Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long

Chương 13: Tôn Thất Hội, Trần Văn Học, Vũ Viết Bảo, những người giúp vua Gia Long trong việc đắp thành đất Gia Định và Diên Khánh

Theo bản đồ in ở trang 184 và trang 229, trong cuốn Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, do Nguyễn Đình Đầu sưu tập và vẽ lại, ta thấy thành Bát quái Gia Định, còn gọi là thành Qui, nằm trong khung vuông giới hạn bởi các đường Lê Thánh Tôn, mặt tiền, Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng), mặt hậu; Nam Kỳ Khởi Nghiã (Công Lý) và Đinh Tiên Hoàng.

Hai cửa Tiền trên đường Lê Thánh Tôn: Cửa Càn Nguyên mở trông ra đường Đồng Khởi (Tự Do) và Ly Minh mở trông ra đường Ngô Văn Năm hiện nay.

Hai cửa Hậu trên đường Nguyễn Đình Chiểu: Cửa Khảm Hiểm mở ra đường Phạm Ngọc Thạch và Khôn Hậu mở ra đường Mạc Đĩnh Chi.

Hai của Tả trên đường Đinh Tiên Hoàng: Cửa Chấn Hưng mở ra đường Nguyễn Trung Ngạn và Cấn Chỉ mở ra sân banh Hào Thành.

Hai cửa Hữu trên đường Nam Kỳ Khỏi Nghiã: Cửa Tốn Thuận mở ra đường Lý Tự Trọng và Đoài Nguyệt mở ra đường Võ Văn Tần

(Theo Nguyễn Đình Đầu, Điạ lý lịch sử TPHCM, in trong Điạ chí văn hoá TPHCM, nxb TPHCM, 1987, t.180-181).

Chợ Bến Thành nằm trên bờ chỗ gặp nhau của hai sông Bình Dương và Bến Nghé. Những người ngoại quốc đến đây, cập bến chợ đầu tiên, nên có cảm tưởng như vào một thành phố cảng sầm uất.

Thành Bát quái hay thành Qui là thành đất, đắp tháng 3-4/1790, đầu năm 1791 sửa lại (Thực lục, I, t. 268). Đến năm 1829, “[Lê Văn] Duyệt lại nghĩ Gia Định là trọng khẩn Nam Kỳ, bèn tâu xin thuê dân đánh đá ong, cấp thêm tiền gạo và lấy cả dân đinh, xây đắp thành hào cao rộng thêm lên để phòng thủ cho nghiêm. Vua [Minh Mạng] nghe cho làm. (Liệt truyện, II, t. 426). Vậy có thể hiểu là Lê Văn Duyệt xây thêm lớp thành đá ong bên trong, và đào hào sâu hơn.

Năm 1833, Lê Văn Khôi, bộ hạ cũ của Lê Văn Duyệt nổi loạn, giết bố chính Bạch Xuân Nguyên là kẻ tham tàn, chiếm thành Gia Định (lúc đó vua Minh Mạng đã đổi tên là Phiên An), đánh phá các tỉnh miền Nam. Quân triều đình vây thành Phiên An gần ba năm không hạ được. Vì sự kiên cố ấy, mà Lê Văn Duyệt bị buộc tội “xây thành cao, đào hào sâu” có ý tự trị một cõi. Năm 1835, khi hạ được, Minh Mạng ra lệnh phá thành cũ và xây thành mới, nhỏ hơn, gọi là thành Phụng. Quyết định này có do hai lý do: thành Qui đã bị hư hại nặng nề sau gần ba năm bị tấn công và vua Minh Mạng muốn phá một biểu tượng nội loạn.

Thành Phụng nằm trong khung bốn con đường: Nguyễn Du, mặt tiền, Nguyễn Đình Chiểu, mặt hậu, Nguyễn Bỉnh Khiêm, mặt tả và Mạc Đĩnh Chi, mặt hữu. (Nguyễn Đình Đầu, bđd, t. 212). Thành Phụng sẽ bị liên quân Pháp Y Pha Nho chiếm (sau khi thất bại ở Đà Nẵng, không thể vượt đèo Hải Vân để chiếm Huế, bèn xuống chiếm Sài Gòn), Rigault de Genouilly đã cho nổ mìn phá sập tháng 2/1859.

Trong chương 12, chúng tôi đã chứng minh Le Brun và Puymanel không thể là tác giả xây các thành Gia Định và Diên Khánh, vì hai chứng từ mà người Pháp đưa ra để biện minh cho việc này không thể đứng vững được.

Các sử gia triều Nguyễn lại rất kiệm lời, nói thực vắn tắt, có lẽ vì cho đó là việc không quan trọng, các quan chỉ thi hành nhiệm vụ của mình. Cho nên phải dò kỹ mới tìm thấy vài câu, ghi trong Liệt truyện:

- Năm Canh Tuất (1790), mùa xuân, [Tôn Thất] Hội đắp thành đất ở Gia Định” (Liệt truyện II, Tôn Thất Hội, t. 77), Nguyễn Quốc Trị là người đầu tiên tìm thấy câu này.

- Năm Canh Tuất (1790), đắp thành Gia Định, [Trần Văn] Học nêu đo phân đất và các ngả đường (…) Năm Nhâm Tý (1792), làm đồn Mỹ Tho, Học dâng bản đồ, cách thức, Học vẽ giỏi, phàm làm đồn lũy, đo đường sá, vẽ bản đồ, nêu dấu, đều do tay cả (Liệt truyện II, Trần Văn Học, t. 282).

Đó là về thành Gia Định và thành Mỹ Tho.

Về thành Diên Khánh, cũng chỉ có mấy chữ vắn tắt:

- Năm Quý Sửu (1793) (…) Hội cùng đạo binh hợp lại bao vây [Quy Nhơn], giặc có quân cứu viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp thành Diên Khánh” (Liệt truyện II, Tôn Thất Hội, t. 78).

- “Mùa hạ năm Quý Sửu, [Vũ Viết Bảo] theo đi đánh Quy Nhơn, đến khi về đắp thành Diên Khánh, vua sai Vũ Tính [Võ Tánh] ở trấn, cho Bảo làm cai đội coi thuyền Kiên súng doanh Bình Khang. (Liệt truyện II, Vũ Viết Bảo, t. 321)

Vì những câu ngắn ngủi như thế, cho nên không mấy ai tìm ra tên những người phụ trách xây đắp các thành này, khiến người Pháp tha hồ ba hoa về thành tích của hai vị binh nhì, binh nhất Puymanel và Le Brun khi họ mới đào ngũ, đặt chân đến nước Việt.

Vậy chúng ta cần biết những người phụ trách việc xây đắp các thành trì này là ai?

Tôn Thất Hội (1757-1798)

Theo Liệt truyện, ông là con thứ ba cai đội Tôn Thất Thắng. Năm 18 tuổi, ông theo Định Vương Nguyễn Phước Thuần vào Gia Định (1775), tiếp đó ông theo Nguyễn Ánh, hai lần chạy sang Xiêm, làm tới chức đại tướng, Chưởng dinh Hậu quân.

Năm 1787, anh em Tây Sơn bất hoà, Nguyễn Ánh từ Xiêm về chiếm lại Gia Định. Trong những trận đánh quyết liệt năm 1788-1789, Tôn Thất Hội giữ vai trò chủ chốt:

Mùa thu năm Mậu Thân (1788), đại binh đến đóng ở Tam Phụ. Hội cùng Vũ Tính [Võ Tánh] đánh giặc ở Ngũ Kiểu, lấy đèn lồng sắt đốt vào sách [?] của giặc, giặc sợ tan vỡ cả. Bắt sống được không biết đâu mà kể. Bèn nhân thế được, tiến sát đến Sài Gòn, đánh phá được Thái bảo của giặc là Phạm Văn Tham chạy đến giữ Ba Thắc [Sóc Trăng]. Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) Hội điều khiển quân các đạo cùng bọn Vũ Tính đánh giặc ở Hổ Châu. Tham sức kém bèn đầu hàng. Lại cùng Nguyễn Văn Trương đánh dẹp bọn lũ còn lại của người Man Ốc Nha Ốc. Tân Hợi (1791), bổ làm Chưởng Tiền quân doanh [Chưởng dinh Tiền Quân]. Năm Quý Sửu (1793) thăng Khâm Sai Bình Tây Đại tướng quân, tước quận công (Liệt truyện, II, t. 78).

Năm 1797, Nguyễn Vương đi đánh Quy Nhơn, “để Hội ở lại trấn Gia Định. Uy lịnh nghiêm túc, trong cõi yên lặng. Mùa đông năm Mậu Ngọ [1798] bị bệnh chết, tuổi bốn mươi hai [Liệt truyện ghi tuổi ta, tức là 41 tuổi tây] Thế Tổ rất thương tiếc, tặng là Nguyên phụ công thần, Thượng phụ quốc Chưởng doanh.” [Liệt truyện, II, t. 79).

Nhìn lại công trạng của các quan theo Nguyễn Ánh từ thời lưu vong ở Vọng Các, Tôn Thất Hội đứng hàng đầu: “Hội là người nghiêm trọng, kính giữ lễ độ, công cao mà không khoe, ngôi tôn mà càng khiêm tốn, mỗi khi vào chầu ra mắt đi đứng có chỗ thường, ăn mặc như nhà Nho, các tướng đều kính mà sợ. Lê Văn Duyệt từng bàn về điều được điều hỏng của các tướng, bảo rằng: Tống Viết Phước hăng mạnh mà không có mưu, Nguyễn Văn Thành có mưu mà ít hăng mạnh. Duy Hội trí dũng gồm đủ, thật là bậc danh tướng. (…). Năm [Gia Long] thứ 16 vua thấy Hội là người huân nghiệp danh vọng rõ rệt đừng đầu các bề tôi đời trung hưng, cho phụ tế ở Võ Miếu. (Liệt truyện, II, t. 80).

Là người trong hoàng tộc, Tôn Thất Hội hay Nguyễn Phước Hội hơn vua 5 tuổi, chưa biết ngôi thứ trong họ thế nào. Ông đã trưởng thành khi phải bỏ kinh đô vào Nam, nên có đủ thời gian để học hỏi hơn Nguyễn Ánh (lúc đó mới 13 tuổi). Ông có đủ khả năng của một vị tướng văn võ kiêm toàn, cho nên Lê Văn Duyệt, vốn rất cao ngạo, mới có những lời như trên về ông.

