngang với các đại học khác; Đại học Vạn Hạnh (Phật Giáo) ở Sài gòn, Đại học Cần Thơ (trước là Viện Đại học Cần Thơ). Viện Đại học Minh Đức có một chút hướng về Phương Đông (Y khoa). Đại học Minh Đức nổi tiếng có ban Kinh Thương (Kinh Tế – Thương Mại).

Để trở thành Cô giáo, Thầy giáo thì phải học ra từ trường Sư Phạm. Đó là với trường công, còn ở trường tư thì không cần qua Sư Phạm, miễn có bằng cấp về chuyên môn nhất định, được Bộ Quốc gia Giáo dục và Nha Tư Thục cho phép dạy từng bậc, và được nhà trường tín nhiệm người đó thì được dạy thôi.


Đội ngũ giáo sư vừa tốt nghiệp đại học Sư phạm Sài Gòn (Hình tư liệu – Internet).

Nếu dạy học ở bậc tiểu học gọi là Giáo viên, Trung học gọi là Giáo sư Trung Học, Đại Học là Giáo sư hoặc Giảng sư Đại Học.

Trước 1975, muốn học trường công thì hơi khó, phải giỏi mới vào được, vì có thi tuyển. Ở cấp tiểu học thì không cần thi tuyển, dù nhà ở xa hay gần trường đều được vào học, không cần theo học khu. Nhưng sau khi học xong tiểu học thì phải thi xét tuyển vào bậc trung học. Những môn thi gồm có: Toán, Quốc Văn, Địa Lý, Lịch Sử và một vài môn nữa được tự chọn để lấy thêm điểm, như Nữ Công Gia Chánh, Hát, Vẽ….

Sau khi xong bậc tiểu học, tôi vào trường công để học trung học, nhưng thi hoài không đỗ, nên bố mẹ gửi vào trường Đạo. Đó là trường Nguyễn Bá Tòng. Nguyễn Bá Tòng là tên của người Việt Nam đầu tiên được phong chức Giám mục. Sau 1975, trường Nguyễn Bá Tòng được đổi tên là trường học cấp ba Bùi Thị Xuân, tọa lạc tại quận Nhất, Sài Gòn.


Trường Nguyễn Bá Tòng (Wikipedia).

Tôi học chuyên ngành Ngữ học Việt Nam, nhưng vào vấn đáp phải đến lần thứ hai tôi mới đậu. Người đánh trượt tôi là Linh Mục Lê Văn Lý – Linh Mục đầu tiên trình luận án về Ngữ Học Việt Namở đại học Sorbonne, Pháp. Dù rất thân thiết, nhưng Ngài vẫn không nương tay.

Bên Đại học Văn Khoa có giáo sư Lê Trung Nhiên, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn KhắcHoạch (là ba vị khoa trưởng tôi còn nhớ tên). Còn bên Đại học Luật Khoa có những Giáo sư nổi tiếng như Vũ Văn Mẫu, Lê Đình Chân, Vũ Quốc Thúc, đều là những Giáo sư chấm điểm rất khó.

Hồi đó, không phải dễ mà có bằng Tú tài I và Tú tài II, mà phải đậu Tú Tài 2 mới được ghi danh Đại Học. Nhiều khi giáo sư ở Sài Gòn được gửi về miền Trung làm chánh chủ khảo để có sự thanh liêm, không thể hối lộ. Nói vậy, chứ không một chỗ nào có sự thanh liêm 100%, vẫn có người hối lộ này nọ, nhưng hiếm lắm. Mà nếu bị khám phá thì rất xấu hổ.

Tôi tốt nghiệp năm 1970, khi chưa xong Cao học thì được mời lên làm phụ tá giám đốc ban Tu Thư Viện Đại học Đà Lạt (sách giáo khoa, chương trình học).


Bộ sách giáo khoa (Ban Tu Thư – Wikipedia).

Năm 1974, tôi được đề cử dạy môn Quốc Văn lớp Mười Hai, vì năm đó Bộ Quốc Gia Giáo Dục quyết định đưa môn Quốc Văn lên dạy trên lớp Mười Hai, bên cạnh môn Triết Học, và đó cũng là năm duy nhất cho thi Tú Tài lối trắc nghiệm, khoanh A, B, C. Hồi đó tôi cũng… “tham tiền”, dạy học để kiếm ít tiền phụ mẹ. Tôi dạy một tuần 48 tiếng, sáng bốn tiếng, chiều bốn tiếng, buổi tối tôi dạy luyện thi (được 2 năm), thứ bảy cũng dạy luôn.

Đến năm 1975 thì mọi thứ thay đổi, đất nước thay đổi, cuộc đời ‘Thầy giáo Quyên Di’ cũng có nhiều thay đổi, nhưng một trong những điều không đổi, là sau bao năm bôn ba, Thầy lại đứng trên bục giảng.

‘Thầy giáo Quyên Di’ là tên gọi thân thương mà cộng đồng Little Saigon gọi ông – giảng sư dạy tiếng Việt của Khoa Văn hóa và Ngôn ngữ Á Châu tại Đại Học UCLA và cũng là giảng sư dạy tiếng Việt của trường CalState Long Beach, California.