Điều này giải thích lý do tại sao vua trao cho ông đặc trách trông coi xây đắp hai thành trì lớn nhất thời đó, là Gia Định và Diên Khánh.

Việc đắp thành Diên Khánh thì như sau: mùa hạ năm 1793, Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn theo đường thủy, Tôn Thất Hội tiến công mặt bộ. Liệt truyện ghi: “Đại binh vào cửa biển Thị Nại; Hội từ Hà Nha, Cù Mông chia làm hai đường đến đánh úp tên Bảo là con ngụy Nhạc ở Thổ Sơn, Bảo thua chạy về thành Quy Nhơn. Hội cùng đạo binh họp lại để bao vây, giặc có quân cứu viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp thành Diên Khánh. (Liệt truyện, II, t. 78). Cũng chỉ vỏn vẹn có mấy chữ! Thực là trái ngược với sự huênh hoang của người Pháp về huyền thoại Puymanel và Le Brun xây thành Gia Định và Diên Khánh!

Ta có thể hiểu Tôn Thất Hội là tướng kiêm việc công chánh, một loại “kỹ sư trưởng” có trách nhiệm cao nhất, nhưng người phụ tá đắc lực của ông trong việc xây đắp thành Gia Định là Trần Văn Học.

Trần Văn Học

Liệt truyện có ghi tiểu sử Trần Văn Học, nhưng chúng tôi thấy Nguyễn Đình Đầu tham khảo thêm Nghiêm Thẩm và Thái Văn Kiểm, rồi đúc kết lại, đầy đủ hơn:

Trần Văn Học sinh quán ở Bình Dương (tức Sài Gòn) từng theo Bá Đa Lộc, biết quốc ngữ, La tinh và tiếng Tây dương. Sau Lộc giới thiệu Học làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ánh đã cử Học theo hoàng tử Cảnh sang Pháp; nhưng đến Pondichéry có trục trặc, Học trở về. Trần Văn Học phụ trách việc dịch sách, nhất là sách kỹ thuật Thái tây cho Nguyễn Ánh. Đồng thời Hoc kiêm cả chế tạo hoả xa, địa lôi và các hạng binh khí. Đến năm 1790, xây thành Bát quái, Trần Văn Học phụ trách việc phác họa đường xá và phân khu phố phường. Sau đó cùng với Vannier, Học điều khiển việc đóng tàu đồng theo kiểu mới [Liệt truyện ghi: cùng Vannier trông coi chiếc thuyền lớn bọc đồng, theo quan quân đánh giặc]. Năm 1792, Học vẽ xong họa đồ thành Mỹ Tho. Học rất có tài vẽ địa đồ và họa đồ kỹ thuật. Đem so sánh bản đồ Sài Gòn 1799 của Dayot với bản đồ Gia Định 1815 của Trần Văn Học thì, về kỹ thuật đồ bản như trắc địa hay tỷ lệ, bản đồ sau chính xác hơn bản đồ trước nhiều. Hình như Trần Văn Học đã vẽ hầu hết các thành trì và công sự phòng thủ ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Ta có thể coi Trần Văn Học là người Việt Nam đầu tiên đã biết vẽ bản đồ điạ lý và đồ hoạ kỹ thuật theo phương pháp Tây phương (Nguyễn Đình Đầu, theo Nghiêm Thẩm, Nguyễn Văn Học hay Trần Văn Học? trong Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, 1961, số 61, t. 532 và Thái Văn Kiểm, Qui était Trần Văn Học trong BSEI, số 4, 1962, t. 441, bđd, t. 190). Như chúng tôi đã nói trong bài trước, những tên: Bản đồ thành Bát quái của Le Brun 1795Bản đồ Sài Gòn 1799 của Dayot trong bài của Nguyễn Đình Đầu đều phải xem lại, vì Le Brun bỏ đi năm 1791 và Dayot trốn đi năm 1795.

Vũ Viết Bảo

Thành Diên Khánh có thể đã xây theo quy mô thành Gia Định do Trần Văn Học đo đạc và vẽ đồ thị, nhưng thu nhỏ lại; Vũ Viết Bảo là người phụ tá, tự học qua kinh nghiệm thực tiễn.

Ông người gốc Thanh Hoá, tổ tiên theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá. Năm 1775, ông theo Định Vương Nguyễn Phước Thuần vào Nam và được bổ vào đội quân của Đỗ Thanh Nhơn. Có lẽ chính vào thời gian này ông đã học cách đóng tàu chiến với Đỗ Thanh Nhơn. Về việc Đỗ Thanh Nhơn đóng tàu, Trịnh Hoài Đức viết:

Cây sao có 4 thứ, thứ hảo hạng có cả trăm thước ta, sớ gỗ bền chặt, dùng làm ghe thuyền, nhà cửa thì tốt nhất, có lệnh cấm dân gian không được dùng (…) Tháng 7 năm Canh Tý (1780)… vua sai quân đến nguồn Quang Hoá đốn gỗ để làm thuyền chiến. Ở nguồn Quang Hoá có cây sao lâu đời, ban đêm thường thấy có lửa sáng như hai cây đèn, người dân miền núi đều kính sợ mà tránh (…) quân không dám đốn. Đỗ Thanh Nhơn ra lệnh đốn, người nào trốn thì bị xử theo quân pháp (…). Thanh Nhơn mới sáng chế đóng thuyền chiến, làm bánh lái dài để đi đường biển yên ổn, nhưng vẫn để bánh lái tròn khi trước để dùng khi đi đường sông, gọi là thuyền hai bánh lái, phiá trên gác sàn chiến đấu, hai bên treo phên tre để che cho thuỷ binh ở dưới chuyên lo chèo chống, trên thì bố trí bộ binh để xung kích, nhờ vậy mà kỷ xảo của thuỷ sư càng tinh nhuệ, đến nay [khoảng 1820] cũng vẫn theo. (Gia Định Thành thông chí, Vật sản chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, điện tử).

Những tàu chiến có hai bánh lái để đi biển và đi sông này, đã được Montyon mô tả trong tác phẩm của ông, mà chúng tôi đã chép lại trong chương 7 viết về Montyon.

Trở lại với Vũ Viết Bảo, ông may mắn được gần gụi những tướng tài, sau Đỗ Thanh Nhơn, ông lại ở dưới quyền Nguyễn Văn Khiêm, một người giỏi về pháo binh và xây dựng thành luỹ: Năm 1805 “xây dựng xã miếu, cung điện, hoàng thành, Khiêm đều dự coi công việc. Mùa đông năm ấy, Khiêm trông coi đúc 9 cỗ súng lớn” (Thực lục, II, t. 233).

Vũ Viết Bảo chuyên về hoả pháo và xây thành luỹ. Năm Nhâm Tý (1792), dưới quyền Nguyễn Văn Khiêm, lập công ở trận Thị Nại, đốt thuyền Tây Sơn. Năm Quý Sửu (1793), ông theo Tôn Thất Hội đi đánh Quy Nhơn, nhưng vì Tây Sơn có tiếp viện, phải rút về đắp thành Diên Khánh với Tôn Thất Hội. Năm Kỷ Mùi (1799) ông được gọi về Gia Định, coi hai đội Chấn Uy nhất và Chấn Uy nhị kiêm phó quản các thuyền trung hầu tiến đánh Quy Nhơn; rồi ông lại theo Lê Văn Duyệt đắp các đồn Thạch Tân và Sa Lung, để chặn quân tiếp viện của Tây Sơn. Tháng 7/1799 Võ Tánh hạ được thành Quy Nhơn, ở lại trấn thủ, Vũ Viết Bảo quản lý thuyền bè và trông coi súng ống ở bốn cửa thành. Khi Trần Quang Diệu vây Quy Nhơn, Võ Tánh mở cửa thành ra đánh, Vũ Viết Bảo điều khiển súng hoả xa bắn lui quân địch. Năm 1802, được triệu về kinh thăng chức Thuộc nội Cai cơ, sau này sẽ được thăng Thị nội Thống chế. Chiến tranh chấm dứt, ông tiếp tục trông coi việc súng ống, đến năm 1806, dự vào việc sửa đắp kinh đô Huế. (Theo Liệt truyện, II, Vũ Viết Bảo, t. 320-321).

Lược sử thành Gia Định

Trịnh Hoài Đức viết:

Trấn Gia Định xưa có nhiều ao đầm, rừng rú, buổi đầu thời Thái Tông (Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), sai tướng vào mở mang bờ cõi, chọn nơi đất bằng rộng rãi, tức chỗ chợ Điều Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho Thống suất tham mưu trú đóng, lại đặt dinh Phiên Trấn tại lân Tân Thuận ngày nay, làm nha thự cho các quan Giám quân, Cai Bạ và Ký lục ở, được trại quân bảo vệ, có rào giậu ngăn cản hạn chế vào ra, ngoài thì cho dân chúng trưng chiếm, chia lập ra làng xóm, chợ phố. Nơi đây nhà ở hỗn tạp, đường sá chỗ cong chỗ thẳng, tạm tuỳ tiện cho dân mà chưa kịp phân chia sửa sang cho ngăn nắp. Chức Khổn súy thay đổi lắm lần cũng để y như vậy. Đến mùa xuân năm Ất Mùi (1775), đời vua Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) thứ 11, xa giá phải chạy đến trú ở thôn Tân Khai. Mùa thu năm Mậu Thân (1788), năm thứ 11, buổi đầu đời Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) Trung hưng, việc binh còn bề bộn, ngài phải tạm trú nơi đồn cũ của Tây Sơn ở phiá đông sông Bình Dương để cho nghỉ quân dưỡng dân. Ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất thứ 13(1790), tại chỗ gò cao thôn Tân Khai thuộc đất Bình Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen… (Gia Định Thành thông chí, Thành trì chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, điện tử).

Theo sự tìm kiếm của Nguyễn Đình Đầu, thì Chợ Điều Khiển ở trước dinh Điều Khiển, nằm trên đường Nam Quốc Cang, giữa Ngã Sáu với chợ Thái Bình ngày nay. Và dinh Điều Khiển, nằm góc Nguyễn Trãi-Phạm Ngũ Lão bây giờ, “đương thời toạ lạc tại một vị trí trung tâm vừa thuận tiện giao thông thuỷ bộ” (Nguyễn Đình Đầu bđd, t. 163-164). Như vậy dinh Điều Khiển ở điạ hạt Chợ Lớn, không nằm trong thành Bát quái.

Tóm lại, theo Trịnh Hoài Đức, thời chúa Nguyễn Phước Tần (1648-1687), đã xây dinh Điều Khiển (ở góc Nguyễn Trãi-Phạm Ngũ Lão bây giờ) và dinh Phiên Trấn ở lân Tân Thuận (?). Khi Nguyễn Phước Thuần chạy vào Gia Định năm 1775, trú ở thôn Tân Khai. Khi Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định năm 1788, trú ở đồn cũ Tây Sơn, phiá đông sông Bình Dương. Và năm 1790, Nguyễn Ánh cho đắp thành Bát quái ở gò cao thôn Tân Khai.

Lê Văn Định (cùng Ngô Tòng Châu và Trịnh Hoài Đức là môn sinh của Võ Trường Toản, những trí thức uyên bác thời bấy giờ) viết trong Hoàng Việt nhất thống điạ dư chí một đoạn liên quan đến thành Gia Định, khác Trịnh Hoài Đức:

Ghi chú về phủ Gia Định: Ngày xưa là đất Thuỷ Chân Lạp, sau đó thuộc đất Cao Miên, Hiếu Ninh Hoàng đế (Nguyễn Phúc Trú) triều ta mở mang đất này, lập ra phủ Gia Định từ Bình Hoà vào phiá trong, đặt ra năm dinh rồi cử quan văn võ ở kinh đến mỗi nơi một viên để điều khiển tướng sĩ, lập đồn ở dinh Phiên Trấn thành Gia Định. Cuộc binh biến năm Giáp Ngọ (1774), Hiếu Định Hoàng Đế (Nguyễn Phúc Thuần) chạy vào đây, vài năm sau Huệ Vương (Nguyễn Phúc Dương tức Tân Chính Vương) nhận mệnh ở đây và cũng dùng chỗ này làm nơi hành tại [cung vua ở khi đi khỏi kinh đô] để chống lại nhà Tây Sơn. Trong chừng mươi năm đây là vùng tranh chấp. Năm Đinh Mùi (1787), quân ta từ Xiêm La kéo về đánh đuổi quân Tây Sơn, bắt được tướng Tây Sơn là Thái bảo Tham và thu phục được toàn cõi; nhân đó dùng đồn cũ này làm nơi trú tất. Mùa hè năm Canh Tuất (1790) mới cho mở rộng thành này ra cái thành ngày nay. Thành này được làm như hình hoa sen, chu vi… (in không rõ) tầm, có 8 cửa, đều xây bằng đá tổ ong. (Lê Văn Định, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Quyển 2, t. 88-89).

Theo Lê Văn Định, thì tất cả đều xẩy ra ở cùng một chỗ là đồn dinh Phiên Trấn. Khi Nguyễn Phước Thuần chạy vào Gia Định “dùng chỗ này làm nơi hành tại”. Khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định dùng đồn cũ này làm nơi trú tất. Và “mùa hè năm Canh Tuất (1790) mới cho mở rộng thành này ra cái thành ngày nay.

Thực lục viết: “[Năm 1698, chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725)] bắt đầu đặt phủ Gia Định, sai thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hoà), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (Gia Định), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh” (Thực lục, I, t. 111).

Thực lục viết sơ sài hơn. Giữa Trịnh Hoài Đức và Lê Văn Định, dường như Lê Văn Định có lý hơn, bởi vì dinh Phiên Trấn (hay dinh Tổng Trấn) chắc chắn là nơi tốt nhất trong một thành phố, để những vị thủ lãnh ở; nếu chấp nhận lập luận này thì dinh Phiên Trấn phải là đồn Tân Khai cũ. Hiện giờ ta cứ tạm coi như thế. Theo Nguyễn Đình Đầu thì đồn đất Tân Khai ở gần sông Thị Nghè, nhưng theo ý chúng tôi, đồn Tân Khai có thể ở trung tâm thành Bát quái, khoảng ngã tư Hai Bà Trưng và Đại Lộ 30 Tháng Tư.

Nếu ta đọc lại Gia Định Thành thông chí:

Ngày 4/2/ Canh Tuất [tức 19/3/1790] tại chỗ gò cao thôn Tân Khai thuộc đất Bình Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen, mở ra tám cửa. Có lẽ Trịnh Hoài Đức muốn nói: thành đắp tại gò Tân Khai là thành mới. Nhưng nếu ta đọc kỹ Thực lục một lần nữa: “Ngày Kỷ Sửu [9/3 Canh Tuất, tức 22/4/1790] đắp thành đất Gia Định. Vua thấy thành cũ ở thôn Tân Khai chật hẹp, bàn mở rộng thêm”, thì thực là sáng tỏ, Thực lục chép giống như Lê Văn Định, nhưng xác định thêm nơi chốn là Tân Khai.

Tóm lại, có thể có hai giả thuyết:

- Vua Gia Long san bằng thành cũ Tân Khai để xây thành mới (như Nguyễn Đình Đầu viết).

- Vua Gia Long không xây cung điện mới, mà ông giữ lại thành Tân Khai ở giữa làm cung điện, rồi vạch rộng thêm diện tích, chu vi, đào hào và đắp thành Bát quái bằng đất ở ngoài. Chúng tôi cho khả năng này thích hợp hơn, vì vậy mới nhanh: chỉ 10 ngày xong. Và thành trong, hay là cung điện mà Shihõken Seishi mô tả, chỉ có thể là dinh phiên trấn cổ, xây từ năm 1698, được sửa sang lại mà thôi, chứ khó có thể xây mới mà xong trong 10 ngày được.

Sự khác biệt trong kiến trúc thành luỹ của người Âu và người Á

Vì không biết rõ về kiến trúc, nên chúng tôi phải tìm hiểu đại lược xem kiến trúc thành luỹ Tây và Đông, khác nhau như thế nào, thì đọc được một luận văn cử nhân lịch sử tại Đại học Nice Sophia-Antipolis, Pháp, 1999; tựa đề: Les citadelles dans le ViêtNam du XIXe siècle (Những thành đài của Việt Nam trong thế kỷ XIX) của Nicolas Micalef (net4war.com), xin trích dịch một đoạn sau đây:

Chúng ta bàn đến những thành trì ở Việt Nam thế kỷ XIX, nhưng tại sao lại chọn đề tài này, nếu ta chỉ coi đó là những sự vá víu gạch vữa, trong cái nhìn thô thiển?

Đề tài này tương đối quan trọng bởi vì thành trì hay chiến luỹ, là nòng cốt của chính sách phòng thủ đất nước của Gia Long, lập ra ngay từ 1790 (Olivier de Puymanel, kỹ sư Pháp, đã xây thành Sài Gòn) [thực đáng buồn khi nguồn tin thất thiệt này đã trở thành “lịch sử” ở khắp nơi!] khi ông đánh nhau với Quang Trung.

Một mặt khác, các chiến luỹ ở Việt Nam, ít ra trong thế kỷ XIX, đã đổi mới đối với thế kỷ XVI-XVIII, bởi vì, về thời gian này, Samuel Baron xác định: Người Bắc kỳ không có thành lũy (châteaux-forts), không cả pháo đài (forteresses) và thành quách (citadelles), chẳng biết gì về nghệ thuật kiến trúc đồn ải, vụng về trong việc xây dựng như chúng tôi vừa nêu ra. (Samuel Baron, Description du royaume du Tonquin, Revue Indochinoise, 2e série, 1914, t. 201).

Bằng cách xác định trên đây, Samuel Baron đưa ra một sự thật không phải là sự thật. Bởi tất cả đều tuỳ thuộc nếu ta đứng ở quan điểm Âu hay Á.

Từ thế kỷ XVI đến XVIII, người Việt cũng như người Châu Á, không biết lối xây thành lũy của người Âu, nghiã là xây thành bằng đá, nhưng không thể nói là họ không biết xây thành. Họ học bên Tàu, từ thời Tam Quốc, đã có lối xây: thành là một cái sân vuông lớn có bốn bức tường cao làm bằng đất trộn rơm (torchis) bao quanh, mỗi mặt tường đều đục một lỗ nhỏ, mỗi góc có đặt lầu canh hai tầng, trên đục nhiều lỗ đặt súng để bắn ra ngoài (meutrières). Người ta thêm vào lối xây sơ sài này, ba đồn nhỏ dựng sát đất, ở phiá trước, làm đợt chống cự đầu tiên. Hệ thống phòng thủ này được dùng đến thế kỷ XVIII, trên toàn thể Á Châu và sau họ làm thêm các hàng rào tre hoặc cọc tre cắm xuống đất, phủ giấu đi, làm hệ thống tiền đồn.

Dù sao chăng nữa, ta không thể nói như Baron rằng người Việt thấp kém hơn người Âu, nhưng ta có thể xác định rằng châu Á đã có lối phát triển khác châu Âu về mặt binh bị, tức là về lối đánh nhau, ngay từ khi người Tàu khám phá ra ra bột đen [thuốc súng] ở những thế kỷ đầu tiên trước Thiên Chuá. Thoạt tiên, chỉ dùng để đốt pháo bông, rồi sang thế kỷ X sau Thiên chuá, họ dùng để bắn tên lửa. Tính chất hiện đại của chiến tranh Âu châu sẽ được người Ả Rập khai sáng ở thế kỷ XIII với hệ thống bắn đạn đầu tiên: Pháo binh ra đời.

Sự phân biệt của Nicolas Micalef về lối xây thành Âu, Á, rất đáng chú ý, và câu “thành là một cái sân vuông lớn có bốn bức tường cao làm bằng đất trộn rơm (torchis) bao quanh, mỗi mặt tường đều đục một lỗ nhỏ, mỗi góc có đặt lầu canh hai tầng, trên đục nhiều lỗ đặt súng để bắn ra ngoài hoàn toàn thích hợp với sự mô tả thành Gia Định của các tác giả đương thời.

Nhất là câu: “mỗi góc có đặt lầu canh hai tầng, trên đục nhiều lỗ đặt súng để bắn ra ngoài chứng tỏ thành trì ở Á Châu cũng có những yếu tố giống như những yếu tố mà người ta coi là đặc tính của thành Vauban.

Sự tìm hiểu kiến trúc thành Gia Định, vì thế, nên quay về hướng những kiến trúc xưa của Việt Nam như Thành Hồ Quý Ly, lũy Đào Duy Từ, Vĩnh Thành ở Vinh, lũy Trấn Ninh, v.v. hay các thành lũy Tây Sơn xây như thành Quy Nhơn của Thái Đức Nguyễn Nhạc, Phượng Hoàng Trung Đô của Quang Trung, v.v. Vì Quy Nhơn cũng là một kiến trúc cực kỳ kiên cố khiến Võ Tánh, Ngô Tòng Châu đã cầm cự được gần hai năm với Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng.

Hy vọng một ngày nào đó, các kiến trúc sư Việt Nam sẽ giải thích cho chúng ta một cách rõ ràng hơn và đồng thời cho biết, sự đổi mới trong kiến trúc thành quách của Gia Long, so với những thời kỳ trước như thế nào?

Nguyễn Cửu Đàm, người đầu tiên quy hoạch thành phố Gia Định (Sài Gòn và Chợ Lớn)

Nguyễn Đình Đầu trong bài nghiên cứu nghiêm túc Điạ lý lịch sử TPHCM (Điạ chí văn hoá TPHCM, 1987, t. 127- 231) đã coi Nguyễn Cửu Đàm là người đắp những thành luỹ đầu tiên, quy hoạch và bảo vệ Sài Gòn.

Ông viết: “[Sau khi thắng quân Xiêm năm 1772], Nguyễn Cửu Đàm đem đại quân về Gia Định, đắp luỹ đất, phiá nam từ Cát Ngang, phiá tây đến cầu Lão Huệ, phiá bắc giáp thượng khẩu Nghi Giang, dài 15 dặm, bao quanh đồn dinh, cắt ngang đường bộ, để ngăn ngừa sự bất trắc (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, tập trung, t. 90). Câu trích được nhấn mạnh này có một ý nghiã rất quan trọng: nó cho ta thấy vị trí chiến lược của thành phố và địa phận chính yếu của thành phố xưa (mà nay cũng vậy).

Trên bản đồ Trần Văn Học vẽ năm 1815 có ghi dấu Cựu lũy tức Bán Bích cổ luỹ này, chi tiết đúng như Trịnh Hoài Đức đã tả (…). Nguyễn Cửu Đàm vừa là nhà quân sự có tài vừa là nhà quy hoạch thành phố có tầm nhìn lớn. Hai đầu luỹ nối vào hai đầu rạch Bến Nghé và Thị Nghè, tạo cho thành phố biệt lập như một hòn đảo. Nhìn tổng thể, bán đảo (ba mặt sông) với phần luỹ ở phiá Tây, coi như hình con cá lớn, đã có một diện tích gần một trăm dặm vuông (tức trên 50 km2), tới năm 1931 khi nhập Sài Gòn với Chợ Lớn làm đơn vị chung, vẫn chưa đô thị hoá hết diện tích đó (Nguyễn Đình Đầu, bđd, t. 163).

Tóm lại: Xem bản đồ của Trần Văn Học vẽ năm 1815 về vùng Gia Định, do Nguyễn Đình Đầu sưu tầm, t. 229, mà chúng tôi mạn phép in lại, đính kèm, thì ta thấy:

Bản đồ Phủ Tân Bình

clip_image002

Cổ luỹ Bán Bích, do Điều khiển (Đốc chiến) Nguyễn Cửu Đàm xây năm 1772, dưới thời Võ Vương Nguyễn Phước Khoát, luỹ dài 15 dặm (8km586), bắt đầu từ rạch Bến Ngé (chùa Cây Mai) trong Chợ Lớn bao vòng lên trên Hoà Hưng, Tân Định, chạy đến rạch Thị Nghè, vừa là quy hoạch đầu tiên của vùng Sài Gòn Chợ Lớn ngày nay, vừa là thành luỹ ngăn quân Xiêm từ miền Tây sang quấy nhiễu. Theo Trịnh Hoài Đức, một năm trước, Nguyễn Cửu Đàm đã xây luỹ Tân Hoa: “Ở thôn Tân Hoa, tổng Chánh Mỹ. Năm Tân Mão (1771), trấn Hà Tiên thất thủ, quan đốc chiến Nguyễn Đàm đắp lũy để phòng ngự đường tiến của sơn man Thuỷ Vọt, nền cũ nay vẫn còn (Gia Định Thành thông chí, Trấn Biên Hoà).

Luỹ Bán Bích là vòng thành lớn hơn nữa, bao vòng tất cả vùng Hoà Hưng, Tân Định, Sài Gòn, Chợ Lớn, với toàn bộ “đồn dinh” của hệ thống cai trị đương thời, theo Nguyễn Đình Đầu: “Nếu tìm được vị trí phân bố các Đồn dinh quan trọng đó nằm giữa các sông rạch thiên nhiên và luỹ Bán Bích, ta có thể phác hoạ lại đại cương tấm bản đồ Sài Gòn 1772, một thành phố đã có tầm cỡ về mọi mặt từ trên 200 năm nay (Nguyễn Đình Đầu, bđd, t. 163).

Cùng năm ấy, Nguyễn Cửu Đàm đào kinh Ruột Ngựa: “Nguyên xưa từ cửa Rạch Cát ra phiá bắc đến Lò Gốm thì có một đường nước đọng móng trâu, ghe thuyền không đi lại được… Nguyễn Cửu Đàm… có đào con kinh thẳng như ruột ngựa, nên mới đặt ra tên ấy (Mã Trường Giang (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, tâp thựợng, t. 42). Kinh này giúp cho sự đi lại giữa Sài Gòn với miền Tây thêm thuận lợi (Nguyễn Đình Đầu, bđd, t. 165). Và ông kết luận: “Sài Gòn trở nên thành phố và khá phồn thịnh kể từ khi Nguyễn Cửu Đàm xây luỹ Bán Bích và đào kinh Ruột Ngựa vào năm 1772 (Nguyễn Đình Đầu, bđd, t. 169)

Sự xây dựng hay mở rộng thành đất Gia Định năm 1790

Thực lục chép ở hai chỗ:

Ngày Kỷ Sửu [9/3 Canh Tuất, tức 22/4/1790] đắp thành đất Gia Định. Vua thấy thành cũ ở thôn Tân Khai chật hẹp, bàn mở rộng thêm (…). Bấy giờ mới huy động quân dân để khởi đắp, hẹn trong 10 ngày đắp xong. Thành đắp theo kiểu bát quái, mở tám cửa, ở giữa là cung điện (…) Thành xong, gọi tên là kinh thành. Thưởng cho quân dân hơn 7000 quan tiền (Tám cửa đều xây bằng đá ong…)” (Thực lục, I, t. 257)

Tháng 12 ÂL (tháng 1/1791), Thực lục lại ghi: “Sửa đắp thành đất Gia Định. Đường quan ở bốn bôn thành có mở cửa vào nhà dân thì phát tiền công cấp cho” (Thực lục, I, t. 268).

Qua những lời ngắn gọn này, ta vẫn các sử gia triều Nguyễn chú ý vào việc “đắp thành đất, và luôn luôn dùng chữ “đắp” chứ không dùng chữ “xây”, ở đây chỉ có một câu “giữa là cung điện”; Trịnh Hoài Đức cũng viết: “Trong thành, phiá trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại (chỗ vua ở); lại càng cho phép ta chắc chắn rằng: vua Gia Long dùng thành phiên trấn cũ làm cung điện, trùng tu lại, xây thêm Thái miếu, và mở rộng diện tích, đào hào sâu và đắp thành đất bao quanh.

Xin nhắc lại một lần nữa: thành ngoài Gia Định là một thành đất, đắp kiểu bát quái, 10 ngày xong. Thành đất trộn rơm; sự bền vững không kém gì thành đá của Tây phương. Và bề dầy của thành đã khiến John White, một lính Mỹ đến đây năm 1819, phải giật mình.

Thành đất thì người Tây phương không biết đắp; lại càng không phải là sản phẩm của một anh lính binh nhì Puymanel vừa đến nước Việt, hay đồ thị của một binh nhất Le Brun, lúc đó còn ở Macao hay đã đến Nam Hà? Hệ thống thành đất, Trần Quang Diệu đã đắp rất nhanh khi đánh các trận Diên Khánh và Quy Nhơn. Và Nguyễn Tri Phương với các đại đồn Liên Trì và Kỳ Hoà đã làm cho quân Pháp khốn đốn.

Nguyễn Đình Đầu tóm tắt: Thành Bát Quái có 3 lớp bảo vệ:

1- Lớp trong cùng xây bằng đá Biên Hoà cao 13 thước, chân tường dầy 7 trượng 5 thước.

2- Lớp giữa là hào rộng 15 trượng 5 thước, sâu 14 thước.

3- Lớp ngoài là luỹ bằng đất với chu vi 794 trượng. (Nguyễn Đình Đầu, bđd, t. 178).

Tóm lại, vua thấy thành Tân Khai chật hẹp thì mở rộng ra, vậy ta có thể gần như chắc chắn rằng vua vẫn giữ thành Tân Khai ở giữa, cho sửa sang làm cung điện, và xây thêm các lớp vòng thành bao quanh, thành ba lớp như Nguyễn Đình Đầu tóm tắt ở trên (xin lưu ý: Lớp thành đá ong bên trong là Lê Văn Duyệt xây năm 1829, còn theo Thục lục, lúc đầu chỉ có tám cửa bằng đá ong) phù hợp với lời Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành thông chí và sự mô tả cung điện của thủy thủ Nhật Shihõken Seishi khi đến đây năm 1794-1795.

Việc đắp thành trong 10 ngày, chỉ vào việc đắp thành đất ngoài cùng, còn các sự sửa sang cung điện và các dãy nhà bên trong thành, có lẽ cần nhiều thời gian hơn. Sự sai lệch ngày xây thành, giữa Gia Định Thành thông chí và Thực lục có thể đến từ đó: Trịnh Hoài Đức coi ngày bắt đầu là ngày đầu tiên sửa sang cung điện, nhà cửa bên trong thành, còn Thực lục lấy ngày bắt đầu là ngày đắp thành đất ngoài cùng.

Thành Gia Định dưới con mắt của Trịnh Hoài Đức và Shihõken Seishi

Trịnh Hoài Đức viết:

Ngày 4/2/ Canh Tuất [tức 19/3/1790] tại chỗ gò cao thôn Tân Khai thuộc đất Bình Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen, mở ra tám cửa, có 8 con đường ngang dọc; từ đông đến tây là 131 trượng 2 thước ta [524,80m] từ nam đến bắc cũng như thế, bề cao 13 thước ta [5,20m] chân dày 7 trượng 5 thước ta [30m] đắp làm ba cấp, tọa ngôi Càn, trông hướng Tốn.

Trong thành, phiá trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho chứa, bên hữu là Cục Chế tạo, xung quanh là các dãy nhà cho quân túc vệ ở. Trước sân dựng cây cột cờ ba tầng, cao 12 trượng năm thước ta [50m] trên có làm chòi canh vọng đẩu bát giác toà, ở bên treo cái thang dây để thường xuyên lên xuống, trên ấy có quân ngồi canh giữ, có điều gì cần cảnh báo thì ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu canh gác, các quân cứ trông theo hiệu đó để tuần theo sự điều động. Hào rộng 10 trượng năm thước [42m], sâu 14 thước ta [5,6m] có cầu treo thả ngang qua, bên ngoài đắp lũy đất, chu vi 794 trượng [3,176km] vừa hiểm trở, vừa kiên cố tráng lệ. Ngoài thành đường sá phố chợ ngang dọc được xếp rất thứ tự, bên trái là đường cái quan từ cửa Chấn Hanh qua cầu Hoà Mỹ đến sông Bình Đồng tới trấn Biên Hoà; đường cái quan bên phải gặp chỗ nào cong thì giăng dây để uốn thẳng lại, đầu từ cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò chùa Tuyên đến sông Thuận An.

Bến đò Thủ Đoàn đưa qua sông Hưng Hoà, trải qua gò Trấn Định rồi đến gò Triệu. Đường rộng 6 tầm, hai bên đều trồng cây mù u và cây mít là những thứ cây thích hợp với đất này. Cầu cống thuyền bến đều luôn được tăng gia việc tu bổ, đường rộng suốt phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phiá Nam (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, Thành trì chí).

Shihõken Seishi viết:

… Chẳng bao lâu đã đến cửa chính của hoàng cung, chúng tôi xuống kiệu đi bộ, tới vòng thành thứ nhì, có hai lớp toà thành kiên cố cho đám cận thần ở. Trên mỗi cửa, có một loại bảng hiệu hình bán nguyệt (cái đó gọi là dahaimot, người ta dùng để chỉ định ngôi thứ của mỗi nhà). Từ cửa chính, chúng tôi đã đi và ghẹo khoảng gần 3 chõ [330m] trong khi đất cao lên độ 1 chõ [109m10]. Ở cửa vào vòng thành thứ nhì, có một đài thám thính cao 40 ken [72m80] Một viên quan võ thường lên quan sát về phiá biển, đó là bộ phận phòng vệ. Các quan thay phiên nhau trực mỗi người nửa ngày. Phía tay phải có ba cái nhà vuông. Đó là phòng bào chế y dược, trong có nhiều người đang cắt, giã thuốc nam (…).

Đi khỏi nơi này, chúng tôi thấy cung điện chính hiện ra ở đằng xa. Nền lát đá đẽo và trần rất cao. Có hai hàng ghế, nằm dọc theo chiều dài gần một chõ [109 m10]. Trần và tường sơn đỏ, có chỗ nạm vàng hoặc bạc. Kỳ quan này đập vào mắt chúng tôi. Các ghế ngồi đều tay bành và tạc tượng với những hình khắc màu, cũng khảm vàng, bạc. Người ta bảo đây là ghế của các quan trấn thủ ở các miền.(…) Hành lang này dài độ 50 ken [91m]. Đất lại cao lên nữa. Ba ken [5m46] trước cửa cung, có 14 ông quan. (Trích dịch tác phẩm Nampyõki [Đắm tàu ở Nam Hải] của Shihõken Seishi, do bà Muramatsu Gaspardone dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu và chú giải, in trong Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême-Orient (BEFEO), 1933, t. 60-62).

Những điều Shihõken Seishi mô tả đều có thể thấy trong bản đồ trang 184, trong cuốn Điạ chí văn hoá TPHCM, do Nguyễn Đình Đầu sưu tập và vẽ lại (mà chúng tôi xin phép tác giả được đính kèm với bài viết này); và trong lời Trịnh Hoài Đức: từ việc cung điện nằm trên gò cao, đến đài thám thính, viện y dược, các lỗ châu mai trên tường thành, v.v.

Xin lưu ý: Cả Trịnh Hoài Đức lẫn Shihõken Seishi đều không hề nói là thành xây dở dang, điều mà người ta đồn đại để phụ họa cho giả thuyết có “một bản đồ lớn” gồm 40 đại lộ của Le Brun vẽ, chưa thực hiện mà chúng tôi đã nói trong chương trước.

Bản đồ Thành Bát Quái

clip_image004

Thành Gia Định dưới mắt John White

John White là một người lính thủy Mỹ, đến Nam Hà trong khoảng 1819-1820, tác giả cuốn sách Chuyến đi Nam Hà (bản tiếng Pháp: Voyage en Cochinchine), in lần đầu năm 1823, ở Boston. Cuốn sách của John White được dịch và in toàn bộ trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH, 1937, II), có thể coi là một loại Ký sự Bissachère được phổ biến trong tập san này.

John White chê bai Việt Nam tột bực, đại để: nước này chẳng có gì đáng chú ý, không sản xuất ra gì cả, dân chúng mọi rợ, bất lương, nhà cầm quyền tồi tệ, y viết: “Nhà vua [vua Gia Long] là bạo chuá, hiếu chiến, bo bo giữ quyền, hà tiện và gian tham, nắm một quyền lực vô hạn. Hậu quả tự nhiên: quý tộc bán mình, phản trắc, chuyên quyền, hung bạo và dân chúng ngu muội, dâm dãng, không có một chút ngay thật và yêu thích làm việc gì cả (BAVH, 1937, II, t. 258)

P. Midan, dịch giả, trong bài tựa, cho rằng: sau khi cuốn sách này in ra, không có một tàu Mỹ nào ghé bến Sài Gòn từ 1820 đến 1860; từ những điều “man rợ” của John White trong cuốn sách này, Midan khai thác để “chứng minh” công lao “khai hoá” của Bá Đa Lộc, như sau:

Chuyến đi của John White đã xẩy ra trong khoảng 1819-1820, một thời gian sau cái chết của Đức Giám Mục Adran [Bá Đa Lộc mất năm 1799]. John White nhấn mạnh đến tình trạng dã man mà nước này rơi vào sau cái chết của vị sáng tạo hoà bình nổi tiếng ở Nam Hà. Tất cả những cơ chế mà ngài lập ra đã biến mất. Sự thịnh vượng mà ngài phát sinh chỉ còn là kỷ niệm. Nhân chứng này lại càng có giá trị bởi nó đến từ một người ngoại quốc. Tác giả tuyên bố rằng cái chết của Đức Giám Mục là một thảm họa cho xứ này và sự kiện này chưa bao giờ được thẩm định bằng những lời lẽ xác đáng đến thế.

Ngoài ra, John White còn làm sống lại một thành phố đã mất: Sài Gòn (chương 14). Thành đài cổ kính do Đại tá Pháp Olivier xây không còn nữa; nó đã bị nhà vua phá huỷ sau cuộc nổi loạn của Khôi năm 1835. John White đã mô tả chi tiết mà ta không thể tìm thấy bất cứ ở đâu (…) Sự phục sinh thành đài bất hủ này có một lợi ích chủ yếu về phương diện lịch sử” (P. Midan, Avant- Propos, BAVH, 1937, II, t. 94-95).

Chúng ta không cần để ý đến sự phổ biến và lợi dụng những sách tồi tệ như thế về Việt Nam của những tác giả thực dân, vì đây không phải là lần đầu; chỉ chú ý đoạn đến đoạn John White viết về thành Gia Định năm 1819, ở chương XIV:

Chúng tôi lên bờ, đúng vào chỗ có một loạt hàng tạp hoá lớn hay là chợ, có nhiều hoa quả và đồ ăn, do những người đàn bà bầy bán vô trật tự [chắc là chợ Bến Thành] (…)

Khó nhọc lắm chúng tôi mới tiến bước được, dọc theo con phố treo đủ loại đồ bẩn thỉu dơ dáy, dưới ánh nắng gay gắt, bị hàng ngàn con chó ghẻ bao vây mà những tiếng sủa của chúng làm cho chúng tôi đờ người cộng thêm những tiếng la lối om xòm của bọn bản xứ ngạc nhiên, hiếu kỳ, sờ mó quần áo, vỗ má và nắn tay, khiến chúng tôi phải lấy gậy đập để đuổi (BAVH, 1937, II, t. 232). Vài hàng này đủ cho ta thấy “tinh thần” của tác giả.

Nhưng đáng chú hơn, là những dòng viết về thành Gia Định:

Chúng tôi đến một con đường dài khoảng một phần tư mille [1mille=1609m] ngoằn ngèo giữa hai bức tường gạch và hơi lên dốc đầy cây lá. Bọn mất dạy (canaille) bản xứ, đi hai chân hay bò lê bò càng [chắc y muốn nói đến người ăn xin], đã bỏ rơi chúng tôi và chẳng bao lâu chúng tôi tới một cái cầu đẹp bằng đất và đá bắc ngang qua hào rộng và sâu, dẫn tới cửa Đông Nam của thành, hay, nói đúng hơn, thành trì quân sự, bởi vì những bức tường của nó cao tới 20 pieds [6,09m] và dầy kinh khủng, bao vòng nền đất trong thành hình tứ giác gần ba phần tư mille mỗi bề. Ông Tổng trấn và những quan chức nhà binh ngự ở đó. Có những trại lính đầy đủ tiện nghi cho năm mươi ngàn binh. Cung điện trổi lên giữa một thảm cỏ tráng lệ, trong một mảnh đất rộng tám acres [32400m2] được bao bọc bởi một hàng rào cao. Đó là một dinh thự hình chữ nhật dài lối 100 pieds [30,48m], rộng 60 pieds [18,28m], chủ yếu xây bằng gạch, với những hàng hiên được che kín bằng những bức mành chiếu. Toà nhà toạ lạc trên một thềm gạch cao 6 pieds [1,82m]có bậc thang gỗ nặng để đi lên.

Ở mỗi bên, cách khoảng 100 pieds [30,48m] mặt tiền, có một cái đài canh hình vuông cao độ khoảng 30 pieds [9,14m], có một cái chuông lớn. Đằng sau, cách cung vua độ 150 pieds [45,72m] có một dinh thự nữa cũng gần lớn như cung vua đó là nơi ở của các bà [phi] và các [nhân viên] trực thuộc khác.” (Bđd, BAVH, 1937, II, t. 232).

Là một người lính, việc đầu tiên đập vào mắt John White, là sự kiên cố của thành đất Gia Định. Điều đó càng làm cho chúng ta hiểu hơn: tại sao Thực lục chỉ ghi lại việc đắp và sửa thành đất Gia Định, mà không nhắc đến các việc khác, bởi đó là dấu ấn của Gia Long, và là sự thành công về kiến trúc thành trì theo lối phương Đông.

Thành Diên Khánh

Tháng 10/1793 (tháng 9 ÂL.), Thực lục ghi: “Ngự giá về Diên Khánh. Thấy thành đất Hoa Bông địa thế tốt, đánh hay giữ đều tiện, bèn sai các quân và phát 3000 dân Bình Thuận, 1000 dân Thuận Thành khởi đắp trọn một tháng thì thành xong, gọi là Diên Khánh (tức tỉnh lỵ Khánh Hoà ngày nay. Thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, mở sáu cửa, đông và nam đều một cửa, tây và bắc đều hai cửa, trên cửa có lầu, bốn góc có cồn đất). (Thực lục I, t. 299). Mọi việc khá rõ ràng. Thành Diên Khánh đắp mùa hè năm 1793, một tháng đắp xong. Vắn tắt là như vậy.

Đại Nam nhất thống chí viết: “Thành Diên Khánh trước là thủ sở Nha Trang, năm Quý Sửu (1793) quân nhà vua tiến đánh Qui Nhơn, lúc trở về, xa giá dừng ở Diên Khánh, xem xét thế đất, sau nhân bảo [đồn] cũ Hoa Bông đắp thành bằng đất, thành mở 6 cửa, đều có nhà lầu, 4 góc thành có núi đất, ngoài thành đào hào, ngoài hào có trại; các cửa đều có cầu treo để qua hào, trước sau có núi sông bao bọc, thật là nơi thiên hiểm, nay bỏ bớt hai cửa. Pháo đài và núi đất vẫn còn. (ĐNNTC, III, t. 93)

Theo hai sự mô tả này thì, thành Diên Khánh có cùng một lối kiến trúc với thành Gia Định, và không có gì là một thành phố theo lối Tây phương cả.

Thành Diên Khánh phải đắp một tháng mới xong, chứng tỏ có việc xây thành Diên Khánh, hoặc là khó khăn hơn, hoặc vì phải xây thêm những toà nhà ở trong thành cho vua ở, vì trước đó chưa có gì. Thành Diên Khánh cũng được sửa chữa nhiều đợt, mỗi khi Gia Long đến ở:

Tháng 8/1794 (tháng 7 ÂL): “Sửa đắp thành Diên Khánh, xong việc cho các quan ăn yến” (Thực lục, t. 310)

Tháng 9-10/1795 (tháng 8 ÂL.) Sửa lại thành Diên Khánh, làm thêm kho tàng. Để Tôn Thất Hội ở lại trấn giữ. (Thực lục, I, t. 326)

Thành Diên Khánh, theo Lê Văn Định

Thành Diên Khánh được mô tả trong Hoàng Việt nhất thống điạ dư chí của Lê Văn Định như sau:

Thành này ở mặt trước xã Phú Mỹ, tổng Trung, huyện Phước Điền, thành cao hai tầm [tầm=2,125m; 2tầm=4m25], chu vi là 1.019 tầm, [2km165], chia làm 6 cửa: phiá nam một cửa, phiá tây 2 cửa, phiá đông một cửa và phiá bắc 2 cửa, trên cửa có lầu. Thành hình tứ giác, bên trong có núi đất. Ngoài thành có hào, ngoài hào có cửa trại, phiá trước có cầu treo bắc ngang trên hào.

Xét thêm về thành Diên Khánh: Thời trước đó là thủ sở Nha Trang. Năm Quý Sửu (1793) Vương sư đẩy lui quân Tây Sơn, thu phục dinh Bình Hoà, ngự giá đến đây thấy vùng đất tốt nên mới lập ra đồn này. Sai Tiền quân Bình Tây đại tướng quân Thành Quận Công (Nguyễn Văn Thành) cầm binh trấn giữ. Đến mùa đông năm ấy lại sai Đông Cung đổng lãnh đại quân đến thay giữ trấn, lại cho đắp thêm thành bằng đất. (Lê Văn Định, Hoàng Việt nhất thống điạ dư chí, Quyển 2, Phần viết về Đường trạm dinh Bình Hoà, t. 52-53)

Tóm tắt những thông tin của Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Thực lục, Liệt truyện và Đại Nam nhất thống chí, ta có thể hiểu, thành Diên Khánh được xây và sửa làm ba đợt:

- Đợt đầu tiên vào mùa hè năm 1793, khi bỏ vây Qui Nhơn về, Nguyễn Ánh sai Tôn Thất Hội đắp thành đất Diên Khánh, ở đồn Hoa Bông cũ.

- Tháng 8/1794, Nguyễn Ánh lại sai sửa sang thành Diên Khánh và lần này có lẽ sửa to, vì sau đó ăn mừng, cho các tướng sĩ ăn yến. Lần này được Lê Văn Định ghi lại cho đắp thêm thành bằng đất, tức là mở rộng thêm thành đất (hoặc làm kiên cố thành đất) đã xây năm trước, và có lẽ lần này đặt thêm đại bác trên tường thành cho nên sau đó quân Trần Quang Diệu không làm cách nào mà trèo vào thành được.

- Đến tháng 9-10/1795 (tháng 8 ÂL.) Sửa lại thành Diên Khánh, làm thêm kho tàng. Để Tôn Thất Hội ở lại trấn giữ. Lần này vua không những sửa mà còn xây thêm “kho tàng”, tức là cấp cho Diên Khánh một địa vị hành chánh, điạ đầu, quan trọng thứ nhì sau Gia Định.

Lê Quang Định tóm tắt các trận đánh khốc liệt ở Diên Khánh như sau:

Đến tháng ba mùa xuân năm Giáp Dần (1794) tướng Tây Sơn là Điện tiền Huấn (Nguyễn Văn Huấn) và Tổng quản Diệu (Trần Quang Diệu) kéo quân thủy bộ vây thành ngoài hơn 20 ngày, không thể cầu viện được nên Hoàng thượng phải thân chinh, Huấn và Diệu thua bỏ chạy. Tháng tám đại binh khải hoàn, lại sai Hậu quân Bình tây tham thừa Đại tướng quân Tánh Quốc Công (Võ Tánh) đến thay thế. Tháng 11 nhuận, tướng Tây Sơn là Tổng quản Diệu, Nội hầu Tứ đem hết quân thủy bộ đến hãm ngoài thành, hàng ngày đánh vào thành làm cho tướng sĩ chết rất nhiều, tướng Tây Sơn cho đắp lũy cao, đào rạch sâu quanh cả bốn mặt thành. Không thể khắc phục được, Tánh Quận công tự đem quân ra đánh, bắt sống được tướng Tây Sơn là Đô đốc Định, quân giặc tan tác đầu hàng rất nhiều. Tuy nhiều gạo mà thiếu mắm, tướng sĩ trong thành ăn uống rất kham khổ nhưng vẫn một lòng trung nghiã, người đều vui vẻ và cố gắng hết sức giữ thành. Tháng tư năm Ất Mão (1795) ngự giá thân chính thống suất quân thủy bộ đến cứu viện, quân giặc đại bại, Hoàng thượng tiên đoán chúng tất rút lui bèn chia quân đến chận đường rút của chúng, đến tháng bẩy quả nhiên tướng Tây Sơn là Diệu và Tứ bỏ vòng vây tháo chạy, đại quân đuổi theo sau thu được rất nhiều voi ngựa và khí giới, tướng sĩ của Tây Sơn đầu hàng và chết vô kể. Nay thành ấy lập làm lỵ sở của dinh Bình Hoà, ở đó có kho lương và nhà cửa quân dân nhưng hãy còn thưa thớt.” (Lê Văn Định, Hoàng Việt nhất thống điạ dư chí, Quyển 2, Phần viết về Đường trạm dinh Bình Hoà, t. 52-53).

Chúng ta nên chú ý đến đoạn cuối: Sở dĩ Trần Quang Diệu bỏ Diên Khánh vì ở trong triều Phú Xuân có loạn, Quang Toản giết hại đình thần, nên phải về, nếu không có biến cố ấy chưa chắc Trần Quang Diệu đã bỏ cuộc.

Nhưng câu cuối cùng mới thực là quan trọng, Lê Văn Định viết về Diên Khánh: ở đó có kho lương và nhà cửa quân dân nhưng hãy còn thưa thớt. Câu này xác định: Diên Khánh chỉ là thành trì quân sự, người dân không ở nhiều cho nên nhà cửa hãy còn thưa thớt, Diên Khánh không phải là một thành phố xây theo kiểu Tây phương, như các sử gia thuộc địa cố bám vào câu của linh mục Lavoué để nhận thành Diên Khánh là Pháp xây.

Kết luận

Dù tướng Tôn Thất Hội điều khiển mọi việc xây thành, nhưng chắc chắn Gia Long chủ trì tất cả, vì thế mà những người muốn có độ chính xác trong sách như Trịnh Hoài Đức và các sử gia triều Nguyễn trong Thực lục, đã không đề rõ tên ai xây thành, họ không muốn ghi một điều không xác thực, vì vậy mà người Pháp mới có cớ để nhận vơ các thành Gia Định và Diên Khánh do Puymanel xây khiến chúng ta phải khốn đốn trong việc xác định lại sự thực.

Để kết luận, chúng tôi xin nhấn mạnh mấy điểm sau đây:

1- Hầu như tất cả các thành đài của ta, xây trong thời kỳ này đều đắp bằng đất, theo sự mô tả các thành trì ở miền Nam của Trịnh Hoài Đức (xem Phụ Lục ở dưới) toàn thể đều đắp đất, theo lối kiến trúc bát giác, lục giác hoặc tứ giác, có lẽ Gia Long đã góp phần đổi mới, nhưng vẫn giữ thành đất kiểu Đông phương mà người Pháp không biết làm. Vì thế, Aubaret khi dịch Gia Định Thành thông chí đã bỏ hẳn chương quan trọng nhất là Thành trì chí, không dịch. Ngay cả đến kinh thành Huế, đắp sau Gia Định hơn 10 năm, Gia Long vẫn dùng nguyên tắc ấy:

Kinh thành năm Gia Long thứ 4 đắp đất; năm thứ 17 xây gạch mặt trước và mặt hữu, năm Minh Mệnh thứ 3, xây gạch mặt sau và mặt tả” (Đại Nam nhất thống chí, I, Kinh sư, t. 18).

Về thành Huế thì Thực lục viết rõ hơn: “Vua thân định cách thức xây thành (Thực lục, I, t. 552).

2- Gia Long trực tiếp cai quản mọi việc, đắp luỹ cũng làm với tướng sĩ, những nhân chứng đều đồng quy về việc này:

- Sử Ký Đại Nam Việt: “vua chẳng nghỉ yên bao giờ: khi thì đốc suất các thợ, khi thì đi biên các kho, hoặc coi tập binh hay là đắp lũy. (Sử ký Đại Nam Việt, t. 57)

- Thực lục: “duy có việc sửa đắp đồn luỹ thì cùng làm với các tướng sĩ” (Thực lục, I, t. 233).

- Barrow:”chính ông quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tàu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc, không có gì thực hiện không có gì chấp hành mà không hỏi ý kiến và nhận lệnh của ông. (Barrow II, t. 224-238)

3- Gia Long tham khảo những sách phương Tây:

Sử Ký Đại Nam Việt: “vua chẳng biết chữ bên Tây, nên phải cậy các quan cắt nghiã mọi đều. Nhứt là các tờ đã vẽ hình tượng các khí giái và những cách đắp lũy xây thành, đóng tàu… Vả lại nhiều sách và địa đồ đã mua bên Tây, thì người chăm học mà hiểu hầu hết (Sử ký Đại Nam Việt, t. 57-58).

Le Labousse, thư ngày 14/4/1800: “Trong cung của ông có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Ông thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những giải thích bằng chữ Pháp vì ông không đọc được. (Arch. Miss. Étrang. vol.746, p. 869. Recueil de l’Evêché de Saigon, t. 131-135, Taboulet I, t. 268)

Để kết thúc chương này, chúng tôi có thể xác định chắc chắn rằng: Gia Long là tác giả các thành Gia Định và Diên Khánh, cũng như kinh thành Huế sau này. Dưới quyền ông có Tôn Thất Hội, Trần Văn Học và Vũ Viết Bảo. Nếu Puymanel có đóng góp thì cũng ở chừng mức khiêm nhường của một lính thuỷ pháo binh, vừa mới được vua tuyển dụng.

Gia Long khi đắp thành Gia Định đã thu thập được gì trong kiến trúc Tây phương qua những sách ông xem được? Lúc đó ông không chỉ quen người Pháp mà ông còn rất thân với người Bồ Đào Nha nữa, vậy nếu ông có học thêm kiến trúc thành lũy Tây phương để áp dụng vào việc đắp thành Gia Định và Diên Khánh thì ta nên hiểu theo nghiã rộng, tức là Âu châu, chứ không riêng gì kiến trúc Pháp.

Đến đây có lẽ độc giả sẽ hỏi: Tại sao chúng ta phải khổ công tìm kiếm lại ai là tác giả thành Gia Định, một thành trì đã bị tàn phá 2, 3 lần, nay không còn dấu vết?

Xin trả lời: Ngoài vấn đề cốt lõi phải tìm lại sự thực lịch sử đã bị chôn vùi; còn có vấn đề tự hào dân tộc. Chúng ta đã mất nước về tay Pháp, đó là phần ta phải chịu trách nhiệm, nhưng ta không thể để cho dĩ vãng lịch sử của dân tộc bị cướp trắng, mà không có một lời phản bác, không có một sự nghiên cứu lại, để chứng tỏ những gì các sử gia thuộc địa đưa ra không thể chấp nhận là sự thực lịch sử.

Thụy Khuê

(Còn tiếp)

Kỳ tới: Chương 14: Sử gia Maybon

Phụ Lục: Trích đoạn Gia Định Thành thông chí

Thành Bát quái Ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh và Tốn Thuận có dựng trại quân mái lợp ngói tô đỏ rất đẹp đẽ nghiêm túc; lại còn sửa soạn vách thành và vọng lâu ở 4 của Càn, Ly, Chấn, Tốn; cầu treo gỗ ván ở 4 cửa lâu ngày hư hỏng, nay cũng xây lại cầu vồng bằng đá tổ ong bắc qua hào, cầu vừa rộng bền chắc, dưới có chừa khoảng trống cho nước chảy, trước lũy có cửa Ly Minh có dựng đình Thân Minh để làm chỗ niêm yết trên bảng những chiếu, cáo, dụ, chỉ.

Cục Chế tạo ở trong thành sau đường Cấn Chỉ và Đoài Duyệt, có ba dãy nhà ngói đối diện ở trước hai đường ấy. Phiá trái là một dãy trại ngói là nơi làm việc của thợ rèn, buổi đầu Trung hưng chợ chế tạo đủ ngành tập họp ở đây đồng thời làm chỗ chứa thổ sản hàng hoá…

Kho tiền bạc ở phiá phải đường Càn Nguyên và Khảm Hiểm trong thành, lúc đầu lập nội khố chứa đồ quý như vàng, bạc, tơ đoạn, vải lụa, sau bỏ nội khố đổi làm kho Kiên Tín, kho này ở thành gồm 5 gian nhà ngói, thâu các loại thuế và là nơi 5 trấn hội nạp tiền bạc, có đội quân Kiên Tín canh giữ ở đấy.

Kho đồn điền ở bên trái đường Càn Khảm trong thành, nguyên thuộc kho chứa dựa. Năm thứ 5 niên hiệu Gia Long, xây hai dãy ngói, mỗi dãy mười gian thâu chứa lúa thóc đồn điền chứa đầy các gian, số còn lại đem chứa ở kho của năm trấn, có đội quân An Hoà canh giữ.

Trại súng nằm về phiá trước bên trái Cục Chế tạo trong thành, có 15 gian lợp ngói, trên làm gác ván dùng đặt đồ phụ tùng của súng, trong trại đặt các loại súng lớn bằng đồng, bằng sắt, và súng hoả xa trụ, tất cả đều có cỗ xe vẽ màu đỏ đen, mỗi năm trang sức tốt đẹp thân súng, phải lau dầu một lần cho khỏi rỉ.

Kho thuốc súng là dãy nhà 12 gian lợp ngói xây gạch ở mặt sau nội thành, thuốc súng đựng trong thùng gỗ để trên sàn gác, cấm tuyệt lửa đuốc, người không phận sự không được ra vào nơi đây.

Xưởng thuyền chiến ở về phiá đông thành độ một dặm dọc theo bờ sông Tân Bình quanh qua sông Bình Trị, gác và che thuyền hải đạo (là đồ nghề bén nhọn của thuỷ chiến nước Nam), chiến hạm (cách thức như tàu buôn nhưng nhỏ, tục gọi là thuyền), ghe sơn đen, ghe sơn đỏ (thuyền đều gọi là ghe. Ghe chiến cụ, thân lớn và dài, dày và bền, đặt nhiều mái chèo, ngoài sơn dầu đen gọi là ghe đen, sơn đỏ gọi là ghe đỏ) và ghe lê (tức là ghe thuyền được chạm trổ vẽ vời từ đầu đến đuôi) đều là dụng cụ thuỷ chiến (thuyền thật lớn là tàu, trong Nam gọi thuyền lớn là ghe, thuyền nhỏ là xuồng).

Xưởng dài đến 3 dặm [1,620km].

Xưởng voi ở phiá ngoài lũy đất cửa Khảm Hiểm, đó là chỗ thường trú, có khi chọn để trong thành, có khi phát tán theo nguồn cỏ nước ở Biên Hoà, tuỳ lúc không nhất định…

Nơi chế thuốc súng ở ngoài cửa Khôn Trinh [Khôn Hậu trên bản đồ?] cách chừng hai dặm, rộng một dặm, bốn phiá trồng cây có gai, trong dùng đủ dụng cụ chày cối; khi chế tạo thì hết sức cẩn thận đèn lửa, ngăn không cho người ngoài được ra vào lộn xộn.

Khám đường và nhà giam ở ngoài chân lũy đất cửa Khôn Trinh (…) trồng cây rào có gai bao quanh bốn phiá, đào hào, trồng cây tật lê, phòng thủ nghiêm mật.

Sứ quán ở phiá phải trước cửa Ly Minh, cách thành chừng một dặm, trước sau có 2 toà nhà ngói mỗi toà 5 gian, có đội lính lệ gồm 20 người; phiá trước bên phải làm phụ thêm nhà Hải quan để trưng thu thuế khoá thuyền buôn các nước tới.

Học đường, năm Gia Long thứ tư (1805) vua sai đặt một viên chính Đốc học và hai viên nhất nhì phó Đốc học. Khi đầu dựng học đường ở phiá phải luỹ đất ngoài thành, năm thứ 12 (1813) cho làm lên trên nền cũ đồn dinh ở chợ Điều Khiển.

Kho của bốn trấn ở tại nền cũ kho Gian thảo (Cầu Kho), cách phiá nam thành 4 dặm rưỡi…

Trường Diễn võ ở cách phiá tây nam thành 10 dặm [5,4km], nơi đây đất bằng phẳng rộng rãi độ 50 dặm [25km] thường tháng giêng chọn ngày tốt làm lễ tế mã (tế thần), tế cờ kỳ đạo (lễ tế cờ trước khi xuất chinh) và thao diễn trận pháp đều cử hành tại đây.

Các thành trì khác

Đồn Giác Ngư (Cá trê) ở bờ bắc sông Tân Bình thuộc điạ giới trấn Biên Hoà, cách thành 7 dặm [3,7km]. Đồn này được khởi công vào ngày 2/4/Kỷ Dậu (1789), buổi đầu Trung hưng, chung quanh trồng cây mù u, đối diện bờ bên kia có đồn Thảo Câu để làm thế nương dựa nhau.

Đồn Thảo Câu Ở bờ nam sông Tân Bình, cách thành 6 dặm, thuộc địa giới trấn Phiên An, năm tháng khởi công và thể thức cũng giống như đồn Giác Ngư.

Luỹ Bán Bích do đốc chiến Nguyễn Đàm xây đắp, hình giống mặt trăng xếp, chỉ nửa vách luỹ thôi. Đồn ở địa giới hai huyện Bình Dương và Tân Long, nay nền cũ vẫn còn (xem rõ hơn ở phần Cương vực chí).

Luỹ Hoa Phong ở huyện Bình Dương, cách về phía tây của trấn 62 dặm rưỡi [33,75km]. Năm Canh Thìn đời Hiển Tông thứ 10 (1700) (10), Thống suất Chưởng cơ Nguyễn Lễ bình định Cao Miên rồi về đắp nên, nay nền cũ vẫn còn.

Đồn Tân Châu Tân Châu là địa đầu trọng yếu kiêm quản cả 3 đạo Tân Châu, Chiến Sai và Hùng (Hồng) Ngự. Đạo chính thức ngày trước thuộc về thành lớn Gia Định đặt ở giữa sông Doanh Châu (…) Năm Gia Long thứ 17 (1818) (…) Trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân đắp đồn vuông Tân Châu, mỗi mặt dài 15 trượng [60m], cao 6 thước 5 tấc ta [2,5m], chân dày 15 thước ta [6m] đầu thu hẹp 4 thước [1,6m] có hai cấp; chỗ ngay giữa của 4 mặt đồn đều đắp nhọn ra thành hình bát giác, phiá trái và phải gần trước góc nhọn ấy đều có cửa làm chỗ cho biền binh phòng trú. Quy cách đồn Chiến Sai cũng phỏng theo đồn này, chỉ đồng Hồng Ngự hơi kém hơn, chỉ để làm nơi tuần tra chưa xây thành đồn luỹ…

Chợ Bến Thành Phố, chợ, nhà cửa rất trù mật, họp chợ dọc ven sông. Ở đầu bến, theo lệ tháng đầu xuân gặp nhằm ngày tế mã, có thao diễn thuỷ binh. Bến này có đò ngang đón chở khách buôn tàu biển lên bờ. Đầu phiá bắc là ngòi Sa Ngư, có bắc cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có phố bằng ngói, tụ tập hàng trăm thức hàng hoá, dọc bến sông thuyền buôn lớn nhỏ đậu nối liền nhau…

Luỹ Tân Hoa Ở thôn Tân Hoa, tổng Chánh Mỹ [Biên Hoà]. Năm Tân Mão (1771), trấn Hà Tiên thất thủ, quan đốc chiến Nguyễn Đàm đắp lũy để phòng ngự đường tiến của sơn man Thuỷ Vọt, nền cũ nay vẫn còn.

Đồn Mỹ Tho Ở phiá nam trấn chừng một dặm, trước kia đây là rừng hoang, là hang ổ của hùm beo. Năm Nhâm Tý (1792) thời Trung hưng mới đắp đồn vuông [do Trần Văn Học vẽ], chu vi 998 tầm [2,455km] có mở 2 cái cửa bên phải và trái, ở cửa có cầu treo bắc ngang, hào rộng 8 tầm [19,68m], sâu 1 tầm [2,46m], bốn mùa đều nước ngọt, có nhiều cá tôm, dưới cầu có dòng nhỏ để thông với sông lớn Mỹ Tho, ngoài hào có đắp lũy đất có cạnh góc lồi lõm như hình hoa mai, mặt trước chân luỹ ra 30 tầm [73,80m] đến sông Lớn. Trong đồn có kho gạo, kho thuốc súng, trại quân và súng lớn, tích trữ đầy đủ nghiêm túc. Mặt sông rộng lớn, năm Giáp Dần (1794) trên đồn đạt súng lớn, có bắn thử qua bờ sông bên kia, cách xa 10 dặm [5,4km] mà cây cành trong rừng đều bị trốc gẫy, ấy là do đường đạn đi mạnh thế…

Trấn Vĩnh Thanh Vào tháng 2 năm Quý Dậu, niên hiệu Gia Long 12 (1813), khâm mạng, Trấn thủ Lưu Phước Tường, đắp thành đất. Lưng hướng Kiền (hướng tây bắc), mặt hướng Tốn (hướng đông nam), từ phiá nam qua phiá bắc cách 200 tầm [492m], từ đông qua tây cũng vậy, chỗ giữa của bốn mặt thành lõm vào, phiá ngoài có thành cong bao vòng chỗ cửa hình như đầu cái khuê (một dụng cụ để đong ngày xưa, cũng có nghiã là ngọc khuê, chưa rõ tác giả muốn ví với cái nào), bốn góc thành có sừng nhọn như hình kim quy, hay như hình hoa mai. Trong thành có hai con đường dọc, 3 con đường ngang, trước dựng hành cung, ở giữa là 3 công thự, sau có kho chứa, trại quân và nhà thừa ty đều ở hai bên phải và trái. Hào rộng 10 tầm [24,6m], phiá trái thành là sông Long Hồ, phiá phải là Ngư Câu (Rạch Cá), mặt sau là dòng sông lớn Tiền Giang, mặt trước thành có đào ngòi cừ sâu, dài 425 tầm [1,045km], bề ngang 40 tầm [88,40m] thông với sông Long Hồ và Ngư Câu để làm hào ngoài thành. Góc thành phiá Đông có đường cái quan dọc theo sông, phiá trái là sứ quán, phiá phải là chợ Vĩnh Thành, ngòi chẩy ngang đầu đường cái quan, bắc cầu dài, đi ngang lỵ sở cũ, qua cầu sông lớn Long Hồ. Ở ngoài bờ ngòi góc phiá nam là xưởng thuỷ quân, bên ngoài có đồn nhọn góc ba mặt bao theo, góc phiá tây nam ngòi có bắc cầu thông qua, mặt sau giáp sông, có nhà cửa tiệm quán, thật là nơi trọng yếu bề thế đẹp đẽ.

Đồn Châu Đốc Ở phiá đông sông Vĩnh Tế thuộc Hậu Giang, cách trấn về phiá tây 326 tầm [799,96m]. Niên hiệu Gia Long 14 (1815), Trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường phụng sắc điều quân dân trong trấn hạt gồm 3000 người, mỗi tháng cấp cho mỗi người 2 quan tiền và một vuông rưỡi gạo. Ngày 2/1/1816 (4/12 ÂL) khởi công đắp đồn hình lục giác, từ trước đến sau 324 tầm [797,04m] từ trái qua phải 164 tầm [403,44m], hai bên phải trái đều có hai cửa, mặt sau một cửa, bề cao 7 thước ta [2,5m], chân dầy 6 tầm [14,76m], ngọn túm bớt 5 thước ta [2m], có hai bậc, lưng tựa hướng Kiền, mặt hướng Tốn, phiá phải giáp sông lớn, 3 phiá trước sau và trái có hào rộng 20 tầm [49,20m], sâu 11 thước ta [4,4m], thông với sông cái. Trong đồn có phòng lính ở, kho chứa, súng lớn và quân khí đầy đủ, lấy quân trong 4 trấn và đồn Oai Viễn mỗi phiên 500 người đến đóng giữ, nằm ngang đối diện có đồn Tân Châu ở Tiền Giang cách về phía đông 32 dặm rưỡi [17,55km], phiá tây cách trấn Hà Tiên hơn 203 dặm [109,620km], phiá bắc cách thành Nam Vang 244 dặm rưỡi [131,03km] thật là một nơi biên phòng trọng yếu vậy.

Đồn Châu Giang Trước là thủ sở Châu Đốc, ở đầu mõm cồn là vùng đất bị nước vỗ chụp, thường bị nước lụt xoáy mạnh sụt lở, mà lại sóng gió ì ầm, thương thuyền đến dừng nghỉ không tiện. Mùa xuân niên hiệu Gia Long thứ 17 (1818), vua ban chỉ cho Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân xem xét địa điểm, dời lên vùng thượng lưu cách chỗ cũ một dặm, đắp đồn vuôn, tựa hướng Quý (hướng bắc) mặt trông đến hướng Đinh (hướng nam) mỗi mặt 30 tầm [73,80m], cao 6 thước 5 tấc ta [2,6m] chân dày 3 tầm[7,38m], ngọn túm bớt 4 thước ta [1,6m], chỗ chính giữa mặt đồn đều đắp nhọn ra như hình bát giác. Mặt phải mặt trái chỗ gần góc mặt tiền đều mở một cửa, hào rộng 3 tầm [7,38m], có luỹ dày 4 tầm [9,84m], mặt trước bên phải cách sông 35 tầm [86,10m], đổi tên là đồn Châu Giang, làm chỗ đóng quân để phòng thủ.

Trấn Hà Tiên Trấn thự Hà Tiên, nằm hướng Kiền (tây bắc) trông ra hướng Tốn (đông nam) lấy núi Bình Sơn làm gối, Tô Châu làm tiền án, biển cả Minh Hải làm hào phiá nam, Đông Hồ làm hào phiá trước, ba mặt có luỹ đất từ Dương Chử đến cửa hữu dài 112 trượng rưỡi [450m], từ cửa hữu đến cửa tả dài 153 trượng [612m], từ cửa tả đến xưởng Thuyền ra Đông Hồ 308 trượng rưỡi [1,234km] các luỹ này đều cao 4 thước ta [1,6m], dày 7 thước ta [2,8m], hào rộng 10 thước ta [4m]. Ở giữa làm công thự, vọng cung lại ở trước công thự, hai bên đặt dãy trại quân, trước sân có cầu Bến Đá, phiá trái có sứ quán, phiá phải có công khố. Dinh Hiệp trấn ở chân núi Ngũ Hổ, ngoài vọng cung về phiá trái có chợ trấn, phiá trái công thự có đền Quan Thánh, sau thự có chùa Tam Bảo. Bên trái chùa có đền thờ Mạc công. Chợ trấn trông về đông là bến hồ, ở đó có trại cá, phiá bắc công khố là miếu Hội Đồng, phiá bắc miếu có xưởng sửa thuyền, chia thành khu ngang dọc, lấy đường lớn làm ranh; phiá tả miếu Quan Thánh là phố Điếu Kiều, đầu bến có bắc cầu ván thông ra biển tiếp với hòn Đại Kim, phiá đông phố Điếu Kiều là phố chợ cũ, qua phiá đông chợ này là phố chợ Tổ Sư, kế nữa là phố lớn, tất cả đều do Mạc Tông gầy dựng từ trước. Đường sá giao nhau, phố xá nối liền, người Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Chà Và đều họp nhau sinh sống, ghe thuyền ở sông biển qua lại nơi đây như mắc cửa, thật là nơi đại đô hội ở dọi biển vậy.

(Trích Gia Định Thành thông chí, Thành trì chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, điện tử)